Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

tóm tắt nghiên cứu các truyện thiền sư trong tam tổ thực lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.74 KB, 38 trang )

2.1. KIỂU KẾT CẤU BỐN GIAI ĐOẠN NHƯ LÀ ĐẶC TRƯNG CỦA LOẠI TIỂU
TRUYỆN THIỀN SƯ
2.1.1. Về khái niệm “tiểu truyện thiền sư”
Hiện nay, khái niệm “tiểu truyện thiền sư” đang ngày càng trở nên quen thuộc
và được vận dụng rộng rãi.
Theo định nghĩa của Nguyễn Hữu Sơn, “khái niệm “tiểu truyện thiền sư” là sự
chuẩn hóa hơn nữa cách gọi “truyện thiền sư” nhằm để chỉ loại truyện thiền
sư được viết theo nguyên tắc tiểu sử. Ở đây, bản thân chữ “tiểu truyện” không
nhằm vào sự liên hệ, so sánh mức độ với các chữ “đại”, “đoản thiên”, “trường
thiên tiểu thuyết” chẳng hạn, mà chủ yếu bao hàm ý nghĩa là tiểu sử, truyện
tiểu sử, tiểu sử thiền sư, Phật tích … ” [56, tr.32].
Như vậy, theo định nghĩa này thì các cách gọi khác nhau của cùng một kiểu
truyện ghi chép tiểu sử của các thiền sư trước đây vẫn dùng như “truyện
thiền sư”, “truyện các nhà sư”, “sự tích thiền sư”, “ghi chép về các thiền sư”,
“truyện kể thiền sư”, “hành trạng thiền sư”, “cuộc đời thiền sư” … đều thống
nhất là một và được gọi chung là “tiểu truyện thiền sư”. Các sách như Nam
tông tự pháp đồ (thiền sư Thường Chiếu, hiện không còn), Thiền uyển tập
anh, Thánh đăng lục, Tam tổ thực lục… đều được xem là thuộc loại “tiểu
truyện thiền sư”.
Khái niệm “tiểu truyện thiền sư” chúng tôi dùng ở đây cùng thống nhất cách
hiểu như trên.
2.1.2. Kết cấu chung của ba truyện tổ
Một trong những đặc trưng cơ bản của các tiểu truyện thiền sư là cốt truyện
được kết cấu theo bốn giai đoạn: sự ra đời thần kì, quá trình giác ngộ, công
tích hành đạo - giáo hóa và qui tịch (riêng Nguyễn Hữu Sơn trong Loại hình
tác phẩm “Thiền uyển tập anh” chia làm ba giai đoạn: khi sinh, quá trình
hành đạo và sự trở về cõi Phật [56]). Tuy nhiên, trong mỗi tiểu truyện cụ thể,
có thể khuyết đi một trong số những giai đoạn đó. Tam tổ thực lục, mặc dù
không có sự thống nhất về nguồn gốc văn bản ở các tiểu truyện như đã trình
bày, dẫn đến sự cách biệt khá xa về bút pháp biên lục nhưng đều thống nhất
nhau ở phương thức kết cấu cốt truyện này.


2.1.2.1. Sự ra đời thần kì
Sự ra đời thần kì được xem là một thứ “lễ tiết” cần phải có của một số tiểu
truyện thiền sư. Điều này có truyền thống, gốc rễ sâu xa trong văn hóa Phật
giáo. Theo đó, hầu hết các nhân vật thiền sư khi sinh ra đều gắn với một hiện
tượng kì lạ, nhằm ngụ ý về nguồn gốc thần thánh của họ, phù hợp với yêu cầu
truyền bá và tạo niềm tin tôn giáo.
B.L.Ríp-tin từng nêu lên vấn đề này như là một đặc trưng của văn học trung
đại:
Một đặc điểm tiêu biểu khác của văn học trung cổ là sự hiện hữu của thứ lễ
tiết văn học étiquette líttéraire tức một quan niệm về sự “lịch thiệp” văn học
(décence) mà theo đó các hình tượng nhân vật (thường là có tính chất lí
tưởng hóa) được sáng tạo ra chẳng hạn như vua chúa và các quan đại thần
trong lịch sử. Từ đó mới có sự nhất thiết phải miêu tả sự ra đời thần kì và thời
thơ ấu anh hùng cũng như rất nhiều điểm nói lên tính chất ưu việt của nhân
vật và tiên đoán ngôi báu sẽ thuộc về người đó. (Trong một loạt triều đại lịch
sử thời trung cổ ở Trung Quốc, nhà vua được miêu tả bằng những lễ tiết vay
mượn từ kinh Phật, mà trong đó chúng được áp dụng đối với chính đức Phật
Thích Ca Mâu Ni) [50, tr.116-117].
Và đương nhiên, với chức năng tôn giáo, Tam tổ thực lục còn cần hơn nữa
một thứ “lễ tiết” như vậy. Các nhân vật thiền sư trong Tam tổ thực lục đều
được sinh ra gắn với một điềm mộng và những hiện tượng lạ, đậm màu sắc
huyễn ảo của tôn giáo.
Những giấc mộng tiên tri …
Sự ra đời thần kì của Trần Nhân Tông gắn với giấc mơ kì lạ của mẹ ngài là
Nguyên Thánh Hoàng thái hậu: “Trước đó, Nguyên Thánh Hoàng thái hậu
nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm, bảo: “Có lệnh của thượng
đế, cho phép ngươi được chọn lấy”. Vì ngẫu nhiên được cây kiếm ngắn, thái
hậu bất giác mất vui, do đó có thai” [57, tr.17].
Sự ra đời của Pháp Loa cũng được lí giải bằng một giấc mộng: “Trước đó, vào
tháng 8 năm Quý Mùi (1283), mẹ sư là Vũ Thị, đêm nằm mộng thấy dị nhân

giao cho kiếm thần, bà vui mừng ôm vào lòng, đến khi thức giấc, bà biết có
thai” [57, tr.37].
Về Huyền Quang cũng thế:
Mẹ tổ là Lê Thị, vốn là người đàn bà hiền đức, chiều chuộng chồng con, kính
thờ cha mẹ chồng. Năm 30 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, nên thường đến
cầu nguyện tại chùa Ngọc Hoàng. Chùa này cầu nguyện thường được linh
ứng. Đời vua Thánh Tông (1258 – 1278), đất nước mất mùa, nhân dân bị
bệnh dịch. Một hôm, Lê Thị đến núi Chu Sơn hái thuốc, vừa tới chùa Ma Cô
Tiên thì gặp lúc trời hè nắng gắt, bà liền nghỉ dưới bóng chùa. Gió đông phe
phẩy, nhật gác non tây, chợp mắt mơ màng, bà bỗng thấy một con khỉ lớn,
đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng bào, ôm mặt trời hồng ném vào
lòng bà. Lê Thị kinh hãi thức giấc, thấy lòng rung động, trở về thuật lại với
một vị tôn túc. Vị này bảo: “Trong núi ấy có động Thân Dương, đã làm cho
tinh anh của loài khỉ kia không tan biến, nên có điềm mộng ấy, chớ lấy làm
lạ”. Nhân đó, ông suy đoán: ném mặt trời vào bụng là điềm Lê Thị sẽ có thai.
Năm sau, thuộc năm Giáp Dần vào ngày đầu năm, thầy trụ trì chùa Ngọc
Hoàng là thiền sư Tuệ Nghĩa, sau khi lên chùa tụng kinh trở về liêu phòng,
tựa ghế thiền định, ông bỗng mơ thấy các tòa trong chùa đèn chong sáng rực,
chư Phật tôn nghiêm, kim cang long thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ tôn
giả A-nan bảo: “Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông đô, và phải nhớ duyên
xưa”. Bỗng tiểu đồng từ ngoài vào gõ cửa, Tuệ Nghĩa chợt tỉnh, liền ngâm kệ
rằng:
“Người đời học đạo khá xa xăm!
Tâm tức Phật chừ, Phật tức tâm.
Trí tuệ cát tường gây ảnh hưởng,
Kiếp này ắt gặp bạn tri âm”.
Rồi thiền sư viết bài kệ ấy lên vách [57, tr.77-79].
Cách lí giải về sự ra đời của các thiền sư dựa trên một điềm mộng không phải
ngẫu nhiên mà xuất phát từ một truyền thống Phật giáo và có liên quan mật
thiết đến giai thoại về sự ra đời của chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni (về giấc

mộng thấy voi trắng chui vào sườn bên phải của phu nhân Maya). Những
chuyện mộng mị như thế không phải chỉ để tô vẽ cho sự ra đời của các vị tổ
thêm huyễn hóa, hư hư thực thực mà đằng sau đó có một ý nghĩa khác. Theo
đó, mỗi giấc mộng tiên tri chứa đựng những biểu tượng. Mỗi biểu tượng như
vậy lại mang một ý nghĩa riêng. Maya phu nhân nằm mơ thấy voi trắng vào
sườn hữu, ngầm báo bà sẽ sinh ra một đứa con là “cực tôn trong ba cõi”. Mẹ
của Trần Nhân Tông và Pháp Loa đều mộng thấy thần nhân hoặc dị nhân
trao cho kiếm báu. Thanh kiếm ở đây là một vật quí, thần nhân giao cho cất
giữ biểu tượng cho việc những người mẹ sẽ hoài thai một nhân vật đặc biệt,
có một sứ mệnh rất lớn đối với nhân thế. Việc mơ thấy được giao cho giữ
thanh kiếm báu được giải thích như là căn nguyên của sự thụ thai kì lạ. Hành
động trao cho thanh kiếm là hành động rất phổ biến trong văn hóa cả
phương Đông và phương Tây. Đó là biểu tượng của việc kí thác một trọng
trách, một sứ mệnh đặc biệt. Người nhận thanh kiếm sẽ thay mặt người trao
hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng nào đó, thông thường là một việc có
liên quan trọng đại đến số phận của quốc gia, dân tộc hoặc một cộng đồng
người rộng lớn.
Trường hợp thụ thai thiền sư Huyền Quang lại ứng với một giấc mộng khác.
Mẹ ông mơ thấy một con khỉ lớn đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng
bào bưng mặt trời đỏ ném vào lòng. Đây cũng là một dạng trao gửi, hình ảnh
con khỉ ở đây cũng có thể xem là dị nhân hoặc thần nhân, là một người kì dị
khác thường. Đặc biệt hơn, con khỉ này lại “đội mũ triều thiên”, “mặc áo
hoàng bào”, chứng tỏ nó là hình ảnh biểu tượng cho một đấng chí tôn. “Mặt
trời đỏ”, theo quan niệm Phật giáo, là điềm báo đứa bé được hoài thai sẽ là
“vua chuyển luân”. Bậc chuyển luân (chakravartin) là người xoay chuyển
bánh xe pháp, đưa con người ra khỏi sinh tử trầm luân. Sự ra đời của cậu bé
Lý Đạo Tái, sau này trở thành thiền sư Huyền Quang, được xem như có một ý
nghĩa rất to lớn đối với chúng sinh. Vì vậy mà điềm mộng tiên tri không chỉ
xảy đến với người mẹ mà còn ứng giáng vào một người khác là thiền sư Tuệ
Nghĩa. Huyền Quang, được điềm mộng ứng báo, là kiếp thác sinh của A-nan

tôn giả. Trong những Phật tích, hiện tượng Bồ-tát hoặc tôn giả thác sinh qua
nhiều kiếp sống để dẫn dắt chúng sinh là rất phổ biến. Đơn cử trường hợp sự
ra đời của Thích Ca, kinh điển Phật giáo cho rằng Thích Ca (Siddhartha
Gautama) là kiếp thác sinh của đại Bồ-tát Hộ Minh (Vessantara). Giấc mộng
của thiền sư Tuệ Nghĩa dường như không có ý nghĩa tượng trưng. Nó là một
điềm báo rõ ràng, có lẽ do ông là người tu hành lục căn thanh tịnh, thân tâm
định tuệ, không có tạp niệm nên điềm báo được sáng rõ.
Thông qua những giấc mộng, nguyên nhân sự ra đời của các vị tổ đã được
bao bọc trong một lớp màng kì ảo. Quá trình hoài thai do đó mà trở nên
thanh khiết và thoát tục. Đó được xem như là bước chuẩn bị cho sự khai sinh
của những nhân vật có ý nghĩa quan trọng của một thiền phái Phật giáo.
Những nhân vật này được gọi là “pháp khí”, tức những người có tư chất đặc
biệt có thể tu hành và đạt thành chính giác.
Khi so sánh với một số tiểu truyện thiền sư Ấn Độ, Trung Hoa trong Sử 33 vị
tổ thiền tông Ấn - Hoa, Thiền sư Trung Hoa (3 tập) (cùng do Thích Thanh Từ
soạn dịch từ các bộ Cảnh Đức truyền đăng lục, Truyền pháp chánh tông kí,
Cao tăng truyện, Phật tổ thống tải, Chỉ nguyệt lục) và Thiền uyển tập anh (do
Lê Mạnh Thát dịch) thì thấy có nhiều điểm tương đồng khi nói về sự ra đời kì
diệu của các thiền sư. Điều này cho phép khẳng định hơn nữa mối tương quan
giữa các truyện Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang trong Tam tổ thực
lục với các tác phẩm thuộc cùng loại hình và với truyền thống văn hóa Phật
giáo.
Ứng với giấc mộng được kiếm thần của Nguyên Thánh Hoàng thái hậu (mẹ
Trần Nhân Tông) và bà Vũ Thị (mẹ Pháp Loa) là các chi tiết có trong tiểu
truyện về tổ Bà Xứ Tư Đa (Basiasita): “Ngài dòng Bà-la-môn, người nước Kế
Tân, cha hiệu Tịch Hạnh, mẹ tên Thường An Lạc. Một hôm, bà Thường An Lạc
mộng thấy lượm được cây kiếm thần, sau đó có thai ngài” [76, tr.119]. Tiểu
truyện thiền sư Chân Không (1046 – 1100) trong Thiền uyển tập anh cũng có
chi tiết tương tự: “Khi mẹ (sư) mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao cho
tích trượng, nhân đó có được sư” [64, tr.141]. Ở đây, nên hiểu hình ảnh thanh

kiếm và tích trượng có ý nghĩa biểu tượng như nhau.
Ứng với giấc mộng thấy mặt trời của bà Lê Thị (mẹ Huyền Quang) là các chi
tiết có trong các tiểu truyện về tổ Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta): “Trước khi sanh
ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thuở bé,
ngài mặt mũi khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí tuệ minh mẫn” [76, tr.23].
Trong tiểu truyện về tổ Đề Đa Ca (Dhrtaka) cũng có chi tiết tương tự:
Nhơn (nhân) thân phụ ngài mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong
nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang
nghiêm bằng bảy báu, trên đỉnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn
khắp bốn phía. Sau đó mẹ ngài sinh ra ngài.
Ngài gặp Tổ Ưu Ba Cúc Đa bèn đem điềm mộng của cha thuật lại và nhờ giải
hộ. Tổ giải:
- Núi báu là thân ta. Suối nước tuôn là pháp vô tận, mặt trời xuất hiện trong
nhà là tướng ngươi vào đạo, ánh sáng chiếu khắp là trí tuệ siêu việt của
ngươi [76, tr.29].
Ngoài ra, ở nhiều tiểu truyện khác, tuy về chi tiết không trùng hợp với nhau
nhưng cũng lí giải sự ra đời của các thiền sư bằng giấc mộng. Có thể kể ra
một số truyện như thế: tiểu truyện về Bồ-tát Tu Bàn Đầu (Vasubandhu):
Ngài họ Tỳ Xá Khư ở nước La Duyệt, cha hiệu Quang Cái, mẹ là Nghiêm Nhất.
Nguyên gia đình ông Quang Cái giàu có mà không con. Hai ông bà đồng đi lễ
tháp Phật ở phía bắc thành La Duyệt để cầu con. Sau đó, bà mộng thấy nuốt
hai hạt châu một sáng một tối. Kế bà biết mình có thai [76, tr.99];
tiểu truyện về tổ Hặc Lặc Na (Haklena):
Ngài dòng Bà-la-môn sanh tại nước Nguyệt Chi, cha hiệu Thiên Thắng, mẹ là
Kim Quang. Ông Thiên Thắng đã lớn tuổi mà không con. Một hôm, ông đến
trước Kim Tràng thờ bảy đức Phật dâng hương lễ bái cầu con. Một hôm, bà
Kim Quang mộng thấy một vị thần đứng trên ngọn núi Tu Di, tay cầm vòng
ngọc, nói với bà: “Ta lại đây”. Khi thức giấc, bà biết có thai [76, tr.109];
tiểu truyện thiền sư Đức Thiều (881- 972): “Sư quê ở Long Tuyền, Xử Châu,
cha họ Trần, mẹ họ Diệp. Mẹ sư nằm mộng thấy một luồng sáng chạm vào

thân, nhân đó biết có thai. Đến khi sư ra đời, có nhiều điềm lạ” [73, tr.382];
tiểu truyện thiền sư Nghĩa Hoài: “Sư họ Trần, quê ở Lạc Thanh Vĩnh Gia, ông
cha chuyên nghề chài lưới. Mẹ nằm mộng thấy ngôi sao rơi trong nhà liền có
thai sư. Khi sư sinh ra có nhiều điềm lạ” [73, tr.422]; tiểu truyện thiền sư Pháp
Tú (? – 1090): “Sư họ Tân, quê ở Thành Lũng Tần Châu, mẹ mộng thấy ông sư
già đến ngủ nhờ, tỉnh mộng liền biết có thai” [73, tr.485]; tiểu truyện thiền sư
Chánh Giác (1069 – 1135):
Sư họ Lý, quê ở Thấp Châu, mẹ sư mộng thấy một vị tăng ở Ngũ Đài cởi chiếc
vòng mang vào cánh tay mặt bà. Sau đó, bà thọ thai sư. Trong lúc mang thai,
bà gìn giữ trai giới cẩn thận. Sư sinh ra, cánh tay mặt nổi quầng giống chiếc
vòng. Ông nội và cha sư tham thiền với Phật Đà Tôn đã lâu. Phật Đà chỉ sư nói
với cha sư rằng: Đứa bé này đạo vận rất tốt, chẳng phải là người ở trong trần
ai. Nếu xuất gia ắt làm pháp khí” [74, tr.57]…
Có thể thấy rằng việc lí giải sự ra đời của các vị tổ bằng điềm mộng là một mô
thức phổ biến và mang tính kế thừa trong các tiểu truyện thiền sư, ngoài thực
hiện chức năng tôn giáo còn thể hiện bản chất văn học với tư cách là một yếu
tố mang tính loại hình và tính hư cấu nghệ thuật trong tác động qua lại với
bộ phận truyện dân gian như sẽ trình bày ở phần sau của luận văn.
Đứa hài đồng kì lạ …
Một điểm chung đặc biệt nữa trong các tiểu truyện về ba vị tổ thiền phái Trúc
Lâm đó là khi các vị còn là một thai nhi nằm trong bụng mẹ đã được một thế
lực siêu nhiên phù trợ, đến khi sinh ra lại mang nhiều tướng tốt, đi kèm theo
đó là một số hiện tượng lạ.
Về quá trình thai sinh của các vị tổ, sách Tam tổ thực lục viết về Trần Nhân
Tông: “Những tháng dưỡng thai, thái hậu chẳng cần kiêng cữ, nhà bếp dâng
thức gì thái hậu cứ dùng như thường mà thai cũng chẳng sao, nên thái hậu
biết có nơi che chở” [57, tr.17]. Lại nói về Pháp Loa: “Trước đó, mẹ sư đã sinh
liên tiếp tám người con gái; vì sinh quá nhiều con gái, bà đâm ra chán ngán,
nên khi có thai sư, bà âm thầm tìm thuốc công hiệu uống để phá thai, nhưng
uống đến bốn lần mà thai vẫn còn nguyên. Do thế, khi sinh ra sư, bà vô cùng

mừng rỡ, bèn đặt tên là Kiên Cương” [57, tr.37-38]. Về Huyền Quang cũng thế:
“Lê Thị mang thai tổ đến mười hai tháng mà bụng bà không chuyển động, bà
nghi mắc bệnh nên uống nhiều thuốc phá thai mà thai không hư. Khi tổ sinh
ra lại là một đứa bé trai cứng cáp” [57, tr.79].
Dĩ nhiên thế lực phù trợ ở đây được cho là đức Thế Tôn (Phật Thích Ca Mâu
Ni). Những chi tiết này có thể có độ tin cậy xác thực hoặc không nhưng đã là
một cách thức lặp đi lặp lại thì nó phải có một ý nghĩa nhất định. Có thể giải
thích đây là kiểu motif “đứa trẻ được chọn” trong truyền thống các tôn giáo.
Cho nên, dù chịu đựng những hoàn cảnh khắc nghiệt nó vẫn có thể vượt qua
để thực hiện sứ mệnh cao cả của mình. Huống hồ, những bào thai này lại là
kiếp thác sinh của những bậc giác ngộ như Phật Thích Ca đối với Điều Ngự
Giác Hoàng Trần Nhân Tông (bản thân từ Điều Ngự là danh hiệu của Thích
Ca Mâu Ni), như A-nan tôn giả đối với Huyền Quang. Chính nguồn gốc thần
thánh đã giúp thai nhi “kiên cương” vượt qua những thử thách ấy.
Hình ảnh ba vị tổ khi vừa mới sinh ra cũng được các tác giả Tam tổ thực lục
ghi chép lại theo cách thức truyền thống của Phật giáo. Những đứa hài đồng
này khi mới lọt lòng mẹ đã mang những đặc điểm thể chất rất đặc biệt.
Tam tổ thực lục miêu tả Trần Nhân Tông: “Đến khi vua sinh ra, màu da như
vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Vai phải vua có nốt ruồi đen như
hạt đậu lớn, người biết xem tướng nói: “Đứa bé này ngày sau có thể gánh vác
việc lớn”” [57, tr.17-18] (những chi tiết này có trong Đại Việt sử kí toàn thư:
vua “được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể
chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng (…) gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai trái
có nốt ruồi đen nên có thể cáng đáng được việc lớn” [33, tr.235]). Về phần
Pháp Loa: “Khi sư ra đời, có mùi hương lạ bay khắp nhà, hồi lâu mới hết” [57,
tr.37]. Huyền Quang cũng vậy: “Năm ấy tổ sinh ra. Khi sinh có tia sáng mờ ảo,
mùi hương thơm phức. Người ta gọi đó là đứa hài đồng có mùi hương thanh
tịnh” [57, tr.79].
Có thể thấy, các nhân vật ở đây đã được bao bọc trong bầu không khí huyền
nhiệm của Phật giáo. Từ lúc hoài thai đến khi ra đời là tập hợp của những

niềm linh dị. Đi sâu hơn, cách miêu tả những đứa trẻ đặc biệt này với những
đặc điểm kì lạ như “màu da như vàng ròng”, “mùi hương thơm phức”, “có tia
sáng mờ ảo” không phải là cách miêu tả tùy tiện mà có cơ sở của nó. Đó là
cách miêu tả theo 32 tướng tốt (lakkhana) và 80 vẻ đẹp (anuvyanjana) của
Phật Thích Ca, thể hiện một bậc đại nhân, đại quí. Trong đó có hai đặc điểm
thuộc 32 tướng tốt là “sắc thân sáng như vàng ròng”, “hào quang tỏa chung
quanh một trượng” và một đặc điểm thuộc 80 vẻ đẹp là “lỗ chân lông tỏa
hương” hoặc “miệng thoảng hương thơm, chúng sinh ngửi được vui suốt cả
ngày” [57, tr.92-95].
Tuy rằng các vị tổ không được miêu tả với đầy đủ những đặc điểm thuộc các
tướng trên, nhưng phần nào, cách miêu tả ấy cũng có một giá trị tượng trưng
về nguồn gốc siêu phàm của họ. Những đặc điểm xác thân ấy có giá trị tiên tri
về tương lai, về nguyên do cao thượng mà họ thác sinh vào cõi tục này. Khi
xem tướng cho ấu đồng Tất Đạt Đa, các vị Bà-la-môn đã khẳng định ngài sẽ
trở thành bậc vĩ nhân cao quí của nhân loại, thành vị Chuyển luân thánh
vương cai trị bốn châu thiên hạ. Nốt ruồi đen như hạt đậu lớn trên vai phải
của vua Trần Nhân Tông cũng tiên báo ông là người “ngày sau có thể gánh
vác việc lớn”.
Tóm lại, thông qua việc miêu tả các vị tổ qua hình ảnh đứa hài đồng kì lạ, các
tác giả Tam tổ thực lục một lần nữa lại nêu lên một xác tín rằng Trần Nhân
Tông, Pháp Loa, Huyền Quang là kiếp thác sinh của những nhân vật thần kì
Phật giáo, mang một trong những đặc điểm nhân dạng tương tự như đức
Phật và các vị tôn giả, A-la-hán. So sánh với một số tiểu truyện thiền sư khác,
lại thấy có nhiều điểm tương đồng đáng ghi nhận như trong tiểu truyện về tổ
Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa) của Ấn Độ: “Thuở bé, ngài dung nghi trang
nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài
nói: “Đứa bé này đời trước có phước đức phù thắng, lẽ ưng xuất gia” [76,
tr.7]. Trong các tiểu truyện thiền sư Trung Hoa, việc các nhà sư sinh ra gắn
với điềm lạ cũng rất phổ biến như tiểu truyện về Tổ Huệ Khả (494 – 601): “Sư
họ Cơ, quê ở Võ Lao, dòng tôn thất nhà Chu. Cha mẹ sư lớn tuổi không con,

lắm phen đến chùa cầu con, sau mẹ sư có thai sinh ra sư. Khi sư lọt lòng mẹ,
có hào quang lạ chiếu sáng trong nhà, nên đặt tên sư là Quang” [76, tr.149];
tiểu truyện thiền sư Vô Nghiệp (760-821): “Sư họ Đỗ, quê ở Thượng Lạc,
Thương Châu. Mẹ sư họ Lý, một hôm bà nghe trong hư không có tiếng nói
“Cho ở nhờ được chăng?” bà liền biết có thai. Sư lọt lòng mẹ vào lúc ban đêm,
có hào quang sáng đầy nhà. Được bốn, năm tuổi sư đi thì nhìn thẳng, ngồi thì
tréo kiết già” [72, tr.181]; tiểu truyện thiền sư Tề An: “Sư họ Lý, quê ở quận
Hải Môn. Khi sư ra đời có hào quang chiếu đầy nhà, lại có vị tăng lạ đến nói:
“Sứ giả dựng cờ vô thắng, xoay mặt trời Phật soi trở lại, đâu không phải
người này”” [72, tr.204]; tiểu truyện thiền sư Quang Dũng: “Sư họ Chương,
quê ở Phong Thành, Dự Chương. Khi mẹ sinh sư có thần quang soi sáng khắp
sân, ngựa trong chuồng đều kinh hoảng, nhân đó đặt tên sư là Quang Dũng”
[73, tr.185]; tiểu truyện thiền sư Phật Ấn (? – 1098): “Sư họ Lâm, quê ở Phù
Lương Nhiêu Châu. Khi sư sinh, hào quang xông lên, tóc, móng tay đều đầy
đủ, dung mạo đẹp đẽ khác thường. Lúc còn bé, sư nói ra câu nào cũng phù
hợp kinh sử, mọi người đều gọi là thần đồng” [73, tr.434]; tiểu truyện thiền sư
Thiệu Bổn: “Sư họ Đổng (…), mẹ sư không con, đến trước tượng Phật cầu
khấn, khấn rằng: Được con sẽ cho làm Phật sự. Sau đó bà sinh được sư dung
mạo trang nhã” [74, tr.44]. Ở Việt Nam có tiểu truyện thiền sư Vân Phong (? –
956): “Khi mẹ (sư) mang thai, bà thường ăn chay tụng kinh, lúc sinh có ánh
sáng lạ chiếu khắp nhà” [64, tr.19]…
Việc bắt đầu các tiểu truyện thiền sư bằng sự ra đời thần kì đã giúp cho Tam
tổ thực lục mang đậm màu sắc tôn giáo, đầy huyễn ảo, vừa tạo sức hấp dẫn
riêng, vừa nhằm thực hiện chức năng tôn giáo. Các tác giả của Tam tổ thực
lục cũng đã vận dụng những mô thức truyền thống có tính lịch sử và kế thừa
trong kinh điển Phật giáo khi khắc họa hình ảnh của các vị tổ thiền phái Trúc
Lâm, điều đó đã phản ánh một đặc điểm cấu trúc cốt truyện của các tiểu
truyện thiền sư nói chung.
2.1.2.2. Quá trình giác ngộ
Tác giả của các tiểu truyện thiền sư trong Tam tổ thực lục đã giải thích con

đường đến với Phật pháp của ba vị tổ bằng một quá trình dài của những cơ
duyên để cuối cùng dẫn đến sự giác ngộ hoàn toàn. Các nhân vật thiền sư
Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều được khắc họa là những con
người có thiên tư sáng suốt, có khả năng giác ngộ rất cao và đặc biệt là có
một mối duyên màu nhiệm với Phật giáo.
Thiên tư là tư chất con người có sẵn khi sinh ra, không phải qua quá trình
học tập, trau dồi hay tôi luyện. Người xưa có cách nói nôm na là những đặc
tính “trời phú”. Các nhân vật Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang được
mô tả tuy có mờ nhạt khác nhau chút ít về điểm này hoặc điểm khác nhưng
vẫn có được những tương đồng cơ bản.
Trần Nhân Tông được Tam tổ thực lục miêu tả là người có bẩm tính thông
minh hiếm có: “Điều Ngự thánh tánh (tính) sáng suốt, đa tài, hiếu học, đọc
khắp sách vở, thông hiểu cả nội và ngoại điển” [57, tr.19]. Về phần Pháp Loa:
“Lúc còn bé, sư đã có thiên tư đĩnh ngộ, không nói lời ác, không ăn chất cay
nồng và thịt cá” [57, tr.37]. Về điểm này, Huyền Quang được mô tả tương đối
tỉ mĩ hơn: “Đến tuổi đồng ấu, thể mạo tổ dị thường, có chí của bậc trác việt vĩ
nhân, cha mẹ hết lòng yêu thương dạy cho học nghề. Tổ nghe một hiểu mười,
có tài như Nhan Hồi Á Thánh, nên được gọi là Tải Đạo” [57, tr.79]; “Năm 20
tuổi, tổ dự khoa thi Hương và đỗ đạt. Vì (triều đình) chọn người đều dùng
những bậc đại khoa, nên tổ phải đợi đến khoa thi lớn năm sau (…) kết quả tổ
đậu được thủ khoa” [57, tr.79]; “Được bổ vào chức quan Hàn lâm, tổ phụng
mệnh tiếp sứ giả phương Bắc, văn thư qua lại, trích dẫn kinh nghĩa, ứng đối
lưu loát. Văn chương ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các nước lân bang”
[57, tr.80]; “Tổ đọc nhiều, học rộng, tinh thông Phật pháp” [57, tr.81]; được
Trần Nhân Tông đích thân khen ngợi: “phàm sách đã qua tay Huyền Quang
biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa” [57, tr.81]. Đó là
những phẩm chất cần có của những bậc đại giác. Trí là nền tảng cơ bản, là
phương tiện để đưa đến ngộ. Trí không đơn thuần là tri thức mà là khả năng
lĩnh hội tri thức. Câu chuyện về lục tổ Huệ Năng là một ví dụ.
Cách miêu tả ba vị tổ gắn liền với những đặc điểm trí năng một lần nữa gợi

nhớ tới hình ảnh Phật Thích Ca. Theo giai thoại, năm cậu bé Tất Đạt Đa
(Siddhartha) lên bảy tuổi, cha cậu cho mời các vị thầy học nổi tiếng vào cung
dạy cậu và các vương nhưng trí tuệ của Tất Đạt Đa đã làm họ ngỡ ngàng và
thán phục.
Có thể thấy những nhân vật ở đây được ghi chép lại là những con người trác
việt, hơn nữa còn là những người có một mối duyên lành với Phật pháp. Trần
Nhân Tông là người đặc biệt hơn cả, nhất là do hoàn cảnh xuất thân của ông.
Thuộc dòng dõi hoàng tộc, vốn được chọn sẵn để kế thừa ngai vị nhưng điều
đó chẳng mảy may hấp dẫn gì đối với Trần Nhân Tông, trái lại, ông còn tỏ ra
thờ ơ: “Năm 16 tuổi được lập làm hoàng thái tử, Điều Ngự từ chối đến ba
phen, xin để em mình thay thế, nhưng đều không được chấp thuận. Vua kết
duyên với trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu là Khâm Từ Thái hậu, tình
cầm sắc tuy cùng hòa hợp, nhưng lòng đạm bạc đối với nhà vàng” [57, tr.18].
Thậm chí, Trần Nhân Tông có khi còn trốn bỏ chốn cung cấm, chủ định xuất
gia cầu Phật: “Vào giờ Tý một đêm kia, vua vượt thành ra đi, định vào núi Yên
Tử, nhưng khi đến chùa Tháp, núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, lại vì quá mệt
nên phải vào nghỉ trong tháp. Vị tăng chùa ấy thấy vua tướng mạo khác
thường, liền đem thức ăn đến mời (…). Thánh Tông sai quần thần đi tìm khắp
bốn phương, bất đắc dĩ vua phải trở về” [57, tr.18]. Nhưng cuối cùng, như
một căn duyên nào đó không thể cưỡng lại được, Trần Nhân Tông đã nhường
ngôi cho con từ rất sớm, lúc đó ông 41 tuổi, chuyên tâm học Phật. “Sau khi
truyền ngôi lại cho Anh Tông không bao lâu, khoảng tháng 10 năm Kỷ Hợi,
Điều Ngự vào thẳng núi Yên Tử, tinh cần tu 12 hạnh đầu đà, lấy hiệu là
Hương Vân Đại Đầu Đà” [57, tr.19]. Cuộc đời, xuất thân của Trần Nhân Tông
có những điểm tương tự như cuộc đời Phật Thích Ca, theo một cách nào đó.
Hoàng tử Tất Đạt Đa cũng được chọn làm người kế vị cha mình nhưng do
nhiều căn duyên chỉ muốn ra đi tìm lẽ giải thoát cho nỗi đau khổ của thế gian.
Tất Đạt Đa cũng lấy vợ, sinh con, sống trong cảnh nhung lụa. Người cha vì
muốn chống lại số phận trở thành “chuyển pháp luân” của đứa con trai nên
đã dốc hết tâm sức tạo cho con một cuộc sống không thiếu thốn thứ gì, không

phải nhìn thấy những cảnh đen tối của nhân gian. Ấy vậy mà, do sự dẫn dắt
của các thế lực siêu nhiên, Tất Đạt Đa thấy được bốn nỗi khổ không thể
cưỡng lại được của con người là sinh, già, bệnh, chết (sinh, lão, bệnh, tử), rồi
trốn đi trong một đêm khi mà người vợ vừa sinh đứa con trai được bảy ngày.
Những điểm tương quan này làm nên nét độc đáo của Trần Nhân Tông. Cuộc
đời của Phật Thích Ca được kể lại với đầy những chi tiết huyền thoại như lời
kêu gọi, sự thần thông biến hóa của chư thiên, những cõi trời xa lạ…. Cuộc đời
của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông được miêu tả gần gũi hơn, thật
hơn. Những chi tiết hoang đường chỉ là những giấc mộng và đã là giấc mộng
thì hoang đường hay không lại không phải là vấn đề nữa. Theo cách nhìn của
tác giả tiểu truyện Trúc Lâm sơ tổ cũng như quan niệm của các tín đồ thiền
phái Trúc Lâm thì Trần Nhân Tông chính là kiếp thác sinh của Phật Thích Ca.
Tiểu truyện Trần Nhân Tông trong Tam tổ thực lục có đoạn:
Khi lên ngôi, tuy ở chốn cửu trùng cao sang mà vua vẫn sống thanh tịnh. Vua
thường ngủ trưa ở chùa Tư Phúc trong đại nội, một hôm thấy trên rún (rốn)
trổ một hoa sen vàng lớn như bánh xe, trên hoa có Phật vàng. Có người đứng
bên cạnh chỉ Điều Ngự hỏi: “Biết vị Phật này không? Đức Biến Chiếu Tôn đấy”
[57, tr.19].
Quả thực đây là giấc mơ có nhiều hình ảnh tượng trưng, yêu cầu phải được
giải thích bằng thứ tư duy hình tượng của Phật giáo. Dễ thấy giấc mơ này có
điểm tương tự như một trong năm giấc mơ điềm báo của Thích Ca trước
ngày thành đạo dưới gốc bồ đề, có ghi lại trong kinh Tăng chi bộ, đó là ngài
mộng thấy từ rốn mình mọc ra một loại cỏ vươn cao mấy tầng mây. Rốn là
con đường sinh. Trần Nhân Tông và Thích Ca đều mơ thấy từ rốn mình mọc
ra một loại cây, ấy là tượng trưng cho việc chính từ các ngài sẽ sản sinh ra
nghiệp lạ. Điềm báo của Thích Ca nói lên việc ngài tìm thấy con đường giải
thoát qua bát chính đạo và đem giáo hóa khắp nhân thiên. Trần Nhân Tông
mộng thấy từ rốn mình mọc lên một đóa sen vàng lớn như bánh xe. Đóa sen
này tượng trưng cho bánh xe pháp (pháp luân). Bánh xe pháp nếu có mười
hai nan hoa thì tượng trưng cho thập nhị nhân duyên, nếu có tám nan hoa thì

tượng trưng cho bát chính đạo, bánh xe pháp được xem là phương tiện đưa
chúng sinh ra khỏi trầm luân, khổ ải. Trên hoa sen lại có Phật vàng là đức
Biến Chiếu Tôn (cách gọi Phật Thích Ca của người theo Mật giáo) ngụ ý nhờ ở
thân Trần Nhân Tông mà Thích Ca được thác sinh, nói một cách khác, Trần
Nhân Tông chính là nhục thể của đức Phật. Căn duyên của Trần Nhân Tông
đối với đạo Phật còn thể hiện ở chỗ:
Do đó, vua thường dùng chay lạt, chẳng ăn thức mặn nên long nhan trở nên
gầy yếu. Thánh Tông thấy lạ hỏi thì Điều Ngự nói rõ nguyên nhân. Thánh
Tông khóc nói: ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con như vậy thì
thịnh nghiệp của tổ tông biết làm thế nào?” Điều Ngự cũng rơi nước mắt” [57,
tr.19].
So với Pháp Loa, Huyền Quang thì con đường xuất gia của Trần Nhân Tông
khó khăn hơn, phức tạp hơn vì ông bị trói buộc bởi trách nhiệm với dân, với
nước, với hoàng tộc. Nhưng cuối cùng, cũng vẫn không có gì ngăn cản được
một người quyết tâm xuất gia hành đạo.
Lại nói về Pháp Loa, căn duyên với đạo Phật được bộc lộ từ bé: “Lúc còn bé,
sư đã có thiên tư đĩnh ngộ không nói lời ác, không ăn chất cay nồng và thịt
cá” [57, tr.38]. Căn duyên đó còn biểu hiện trong cuộc gặp gỡ giữa Pháp Loa
và Trần Nhân Tông năm ông 21 tuổi, lúc Trần Nhân Tông đi khắp các miền
khuyên dân từ bỏ dâm từ, thuyết pháp và chữa bệnh:
Khi xa giá Điều Ngự đến bờ sông Nam Sách, thì sư đang đi chơi xa, bỗng cảm
thấy tâm thần phiền muộn nên quay về, vừa lúc ấy gặp Điều Ngự đến thôn
mình, sư bèn đãnh lễ xin xuất gia. Điều Ngự vừa trông thấy sư, lấy làm lạ,
bảo: “Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là bậc pháp khí”. Lại thấy sư tự
đến (xin xuất gia), nên vui mừng đặt tên là Thiện Lai [57, tr.38].
Về phần Huyền Quang, căn duyên đến với ông vào lần gặp gỡ với Pháp Loa:
Lúc tổ theo vua tới chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Phượng Nhãn, nhìn thấy quốc
sư Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại duyên xưa, bùi ngùi than rằng: “Làm
quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là tiên, cảnh giới
Tây phương là Phật. Phú quí vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng

ngày hạ, há nên lưu luyến mãi!”. Nhân đó, dâng biểu đến ba lần xin từ chức để
xuất gia học đạo tu hành [57, tr.80].
Vua Trần Anh Tông từng có lời khen ông: “Tướng người này có đạo nhãn, có
thể là bậc pháp khí, bậc thánh tăng chân chánh (chính) vậy” [57, tr.80-81].
Khoảnh khắc và nhân duyên giác ngộ của Trần Nhân Tông, Pháp Loa và
Huyền Quang đều được giải thích như là kết quả của lòng mộ Phật. Khoảnh
khắc giác ngộ còn được gọi là “hoát nhiên khế hội”, “phát minh tâm địa”, “đốn
ngộ”, “đại ngộ”, “tỉnh ngộ” … theo các cách diễn đạt khác nhau trong các tiểu
truyện thiền sư. Truyện Trần Nhân Tông không thấy nói đến khoảnh khắc này
mà chỉ có chi tiết “lúc rảnh việc nước, vua mời các khách Thiền đến giảng dạy
tâm tông, lại tham vấn Tuệ Trung Thượng sĩ nhờ thế đạt được cốt tủy của
thiền, nên thờ Tuệ Trung theo lễ của bậc thầy” [57, tr.19].
Việc giác ngộ của Pháp Loa được ghi lại:
Điều Ngự thế phát, trao man y cho sư, rồi bảo đến Quỳnh Lâm học với hòa
thượng Tính Giác. Sư thưa hỏi trăm điều mà Tính Giác rốt cục vẫn chưa thể
khai thị cho sư, nên sư tìm đọc kinh Hải nhãn (kinh Lăng nghiêm), đến đoạn
“Bảy lần gạn hỏi tâm, cuối cùng đến ví dụ khách trần”, sư suy nghĩ giây lâu,
bỗng được thể nhập.
Một ngày kia, từ bên hòa thượng Tính Giác trở về để tham vấn Điều Ngự, vừa
được lúc Điều Ngự thượng đường đọc bài tụng Thái dương ô kê, sư liền tỉnh
ngộ [57, tr.38-39].
Một lần khác: “Một đêm nọ, nhân trình ba bài tụng cốt yếu, đều bị Điều Ngự
sổ toẹt, sư thưa hỏi đến bốn lần mà Điều Ngự vẫn bảo phải tự tham cứu lấy.
Trở về phòng, tâm thần rất xao xuyến, đến nửa đêm, nhân thấy hoa đèn rơi,
sư bỗng nhiên đại ngộ” [57, tr.39].
Ở thiền sư Huyền Quang, khoảnh khắc giác ngộ của ông cũng chính là lúc
chứng kiến Pháp Loa hành đạo ở chùa Vĩnh Nghiêm mà nhớ lại duyên cũ, đi
đến quyết định từ bỏ quan trường, chuyên tâm theo Phật.
Tính phổ biến của việc kể lại quá trình giác ngộ trong các tiểu truyện thiền sư
là rất lớn. Xin nêu ra đây hai ví dụ tiêu biểu trong các tiểu truyện về thiền sư

Hoài Nhượng (677 – 744) và về thiền sư Vô Ngôn Thông (759 – 826).
Thiền sư Hoài Nhượng trong một lần đến tham vấn lục tổ Huệ Năng:
Sư đến Tào Khê, tổ hỏi:
- Ở đâu đến?
Sư thưa:
- Ở Tung Sơn đến.
Tổ hỏi:
- Vật gì đến?
Sư thưa:
- Nói in tuồng (như là) một vật tức không trúng (đúng).
- Lại có thể tu chứng chăng?
- Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.
- Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ mệnh của chư Phật, người đã như
thế, ta cũng như thế. Tổ Bát Nhã Đa La ở Tây Thiên có lời sấm rằng: “Dưới
chân ngươi sẽ xuất hiện nhất mã câu (con ngựa tơ) đạp chết người trong
thiên hạ. Ứng tại tâm ngươi chẳng cần nói sớm”.
Sư hoát nhiên khế hội. Từ đây, sư ở hầu hạ tổ ngót mười lăm năm [72, tr.20-
21].
Ví dụ thứ hai, về thiền sư Vô Ngôn Thông:
Một hôm, vào lúc sư lễ Phật, có một thiền khách đến hỏi: “Tọa chủ lễ cái gì
đó?”
Sư đáp: “Lễ Phật.”
Thiền khách chỉ tượng Phật hỏi: “Cái này là cái gì?”. Sư không đáp được.
Đêm đó, sư y phục nghiêm chỉnh đến lạy thiền khách, thưa rằng: “Điều ngài
hỏi khi nãy tôi chưa biết ý chỉ như thế nào?”
Thiền khách hỏi: “Tọa chủ xuất gia đến nay trải được mấy hạ?”
Sư thưa: “Mười hạ.”
Thiền khách hỏi: “Lại từng xuất gia chưa?”
Sư trở thành hoang mang.
Thiền khách bảo: “Nếu không hiểu điều đó, thì dù trăm hạ cũng chẳng ích gì!”

Rồi đem sư cùng đến tham vấn Mã Tổ. Đi tới Giang Tây thì Mã Tổ tịch, bèn
đến yết kiến thiền sư Bách Trượng Hoài Hải.
Bấy giờ có vị tăng hỏi: “Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?”
Bách Trượng đáp:
“Đất lòng nếu không,
Trời tuệ tự chiếu.”
Nghe xong, sư tỉnh ngộ [64, tr.11].
Như vậy, có thể thấy rằng “giác ngộ” ở đây không chỉ là sự biết mà là một
trạng thái bừng vỡ chân lí, thấu triệt hoàn toàn tinh thần của thiền, vứt bỏ
hết mọi tạp niệm, vô minh, không còn vọng động và bất cứ sự câu nệ nào vào
các pháp tướng … và đương nhiên, chỉ có những thiền sư đắc đạo mới đạt
được một trạng thái tinh thần như vậy. Đó cũng là lí do vì sao Tam tổ thực lục
cũng như nhiều tiểu truyện thiền sư ở những công trình khác nhất thiết phải
dựng lại cuộc đời của các thiền sư gắn với quá trình giác ngộ của các vị.
2.1.2.3. Công tích hành đạo – giáo hóa
Công tích hành đạo – giáo hóa được xem là một phần quan trọng trong kết
cấu của các tiểu truyện thiền sư, và thiết nghĩ, đó là mục đích biên soạn của
những bản “thực lục”, nhằm ghi nhớ công lao hoằng hóa và xiển dương Phật
giáo của các vị, được biểu hiện trên hai khía cạnh: về vật chất và về tinh thần.
Ở khía cạnh thứ nhất, tức ghi lại công tích của các vị về mặt phát triển giáo
hội qua những việc làm cụ thể như xây dựng chùa chiền, đúc tượng, sao in
kinh điển, độ tăng ni, phát triển tăng đoàn …, Tam tổ thực lục tỏ ra trung
thành với lối biên niên phổ biến trong các công trình ghi chép lịch sử. Tính
chính xác về sự kiện, nhân vật, thời gian được đề cao và kèm theo đó là sự
giảm sút của giá trị văn học.
Ở khía cạnh thứ hai, tức ghi lại tư tưởng của các thiền sư, vai trò của các vị
trong việc giáo hóa, giác ngộ tăng chúng, Phật tử, cách ghi chép của các tiểu
truyện thiền sư trong Tam tổ thực lục chủ yếu là những đoạn đối thoại, hỏi
đáp về Phật – pháp – tăng, về quá khứ - hiện tại – vị lai, về công án – giáo
điển, về nhân quả - hóa thân kèm theo đó là một số bài kệ theo kiểu ngữ lục

và công án thiền. Phần này chủ yếu mang giá trị tư tưởng, triết lí là nhiều,
riêng một số bài kệ tỏ ra có sự thống nhất, hòa quyện giữa nội dung tư tưởng
và giá trị nghệ thuật.
Để tránh sự trùng lặp về nội dung của các phần, chúng tôi xin được trình bày
sâu hơn những vấn đề vừa nêu ở các phần tiếp theo trong chương này của
luận văn.
2.1.2.4. Qui tịch
Qui tịch là giai đoạn cuối cùng trong chuỗi các sự kiện về cuộc đời của các
thiền sư trong Tam tổ thực lục. Trong số ba tiểu truyện thiền sư, duy chỉ có
truyện Huyền Quang là không kể lại cặn kẽ quá trình qui tịch của nhà sư. Tâm
thế chung của các vị chính là sự đón nhận cái chết một các an nhiên và thanh
thản, theo tinh thần “vô úy” của Phật giáo.
Trần Nhân Tông dường như là người tiên đoán được cái chết, đón nhận nó
một cách thanh thản và chuẩn bị cho sự “trở về” của mình kĩ càng nhất:
Ngày 17, Điều Ngự đang ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh, được Tuyên Từ
Hoàng thái hậu mời về am Bình Dương thọ trai. Điều Ngự vui vẻ nói: “Đây là
lần cúng dường cuối cùng”, rồi đến thọ trai [57, tr.31].
*
Ngày 21, Bảo Sát đến Ngọa Vân, Điều Ngự thấy ông về, mỉm cười bảo: “Ta sắp
đi rồi, ông về sao trễ vậy, đối với Phật pháp có điều gì chưa rõ hãy hỏi gấp đi
[57, tr.32].
*
Ngày mồng 1 tháng 11, lúc nửa đêm, sao trời tỏ rạng, Điều Ngự hỏi: “Bây giờ
là giờ gì?” Bảo Sát đáp: “Giờ Tý”. Điều Ngự đưa tay mở cửa sổ, ngắm trời nói:
“Đây là lúc ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu?” Điều Ngự đáp:
“Tất cả pháp không sinh
Tất cả pháp không diệt
Nếu hiểu được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền
Có chi là đi lại”.

Bảo Sát hỏi: “Nếu như không sanh, không diệt thì sao?” Điều Ngự đưa tay
bụm miệng Bảo Sát, nói: “Chớ nói mê”. Nói xong, liền nằm theo thế sư tử, an
nhiên viên tịch [57, tr.33].
Về quá trình qui tịch của Pháp Loa:
Ngày 19, vào lúc ban đêm, bệnh trở nặng, sư đem cà sa và tâm kệ của Điều
Ngự truyền lại giao cho Huyền Quang, bảo phải giữ gìn. Lại viết kệ giao cho
Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Vô Tế …, các đệ tử lớn. Môn đồ, kẻ trước người sau,
ngày ngày vào xin kệ, sư đều viết giao cho tất cả, lại trả lời những câu hỏi của
họ không biết mỏi mệt [57, tr.56].
*
Đến giờ Hợi trong đêm, bệnh nguy kịch, Huyền Quang vào thăm hỏi: “Xưa nay
những người sắp lâm chung thì buông đi tốt hay giữ lại tốt?”
Sư đáp: “Đi hay ở đều chẳng liên can gì cả”.
Huyền Quang hỏi: “Chẳng liên can gì cả là thế nào?”
Sư đáp: “Tùy xứ tát-bà-ha”
Các môn đồ vào thưa: “Người xưa khi lâm chung đều có kệ dạy, vì sao thầy
không có?”
Sư quở trách họ; giây lâu bèn ngồi dậy, bảo đem bút đến, viết lớn bài kệ:
“Muôn duyên cắt đứt, tấm thân nhàn
Hơn bốn mươi năm cõi mộng tàn
Giã biệt! Xin đừng theo hỏi nữa
Bên kia trăng gió mặc thêng thang”
rồi quăng bút, an nhiên viên tịch [57, tr.56-57].
Thái độ an nhiên thanh thản của Trần Nhân Tông và Pháp Loa khi đối mặt
trước cái chết thể hiện dũng khí của những bậc đại giác, đại tuệ, đúng theo
cảm quan “sinh kí tử qui” của Phật giáo.
So sánh với 187 tiểu truyện thiền sư trong bộ Thiền sư Trung Hoa và 68 tiểu
truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh, chúng tôi nhận thấy đa số các tiểu
truyện đều có nói đến quá trình qui tịch của các thiền sư tuy mức độ khai thác
có khác nhau tùy theo mỗi truyện. Có những truyện chỉ ghi ngắn gọn thời

gian, địa điểm kèm theo một vài từ ngữ nói về việc làm hoặc tư thế, thái độ
của các thiền sư khi nhập diệt. Bên cạnh đó, cũng có những truyện được ghi
chép công phu, thông thường quá trình qui tịch của các vị sư sẽ gắn với một
vài sự kiện, một vài mẫu đối thoại về thiền và một bài kệ trước lúc tịch, cuối
cùng là một vài điềm lạ sau khi các vị qua đời. Đó là công thức chung, ở mỗi
truyện có thể có sự thêm bớt, gia giảm một số chi tiết. Nằm trong số này, có
thể kể đến những tiểu truyện về các thiền sư như Ẩn Phong, Vô Nghiệp, Linh
Mặc, Lượng Giới, Nghĩa Huyền, Tỉnh Niệm, Thiện Chiêu, Trùng Hiển, Nghĩa
Hoài, Ngộ, Pháp Tú, Khắc Văn Chơn Tịnh, Chánh Giác, Văn Chuẩn, Pháp Diễn,
Am chủ Diệu Phổ Tánh Không, Thanh Viễn Phật Nhãn, Đạo Ninh, Nguyên
Tĩnh, Tông Cảo Đại Huệ Diệu Hỷ, Tâm Đạo, Trí Tài, Thủ Tuần Phật Đăng, Đạo
Hạnh Tuyết Đường, Minh Biện Chánh Đường… trong bộ Thiền sư Trung Hoa
và các tiểu truyện về các thiền sư Vô Ngôn Thông, Khuông Việt, Trưởng lão
Định Hương, Viên Chiếu, Cứu Chỉ, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Đạo Huệ, Bảo Giám, Bản
Tịnh, Minh Trí, Tín Học, Đại Xá, Tịnh Lực, Trường Nguyên, Tịnh Giới, Giác Hải,
Nguyện Học, Quảng Nghiêm, Thường Chiếu, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vạn Hạnh, Đạo
Hạnh, Trí Bát, Thuần Chân, Tăng thống Huệ Sinh, Giới Không, Trí Nhàn, Chân
Không, Diệu Nhân, Y Sơn … trong Thiền uyển tập anh. Sự phổ biến đó cho
phép liên tưởng đến một motif gọi là “motif qui tịch” trong các tiểu truyện
thiền sư.
Điểm chung của các thiền sư khi tịch diệt đó chính là thái độ “an nhiên”, “vui
vẻ” của những người đã “liễu sinh tử”, nắm chắc qui luật tạo hóa, giác ngộ
hoàn toàn lẽ có – không của cuộc đời để có thể bình thản đến với cõi giải
thoát. Khí khái cao thượng và đẹp đẽ đó là sự thể hiện cao nhất của triết lí và
tinh thần Phật giáo, khiến các nhân vật thiền sư trở thành những tấm gương
sáng, những nhân cách cao cả, mang vẻ đẹp thoát thế, sáng trong, không chút
bụi mờ.
Tiểu truyện về Trần Nhân Tông phản ánh đầy đủ nhất “công thức” của motif
qui tịch ở loại tiểu truyện thiền sư khi gắn với một số hiện tượng lạ trước và
sau khi nhân vật tịch diệt. Trước khi Trần Nhân Tông qui tịch:

Ngày 20, Bảo Sát đang trên đường đi đến Doanh Tuyền, thấy một đám mây
đen từ Ngọa Vân kéo đến Lỗi Sơn, khi tới Doanh Tuyền, nước suối dâng cao
đến mấy trượng, trong giây lát mặt nước trở lại bình thường. Bảo Sát thấy
hai con rồng đầu lớn như đầu ngựa, ngẩng cao hơn một trượng, hai mắt như
sao, trong phút chốc lại biến mất. Đêm ấy Bảo Sát ngủ trọ trong sơn điếm,
thấy một điềm mộng chẳng lành.
(…)
Từ đó trở đi bốn ngày liền, trời đất u ám, gió trốt thổi mạnh, mưa tuyết phủ
đầy cây, vượn khỉ vây quanh am gào khóc, chim rừng kêu bi thảm [57, tr.31-
32].
Sau khi Trần Nhân Tông qui tịch cũng có những điềm lạ: “Khi thiêu, hương lạ
bay xa, nhạc trời vang hư không, mây năm sắc phủ trên giàn hỏa (…) lượm
được xá lị năm màu” [57, tr.33].
Ở một số tiểu truyện thiền sư khác cũng có sự tương đồng đáng chú ý. Chẳng
hạn về quá trình qui tịch của thiền sư Vô Nghiệp trong Thiền sư Trung Hoa:

×