MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP GIÁO VIÊN KHỐI 1
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã
hội đều quan tâm, bởi vì “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”,
để ngày mai thế giới có những chủ nhân tốt, xã hội có những công
dân tốt thì ngay từ ngày hôm nay chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có
kiến thức cơ bản về tự nhiên xã hội và có phẩm chất đạo đức của
con người để các em được học lên các cấp học trên dễ dàng. Nhiệm
vụ giáo dục học sinh luôn luôn được xã hội quan tâm nhưng quan
trọng hơn cả vẫn là nhà trường, đặc biệt là trường tiểu học. Bởi vì
nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là nơi kết tinh
trình độ văn minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Đứa
trẻ ngày hôm nay và mai sau trở thành những người như thế nào là
tuỳ thuộc rất nhiều vào cấp tiểu học các em được học những gì.
Trong thời gian này xã hội đang nói rất nhiều về giáo dục, về
chất lượng học sinh lên lớp, về những học sinh ngồi nhầm lớp từ
khi có cuộc vận động “ hai không” của Bộ trưởng Bộ giáo dục.
Những người làm quản lý giáo dục như tôi không khỏi suy nghĩ
phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất
lượng, những lí do trên đã thôi thúc tôi cần phải có kế hoạch và
biện pháp cụ thể góp phần đưa chất lượng học sinh trong nhà
trường đạt hiệu quả tốt. Là phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn
của trường, cùng với Ban giám hiệu, công việc chủ yếu là chỉ đạo,
dự giờ theo dõi việc giảng dạy của giáo viên ở tất cả các khối lớp,
nhưng tôi đặc biệt chú trọng đến khối lớp Một vì lớp Một là lớp rất
quan trọng ở tiểu học, nếu các em không đọc thông viết thạo thì các
em làm toán cũng rất khó khăn và học các môn học khác cũng rất
chậm, như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị hổng kiến thức. Từ
thực tế qua một năm chỉ đạo và theo dõi về chuyên môn tôi đã chọn
đề tài: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối Một nâng cao
chất lượng dạy môn Tiếng Việt.
II.NHỮNG KHÓ KHĂN:
1
Qua quá trình chỉ đạo và theo dõi tôi nhận thấy chất lượng dạy
môn Tiếng Việt của khối lớp Một đạt hiệu quả chưa cao có rất
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu mà một số học
sinh lớp Một đến cuối năm đọc, viết vẫn còn chậm tập trung vào
những nguyên nhân sau đây:
1. Đối với giáo viên: Vận dụng phương pháp dạy học chưa
phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất lượng chưa cao, một
số giáo viên chưa nhiệt tình giúp đỡ học sinh.
2. Đối với học sinh: Bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười
học; do hoàn cảnh gia đình.
3. Đối với phụ huynh: Một số gia đình không quan tâm đến
con em mình, phó mặc khoán trắng cho nhà trường.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN:
Học sinh lớp Một khi mới vào trường tiểu học các em còn rất bỡ
ngỡ và mọi thứ còn rất mới lạ, trong thời gian đầu các em được học
những gì và được dạy gì phụ thuộc phần lớn vào thầy cô ở trường
nên để dạy cho các em các môn học nói chung và môn Tiếng Việt
nói riêng có hiệu quả ngay từ năm đầu cấp đòi hỏi người giáo viên
phải luôn tìm hiểu và nghiên cứu những phương pháp dạy học cho
phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được hoàn cảnh của các
em, hiểu được tâm lý các em và đòi hỏi phải có sự nhiệt tình tâm
huyết của người thầy
Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu tôi yêu cầu giáo viên
mỗi lớp phân loại học sinh bắt đầu từ cuối tháng 9 cụ thể như sau:
*Tổng số học sinh toàn khối: 272 em
Học sinh đọc, viết theo chuẩn: 150 em
Học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn: 100 em
Học sinh chưa đọc, viết được, một số em chưa biết
cầm bút: 22 em.
Từ những số liệu về tình hình học sinh mà các giáo viên khối
Một báo lại, cùng với quá trình đi dự giờ để tìm hiểu rõ nguyên
nhân nào các em lại đọc, viết còn chậm so với yêu cầu chuẩn, tôi
cùng Ban giám hiệu nhà trường họp giáo viên khối Một bàn bạc để
có những giải pháp cụ thể và tiến hành ngay để làm sao nâng dần
chất lượng dạy môn Tiếng Việt cho các em học sinh lớp Một.
2
1. Giải pháp thứ nhất: Giúp giáo viên vận dụng linh hoạt
phương pháp dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh; giáo viên
cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh.
1.1 Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:
-Yêu cầu giáo viên phân loại học sinh trong lớp thành những
nhóm đối tượng như sau:
• Nhóm 1: Gồm những học sinh chậm, yếu
• Nhóm 2: Gồm những học sinh trung bình
• Nhóm 3: Gồm những học sinh khá
• Nhóm 4: Gồm những học sinh giỏi
-Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3,4 thành tên khác như
nhóm A,B,C,D…Trong quá trình dạy giáo viên vẫn phải lấy chuẩn để
làm thước đo nhưng ở các tiết ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều giáo
viên yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ với 4 mức khác nhau trong
cùng một giờ học.
Ví dụ: Nhóm 1 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 3
và 4. Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương
này. Chẳng hạn bài 46 vần ÔN, ƠN các em chỉ cần viết ôn, ơn, con
chồn, sơn ca, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở
nhóm 3, 4 viết nhiều hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở
nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu cầu chuẩn.
-Ban giám hiệu chúng tôi thống nhất trong các giờ học đàn cho
những em học sinh chậm, yếu ở lại phòng học, giáo viên tiếp tục kèm
cho các em đọc, viết nội dung nào các em còn yếu.
1.2 Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh,
vật thật….cho học sinh học chậm.
-Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng
tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình
vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử
dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên
tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội
dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực
hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho
học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà
chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có
tác dụng rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, nhất
là các em học sinh học chậm.
3
Ví dụ: Ở những bài học về vần. Chẳng hạn như Bài 41 trang 86
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Dùng trang vẽ ( hoặc vật thật) trái
lựu; Tranh con hươu sao để học sinh quan sát và tìm ra từ khoá sau
khi các em đã nhận diện vần ưu và ươu ở phần đầu tiết học. Từ những
hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và nhớ chính xác hơn các vần và
các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật thật đến vần của
bài học.
Như vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học
sinh nhớ vần và từ tốt hơn.
-Ngoài ra dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói
ở các tiết tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 – học kì II.
Ví dụ: Bài Chuyện ở lớp – Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1
tập II – Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: Có vần uôc. Giáo viên
treo tranh một người đang tuốt lúa – Giáo viên hỏi nội dung bức tranh,
sau đó cho các em nói câu có vần uôt, động viên các em học chậm nói
trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được như: Mẹ (cô, chị, dì)
đang tuốt lúa hoặc là máy tuốt lúa. Dùng tranh, ảnh trong các phần
này tôi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học chậm, các em
vừa nói được câu có vần cần tìm và còn hiểu được nghĩa của câu đó.
Tuy nhiên các em học sinh khá, giỏi nói các câu khác cũng có vần uôt
như con chuột, sáng suốt mà không cần dựa vào tranh.
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng
khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho
học sinh khá giỏi lại vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học
sinh học chậm.
1.3 Người giáo viên cần có lòng nhiệt tình, luôn quan tâm
giúp đỡ học sinh.
Tôi luôn giải thích cho giáo viên dạy khối Một hiểu rằng các em
học sinh lớp Một mới từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến
thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học, giáo viên phải
nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ
trong giờ học, một lời nhận xét động viên các em giúp các em thấy tự
tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh quát
mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không
được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi
xuống bên học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa
được nhắc nhở các em, chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học
chậm cần nhắc lại hay bắt tay các em để các em viết cho đúng. Làm
4
sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Giáo viên phải
gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của mình, để hình
ảnh ân cần của cô luôn là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em, bản
thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng
kể cho cô nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong
học tập hay trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cô giúp đỡ.
-Ví dụ: Em Lộc lớp ½ em viết rất hay sai, không đúng cỡ chữ,
không ngay hàng, một số chữ hay lẫn lộn trong 3 tháng đầu năm học.
Nhưng qua nhiều lần dự giờ và nhiều lần vào thăm lớp tôi thấy giáo
viên luôn đến tận nơi khi bắt tay, khi chỉ hàng cho em cùng với lời
khen dù chỉ là tiến bộ nhỏ nhất, tôi theo dõi hàng tháng để xem em đó
tiến bộ như thế nào, quả thật đến nay em Lộc đã tiến bộ rõ rệt, chữ
viết đã đúng, rõ ràng, thẳng hàng.
*Tóm lại : Qua việc chỉ đạo và theo dõi quá trình dạy học của
giáo viên toàn trường nói chung và giáo viên khối Một nói riêng, tôi
nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn phương pháp dạy học
thích hợp với từng trình độ học sinh của một lớp cùng với lòng nhiệt
tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học sinh
ngày một nâng lên.
2. Giải pháp thứ 2: Người giáo viên phải làm gì để học sinh
nhận thức chậm, hay quên; học sinh có hoàn cảnh gia đình học tốt hơn.
Có lẽ nguyên nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng
học sinh, qua dự giờ ở tất cả các lớp khối Một, những người làm quản
lý chúng tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi số học sinh này không
phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tôi nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để giúp
giáo viên khối Một dạy những học sinh này như thế nào cho đạt kết
quả tốt, không phải trong một tháng mà trong cả một năm học, có khi
cả trong hè.
2.1 Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên.
-Yêu cầu giáo viên chủ nhiệm phải phân loại và nắm được số
lượng dạng học sinh này, giáo viên cần có một phương pháp dạy và
dạy một lượng kiến thức phù hợp cho các em. Tuy nhiên với học sinh
cả lớp giáo viên vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn đấu, còn những
em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các em
không thể theo kịp, vì thế tôi yêu cầu giáo viên trước hết sắp xếp chỗ
ngồi cho các em phù hợp và có tác dụng thúc đẩy.
Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự
giúp đỡ từ bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc
5
lại câu của bạn nói, được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là
điều kiện rất tốt cho các em hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em
cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi cuối cùng của lớp, cần tạo điều
kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy những ưu điểm của
bạn
-Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về viết chỉ yêu cầu
các em viết một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể
viết nhiều dòng trở lên.
Ví dụ: Tiết tập chép bài: Mèo con đi học - Trang 105 Tiếng
Việt II, yêu cầu chuẩn học sinh chép 8 dòng thơ đầu, nhưng đối với
học sinh chậm chỉ yêu cầu các em chép 4 dòng, bên cạnh đó giáo viên
phải theo dõi sát các em, uốn nắn và hướng dẫn cụ thể cho các em.
-Về đọc tăng cường gọi các em nhắc lại nhiều lần nếu là vần,
đọc nhiều lần nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ.
-Ngoài ra yêu cầu giáo viên cần có kế hoạch về thời gian để kèm
cặp, phụ đạo học sinh này, mỗi lớp phải sắp xếp thời gian cho phù hợp
và phụ đạo cho học sinh có chất lượng, cụ thể các tiết ôn tập buổi
chiều các em học giỏi, khá tự làm các yêu cầu giáo viên giao và các
em ngồi cùng bàn theo dõi lẫn nhau, khi đó giáo viên phải quan tâm
đặc biệt tới những em học chậm theo dõi sát khi các em đọc, viết, cho
các em đọc nhiều hơn, động viên các em mỗi khi các em đọc tốt. Vào
các tiết học đàn có thể cho các em này ngồi tại lớp để hướng dẫn các
em viết cho đúng và đẹp cũng như luyện cho các em đọc nhiều lần.
Để kiểm tra điều này tôi thường xuyên thăm lớp vào các tiết ôn
buổi chiều, tiết học đàn của khối Một. Sau mỗi tháng cần rút kinh
nghiệm và nghe giáo viên báo cáo sự tiến bộ của các em, tôi thường
động viên toàn thể giáo viên cần có lòng nhiệt tình, kiên trì với những
học sinh này.
2.2 Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình như mồ
côi, cha mẹ bất hoà, cuộc sống khó khăn.
-Nguyên nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh,
trong quá trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết
bài, ngồi ngơ ngác có khi còn ngủ gật, không chú ý cô giảng bài…Đối
tượng học sinh này cần được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh
thần. Vì vậy muốn các học sinh này học tốt giáo viên phải nắm được
hoàn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện pháp cụ thể để dạy
các em.
6
-Để giúp giáo viên về biện pháp dạy và tạo điều kiện tốt cho các
em học tập, tôi bàn với Ban giám hiệu trường chủ động tham mưu với
hội phụ huynh học sinh, các cơ quan đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật
chất như tập, đồ dùng, quần áo.
Như: Tặng cho các em sách vở, quần áo, đồ dùng học tập. Cần
động viên các em trong mọi hoạt động nhất là với những em mồ côi,
gần gũi quan tâm các em khi các em bệnh, ốm, tạo không khí thoải
mái trong học tập, để các em thấy cô giáo là người mẹ thứ hai của
mình, các em không còn thấy cô đơn khi tới trường.
Ví dụ: Lớp 1/6 có em Vũ cha mẹ em đều bị bệnh và qua đời,
giáo viên có báo lại em hay nghỉ học, đến lớp ngồi một mình không
tham gia hoạt động cùng với các bạn, em học kém, hay quên tập vở.
Tôi luôn nhắc giáo viên của em Vũ nên gần gũi, động viên em, khi
thấy em nghỉ học không lí do cần đến nhà gặp gia đình của em, giúp
em cùng chơi và hoà nhập với các bạn. Đồng thời giáo viên cho em để
một số sách vở ở lớp để em khỏi quên như tập hát, tự nhiên xã hội, vở
bài tập các loại. Một vài lần kiểm tra, tôi thấy em Vũ cũng đã tiến bộ
nhiều, em vui hơn khi tham gia chơi cùng bạn bè và không còn ngồi
buồn nữa.
*Tóm lại: Đối với học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, giáo viên cần
quan tâm, giúp đỡ, động viên các em giúp các em tự tin trong học tập
và hoà nhập với cộng đồng, cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh
thần
3. Giải pháp thứ 3: Làm thế nào để phụ huynh quan tâm
tới con em mình không khoán trắng cho nhà trường và thấy được
sự phối hợp giữa nhà trường và gia dình là rất cần thiết.
Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là
xong nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy
cô giáo, có những em bị bệnh nhưng cha mẹ không hề biết vẫn cho
con đi học có khi các em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả
khi các em bị ốm mà phụ huynh cũng không quan tâm tới các em. Với
các trường hợp này đòi hỏi giáo viên cần phải thường xuyên liên lạc
với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập
của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và
nhà trường. Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm
tra bài vở của các em sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học
những môn nào, các em có ghi chép đủ không, giúp các em soạn sách
vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm tra nhắc nhở các em việc soạn
sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần
7
ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Còn giáo viên ngoài họp phụ huynh theo
kế hoạch chỉ đạo định kì chung 3 lần/ năm học, phải thường xuyên
liên lạc với phụ huynh học sinh bằng phiếu liên lạc hay trực tiếp trao
đổi với phụ huynh khi cần thiết. Bên cạnh đó giáo viên cần phối hợp
với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng của lớp giúp đỡ.
Ví dụ: Lớp 1/5 của có 4 em thường xuyên quên mang tập vở,
không học bài ở nhà, lần họp phụ huynh đầu tiên cha mẹ của các em
không đi. Sau khi nghe giáo viên chủ nhiệm báo lại tình hình như vậy,
tôi đã bàn với Ban giám hiệu nhà trường giúp đỡ giáo viên tìm ra
nguyên nhân và biện pháp giúp giáo viên dạy cho tốt các em học sinh
đó như liên lạc trực tiếp với phụ huynh, đến tận nhà thông báo tình
hình học tập của các em và nhờ phụ huynh tiếp tay với nhà trường,
bản thân tôi gặp trực tiếp hai lần trao đổi với bố mẹ của các em đó để
phụ huynh hiểu được vai trò của gia đình trong việc dạy các em là rất
quan trọng, mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình không thể tách
rời nhau. Thời gian sau cha mẹ 4 em đó đã quan tâm tới các em hơn
và thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm, kì họp phụ huynh
lần hai cha mẹ các em đi đầy đủ. Sau một thời gian giáo viên báo lại 4
học sinh đó có tiến bộ rõ rệt, cho đến nay cả 4 em đều học khá tốt.
*Tóm lại: Giáo viên cần giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ
huynh học sinh, cần nhiệt tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó
tính, phải thường xuyên trao đổi và cả tư vấn cho phụ huynh hiểu
được quá trình học tập của các em tốt phải có sự hỗ trợ quan tâm từ
phía gia đình.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau một năm học với nhiệm vụ chỉ đạo, theo dõi và giúp đỡ giáo
viên khối Một trong quá trình dạy học nói chung và dạy môn Tiếng
Việt nói riêng, tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được
nâng lên, kết quả cuối năm ( cuối tháng 4/2007), cụ thể như sau:
Phân loại học sinh
Học kì I Cuối học kì II
Tổng số học sinh Tổng số học sinh
270 267
Học sinh đọc, viết tốt
90 117
Học sinh đọc, viết theo chuẩn
100 140
Học sinh đọc, viết chậm so với chuẩn
75 10
Học sinh chưa đọc, viết được một số
vần, tiếng khó
5 0
8
Ngoài số liệu trên tôi còn nhận thấy rõ kết quả cụ thể của giáo
viên và học sinh.
* Giáo viên biết vận dụng khéo léo và vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của
lớp.
* Tìm hiểu rõ được nguyên nhân và hoàn cảnh của các em,
giáo viên chủ động bàn bạc với Ban giám hiệu nhà trường với các
thành viên trong tổ khối tìm giải pháp hợp lí, sẵn sàng nhiệt tình giúp
đỡ các em .
* Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác
học và có rất nhiều cố gắng nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt, các
em có bệnh lí đồng thời các em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu
thương của thầy cô, biết hoà đồng cùng các bạn, biết chia sẻ những
vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các em tự tin trong học tập
và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
* Làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà để
chất lượng học tập ngày một tốt hơn.
* Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong
quá trình giáo dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các
em nhiều hơn, thường xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu
được tầm quan trọng của sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau:
* Người quản lí trong nhà trường phải chuyên tâm, say sưa,
nhiệt tình trong công việc, không ngừng học tập để nâng cao kiến thức
và năng lực lãnh đạo trong việc quản lí các hoạt động giáo dục trong
nhà trường.
* Đoàn kết, thống nhất từ Ban giám hiệu cho đến các giáo
viên.
* Có kế hoạch chỉ đạo và thường xuyên giúp đỡ giáo viên
trong quá trình giải quyết những khó khăn.
* Có kiểm tra theo dõi, đánh giá rút kinh nghiệm sau từng
đợt kiểm tra.
* Dự giờ, thăm lớp đột xuất để đánh giá giáo viên trong quá
trình giảng dạy và nắm được tình hình học tập của học sinh.
* Cần mềm mỏng, khéo léo, động viên giáo viên trong giảng
dạy, nhưng cương quyết trong quá trình chỉ đạo.
9
* Biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ giáo viên
trong quá trình triển khai biện pháp.
* Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội.
V.KẾT LUẬN:
Nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo con người cho ngày hôm nay và
cho mai sau là làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có tư
duy sáng tạo và thực hành giỏi, muốn thực hiện được yêu cầu này đòi
hỏi người quản lí trong nhà trường nói chung và trường tiểu học nói
riêng phải chú trọng đặc biệt ngay ở khối lớp Một bởi vì lớp Một là
lớp quan trọng nhất ở khối tiểu học, hết lớp Một các em phải đọc, viết
thành thạo thì các em mới làm tính nhanh và học lên lớp trên có chất
lượng. Chất lượng dạy và học chính là thước đo giá trị của nhà trường,
để mục đích cuối cùng tạo một nguồn nhân lực bao gồm những con
người có đức có tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, được chuẩn bị
tốt về văn hoá. Để hoàn thành nhiệm vụ này người quản lí phải tâm
huyết với nghề, luôn tìm tòi và có biện pháp cụ thể trong quá trình chỉ
đạo, giúp đỡ giáo viên cùng tìm ra giải pháp hợp lí, vận dụng các
phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao
chất lượng dạy học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng, tạo tiền đề
tốt cho các em học lên các lớp trên.
Trên đây là một vài kinh nghiệm trong quá trình lãnh, chỉ đạo,
giúp đỡ giáo viên khối Một nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt. Tôi
hy vọng với kết quả đạt được ở trên sẽ góp phần nhỏ bé nâng dần chất
lượng dạy và học của nhà trường ngày một tốt hơn.
Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thành, tôi xin cảm ơn sự
phối hợp thống nhất và sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà
trường, các đồng chí giáo viên khối Một.
Kiên Lương, ngày 12 tháng 5 năm 2007
Người thực hiện
Lê Thị Xuân Huệ
10
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN KIÊN LƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN KIÊN LƯƠNG1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP GIÁO VIÊN
KHỐI 1 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN
TIẾNG VIỆT
Người thực hiện: Lê Thị Xuân Huệ
Chức vụ: Phó Hiệu Trưởng
Đơn vị: Trường Tiểu học Thị trấn Kiên Lương 1
11
Kiên Lương, tháng 5 năm 2007
12