Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ khiếm thị ở tỉnh hội người mù thừa thiên huế, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.96 KB, 51 trang )

Báo cáo tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là những người chủ tương lai của đất nước chính vì vậy luôn
nhận được sự quan tâm hết mực từ gia đình và xã hội. Muốn có một đất nước
phát triển thì phải chăm lo cho trẻ em đó là một mục tiêu hàng đầu cho sự
phát triển bền vững.
Nhưng ở trong cuộc sống thường ngày còn có rất nhiều trẻ em không
nhận được sự quan tâm đó mà bị xã hội kỳ thị, xa lánh vì những khiếm khuyết
trên cơ thể của các em.Trên cả nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng
số lượng trẻ em bị khiếm thị chiếm một phần không nhỏ và nỗi đau của các
em không ai có thể hiểu hết được, phải trở thành gánh nặng cho gia đình và xã
hội các em cũng đâu muốn nhưng không phải may mắn luôn gõ cửa mỗi số
phận con người. Và các em là những số phận thiếu may mắn đó, nói về
khuyết tật thì có rất nhiều dạng nhưng khuyết tật về thị giác có lẽ là khuyết tật
gây ra nhiều khó khăn nhất. Các em không thể tự lo cho cuộc sống của mình
không thể làm những việc như vệ sinh cá nhân cho bản thân hay thậm chí có
những em từ khi sinh ra không thể biết được hình hài của bố mẹ người thân
mình như thế nào. Trong bức tranh đa màu của cuộc sống các em chỉ cảm
nhận bằng một màu đen.
Với mong muốn được thêm một chấm sáng trong bức tranh cuộc sống
đơn màu ấy của các em, tôi thực hiện đề tài “Nâng cao khả năng hòa nhập
cộng đồng cho trẻ khiếm thị ở tỉnh hội người mù Thừa Thiên Huế, thực trạng
và giải pháp” để các em nơi đây có thể cảm nhận những màu sắc của cuộc
sống qua những kỹ năng sống của các em được nâng cao hơn, những việc các
em có thể làm và đưa các em tiến tới với những gì trong cuộc đời này các em
xứng đáng được nhận
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 1
Báo cáo tốt nghiệp
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
a.Đối tượng nghiên cứu.


Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ
khiếm thị.
b.Khách thể nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là những trẻ em bị khiếm thị
3. Không gian và thời gian nghiên cứu
a. Không gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ở Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế 180 Phan Bội
Châu, thành phố Huế.
b.Thời gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2015
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp duy vật lịch sử
Phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử yêu cầu người nghiên cứu
các sự vật, hiện tượng xã hội cần phải đặt trong một xã hội nhất định, trên
quan điểm thừa kế và phát triển. Nghiên cứu này được xuất phát từ thực tế
lịch sử xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn trong sự phát triển của nó và thực tế lịch
sử này được xem xét như cơ sở mục tiêu, tiêu chuẩn của thông tin thực
nghiệm.
Nghiên cứu này tại Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế đặt thực trạng
nhận thức, hành vi và sự hòa nhập cộng đồng của trẻ khiếm thị trong bối cảnh
xã hội Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hóa_ hiện đại hóa. Nền kinh
tế thị trường với tác động tích cực làm cho đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế,
đất nước ta cũng bộc lộ nhiều vấn đề xã hội ảnh hưởng và làm chậm đi sự
phát triển của đất nước ta như: chăm sóc sức khỏe cho người dân, thanh niên
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 2
Báo cáo tốt nghiệp
vi phạm pháp luật…. đặc biệt là sự quan tâm đến các chương trình phúc lợi xã
hội trong đó có sự hòa nhập của trẻ khiếm thị.
4.2. Phương pháp duy vật biện chứng

Theo phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng yêu cầu phải nhìn
các sự vật trong mối quan hệ biện chứng. Nghĩa là phải nhìn mọi sự vật, hiện
tượng không tồn tại riêng biệt tách rời mà luôn luôn trong mối quan hệ tương
tác, quyết định lẫn nhau. Trong quá trình xem xét, đánh giá mọi sự vật hiện
tượng, sự kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện với điều kiện kinh
tế - xã hội đang vận động,biến đổi trên địa bàn nghiên cứu.
Trong đề tài này, khi tìm hiểu thực trạng và giải pháp nâng cao khả
năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ khiếm thị tại tỉnh Hội chúng ta phải đặt
trong bối cảnh kinh tế xã hội nước ta ở thời điểm hiện tại. Các giá trị mới của
xã hội hiện đại, sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, sự toàn cầu hóa đang tác
động lên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có trẻ em khuyết tật.
4.3. Phương pháp điều tra xã hội học
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp thu thập
thông tin của xã hội học như:
+ Phương pháp tiếp cận phỏng vấn cá nhân
Cuộc nghiên cứu thực trạng hòa nhập cộng đồng của trẻ khuyết tật
trong Tỉnh Hội, bên cạnh đó để hiểu sâu hơn bản chất của vấn đề đang nghiên
cứu. Phương pháp này phục vụ cho việc khai thác các thông tin về mong
muốn của các trẻ khiếm thị, thái độ của những người xung quanh về vấn đề
hòa nhập cộng đồng của trẻ khiếm thị.
Những điều lưu ý khi tiến hành phương pháp phỏng vấn cá nhân về
thực trạng và một số giải pháp nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ
khiếm thị.
- Mục đích của phương pháp phỏng vấn: Thu thập thông tin về thực
trạng nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng của trẻ.
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 3
Báo cáo tốt nghiệp
- Đối tượng: phỏng vấn một số cán bộ làm trong Tỉnh Hội người mù
và trẻ khiếm thị tại đây.
Kỹ năng phỏng vấn: Khi phỏng vấn phải nhẹ nhàng tế nhị,gây được cảm

giác thoải mái với người được hỏi, nắm bắt được thái độ của người được hỏi.
+ Phương pháp phân tích tài liệu
Báo cáo tốt nghiệp được hoàn thiện đầy đủ nội dung và thông tin phong
phú, tôi đã khai thác từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Phương pháp phân
tích tài liệu là một phương pháp quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài. Tài
liệu thu thập được từ các báo cáo hàng năm của Tỉnh Hội người mù Thừa
thiên Huế. Các thông tin trong tài liệu này được xử lý, phân tích và nêu ra
nhằm giải quyết các vấn đề trong giả thuyết nghiên cứu.
+ Phương pháp quan sát
Mục đích: Nhằm tăng thêm tính xác thực cho phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu địa bàn thông qua tri giác
trực tiếp về Tỉnh Hội người mù, tỉnh Thừa Thiên Huế và trẻ khiếm thị để có
những thông tin có độ chính xác cao, bản thân quan sát ghi nhận đầy đủ. Qua
quan sát, phân tích thấy được những thông tin này là chính xác
+ Phương pháp so sánh phân tích và tổng hợp
Theo phương pháp này khi tìm hiểu được số liệu cụ thể qua các năm số
trẻ khiếm thị được hòa nhập cộng đồng giúp chúng ta thấy được thực trạng
gia tăng số trẻ được hòa nhập cộng đồng từ năm này so với năm khác. Đây là
phương pháp được sử dụng để làm rõ và tổng hợp vấn đề một cách cụ thể hơn
chính xác hơn.
5. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề trẻ em khuyết tật nói chung được rất nhiều các cấp các ngành
và toàn xã hội quan tâm. Đặc biệt là việc nâng cao khả năng hòa nhập cộng
đồng cho các em giúp các em có thể sống một cách tự lập không trở thành
gánh nặng cho gia đình và xã hội là niềm trăn trở không chỉ là người thân các
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 4
Báo cáo tốt nghiệp
em mà còn là mối quan tâm của rất nhiều người. Chính vì vậy đã có rất nhiều
cuộc nghiên cứu, nhiều báo cáo và rất nhiều giải pháp được đưa ra để giải
quyết vấn đề trên, cụ thể:

Đề tài giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tiểu học của Huỳnh Thị Thu
Hằng, Trần Thị Hòa, Lê Thị Hằng đề tài đã nghiên cứu và đưa ra những cách
thức giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật ở bậc tiểu học
Bùi Thị Lâm, Tổ chức thực hiện tiết học cá nhân cho trẻ mẫu giáo
khiếm thính.
Đề tài đã nêu lên cách thức thực hiện những tiết học cá nhân cho trẻ
khiếm thính để giúp các em mẫu giáo bị khiếm thính có thể học được như
những bạn cùng trang lứa khác
Đào Thị Hương Liên, Nghiên cứu các phương pháp dạy học cho trẻ
khuyết tật trong trường chuyên biệt. Đề tài đã nghiên cứu những phương pháp
dạy học cho trẻ khuyết tật trong những môi trường chuyên biệt. Giúp các em
khuyết tật có thể học tập một cách có hiệu quả nhất nhưng đề tài chỉ mới dừng
lại ở phương pháp day học chứ chưa đưa ra được các giải pháp giúp các em
học tập trong môi trường chuyên biệt có thể hòa nhập với bên ngoài
Hoàng Thị Nho, Biên soạn tài liệu dạy kĩ năng định hướng di chuyển
cho trẻ khiếm thị. Đề tài này giúp các em khiếm thị có thể học cách di chuyển
dễ dàng hơn, giúp các em có thể định hướng để di chuyển một cách tốt nhất.
Đối với trẻ khiếm thị thì kỹ năng định hướng để di chuyển là vô cùng quan
trọng và đề tài đã phần nào hỗ trợ giúp các em nâng cao được kỹ năng này.
Nhưng đề tài cũng chưa đưa ra được những cách thức hay giải pháp nhằm
nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ khiếm thị hiện nay.
Trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện nay đã có những đề tài, những báo
cáo về trẻ khuyết tật nhưng chưa có đề tài nào thực hiện tại Tỉnh Hội người
mù Thừa Thiên Huế giúp những trẻ em khiếm thị nơi đây có thể nâng cao khả
năng hòa nhập cộng đồng một cách tốt nhất. Giúp các em cũng như Tỉnh hội
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 5
Báo cáo tốt nghiệp
và gia đình các em tìm ra nguyên nhân giải pháp để nâng cao khả năng hòa
nhập với cuộc sống bên ngoài của các em nơi đây.
6. Đóng góp của đề tài

a.Về mặt khoa học
Đề tài góp phần làm sáng tỏ lý thuyết trị liệu hành vi trong CTXH. Lý
thuyết này có mục đích làm cho thân chủ là trẻ khiếm thị cải thiện được các
chức năng cần có trong sinh hoạt hằng ngày, làm tăng các hành vi mong
muốn đồng thời giảm thiểu các hành vi không cần thiết. Quá trình quan sát
hành vi thân chủ sẽ làm rõ vấn đề và hoàn cảnh môi trường sống của thân chủ
tạo điều kiện đưa ra các phương pháp hỗ trợ, kỹ thuật hỗ trợ thích hợp. Làm
sáng tỏ lý thuyết hành vi chính là làm sáng tỏ môi trường sống, hoàn cảnh
sống của trẻ em khiếm thị sẽ giúp các em cải thiện được những chức năng
khiếm khuyết của mình.
Đồng thời đề tài còn làm sáng tỏ lý thuyết nhu cầu, theo thuyết nhu cầu
thì con người có 5 nhu cầu cơ bản: nhu cầu sinh tồn, nhu cầu an toàn, nhu cầu
xã hội, nhu cầu tôn trọng, nhu cầu khẳng định mình. Bất cứ một con người
nào cũng có 5 nhu cầu cơ bản như trên và trẻ em khiếm thị cũng không phải
là một ngoại lệ. Các em cũng có 5 nhu cầu cơ bản như trên và việc được hòa
nhập cộng đồng cũng là một nhu cầu vô cùng quan trọng nó thể hiện nhu cầu
xã hội của trẻ khiếm thị tức là trẻ được tham gia các hoạt động xã hội. Bên
cạnh đó việc hòa nhập cộng đồng còn thể hiện việc đáp ứng nhu cầu tôn trọng
tức là trẻ khiếm thị được tôn trọng được mọi người thừa nhận là người có ích
cho xã hội.
b.Về mặt thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất những giải pháp, biện pháp nâng
cao khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ khiếm thị tại tỉnh Hội người mù
Thừa Thiên Huế. Những đề xuất kiến nghị của đề tài có thể được tham khảo,
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 6
Báo cáo tốt nghiệp
chọn lọc vận dụng vào thực tiển chỉ đạo tổ chức hoạt động hòa nhập cộng
đồng của Tỉnh Hội.
7. Bố cục của đề tài
Báo cáo ngoài mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo

và phụ lục nội dung chính được chia đề tài thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2. Thực trạng hòa nhập cộng đồng cho trẻ khiếm thị tại Tỉnh
Hội người mù Thừa Thiên Huế
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng
cho trẻ khiếm thị tai Tỉnh Hội người mù thừa Thiên Huế
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 7
Báo cáo tốt nghiệp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tỉnh Hội người mù Thừa
Thiên Huế
Người xưa có câu ‘‘giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay’’. Xuất phát từ
tâm tư nguyện vọng của người mù trong tỉnh, ngày 28/10/1993 Hội người mù
được UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế ra quyết định 1164/QĐ- UBND cho phép
thành lập, nhằm mục đích để chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho
người mù có cuộc sống ổn định, vươn lên hòa nhập cộng đồng. Những hoạt
động chủ yếu là phát triển tổ chức, thành lập các đơn vị cơ sở huyện, thành
hội, chi hội, điều tra khảo sát kết nạp hội viên, mở lớp xóa mù chữ Braille,
nâng cao dân trí, mở các lớp dạy con em người mù phát triển kinh tế gia đình.
Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ để thực thi những dự án
phục vụ hội.
Sau 20 năm hoạt động Hội đã thành lập được 9 đơn vị huyện, thành, thị
hội, 137 chi hội xã, phường, thị trấn, kết nạp 1998 hội viên/ 3000 người mù.
Số hội viên trong độ tuổi lao động và độ tuổi học tập chiếm 40%. Hội người
mù tỉnh thừa Thiên Huế luôn chú trọng và đẩy mạnh tất cả các mặt hoạt động
nhằm giúp người mù nâng cao trình độ văn hóa. Đa số người mù trình độ dân
trí thấp, ít được học hành, nhất là những người bị mù lúc còn nhỏ hoặc bẩm
sinh, những người ở vùng sâu vùng xa. Hàng năm hội tổ chức chiêu sinh trẻ

em mù tạo điều kiện cho các em được sống và học tập tại trung tâm GD-HN
Trẻ em mù. Trong 5 năm qua hội đã mở được 21 lớp xóa mù chữ cho 295 hội
viên, 4 lớp phổ cập THCS cho 39 em là học sinh trung tâm, hội viên trẻ. Tổng
số 525 hội viên trong độ tuổi đã được xóa mù, phổ cập giáo dục, bổ túc văn
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 8
Báo cáo tốt nghiệp
hóa đạt gần 70%. Hội người mù Thừa Thiên Huế đã có 5 em tốt nghiệp trung
học VHNT, hiện có 13 em đã và đang theo học Đại học.
Tính từ năm 2004 – 2013 các huyện, thị, thành hội, công ty, HTX,
CSSX đã triển khai 280 dự án với tổng nguồn vốn quay vòng và vốn mới bổ
sung qua các năm gần 18 tỉ đồng cho 4937 lượt người vay, thu hút thêm 5991
lao động nhàn rỗi. Không chỉ dừng lại ở đây với sự năng động, tìm tòi và tháo
gỡ tổ chức cho người mù được học nghề và làm nghề là nhu cầu bức thiết vì
vậy ngày 17/8/2006 của Ủy ban nhân dân Thừa Thiên Huế ra quyết định số
1910/QĐ-UBND thành lập trung tâm dạy nghề và tạo việc làm cho người
mù. Đến nay đã mở được 5 lớp vi tính cho 90 lượt học viên, 9 lớp học viên
xoa bóp được đào tạo là những người mù trong độ tuổi quy định ở khu vực
Miền Trung và Tây Nguyên với tổng số lượt học viên là 215 người. Những
năm trước đây nói đến việc tìm việc làm cho người mù ai cũng e ngại hỏi
‘‘người mù thì có thể làm được gì ?’’ nhưng giờ đây người dân Huế đã quen
thuộc với hình ảnh những người mù làm kỹ thuật viên xoa bóp , làm ra sản
phẩm là những cái chổi, que tăm với mẫu mã và kỹ thuật được thị trường
chấp nhận. Và điều đặc biệt là công ty TNHH Niềm tin 17/4 được thành lập
nhằm tháo gỡ những khó khăn về việc làm sau đào tạo, tuy nhiên ‘‘vạn sự
khởi đầu nan’’, ban đầu công ty còn gặp nhiều khó khăn. Cán bộ lãnh dạo
kiêm nhiệm, anh em trong công ty còn nhiều băn khoăn , cơ sở vắng khách
thu nhập của nhân viên còn thấp. Thế nhưng tính đến thời điểm hiện nay thu
nhập bình quân của nhân viên xoa bóp đạt gần 1.900.000đ. Con số này cho
thấy hiệu quả của hướng đi mới trong công việc hành nghề cho người mù góp
phần tăng thu nhập giúp người mù giảm bớt khó khăn trong cuộc sống. Hiện

nay trên địa bàn có khoảng 68 kỹ thuật viên xoa bóp và giải quyết việc làm
cho 300 lao động có ngành nghề. Điều trăn trở của lãnh đạo công ty là mong
muốn làm sao để mở được thêm những cơ sở mới để tạo thêm việc làm cho
người mù
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 9
Báo cáo tốt nghiệp
Những kết quả đã đạt được trong 20 năm qua Hội người mù tỉnh Thừa
Thiên Huế đã vinh dự đón nhận huân chương Lao Động hạng 3 năm 2004,
huân chương lao động hạng 2 năm 2009, 3 bằng khen của Thủ Tướng Chính
Phủ, 4 bằng khen của Bộ Lao động Thương Binh Xã hội, 108 bằng khen của
UBTWMTTQVN, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, của TW hội người mù Việt
Nam, 106 giấy khen của các cấp các ngành trong tỉnh trao tặng cho các tập
thể cá nhân trong hội. Đây thực sự là vinh dự to lớn của Hội người mù tỉnh.
Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, ban ngành tổ chức, cá nhân từ
thiện trong và ngoài nước, tập thể cán bộ Hội người mù tỉnh Thừa Thiên Huế
nguyện đoàn kết, phấn đấu để dưa tổ chức hội và các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc ngày càng vững mạnh, đời sống của người mù ngày một đi lên
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 10
Báo cáo tốt nghiệp
1.1.2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế

SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 11
Chủ tịch
LÊ VĂN LỘC
PHÓ CHỦ TỊCH
PHAN VĂN TAM
PHÓ CHỦ TỊCH
PHAN VĂN QUỐC
CHÁNH VĂN PHÒNG
ĐẶNG CÔNG CHÁNH

KẾ TOÁN
NGUYỄN VĂN HẬU
VĂN THƯ
NGUYỄN THỊ HÀ
THỦ QUỸ
LÊ THỊ THƯƠNG
GIÁO VIÊN
NGUYỄN VIẾT QUỲNH
GIÁO VIÊN
BÙI THỊ XÍM
GIÁO VIÊN
NGUYỄN NGỌC
DUNG
BẢO MẪU
TRẦN THỊ GÁI
CẤP DƯỠNG
TRẦN THỊ MINH
Báo cáo tốt nghiệp
Ở Tỉnh Hội người chịu trách nhiệm chung và là người quản lý cao nhất
cho mọi hoạt động của Tỉnh Hội đó là chủ tịch: Lê Văn Lộc
Có 2 phó chủ tịch cùng giúp việc cho chủ tịch đó là ông Phan Văn Tam
chịu trách nhiệm quản lý bên mảng sản xuất và lao động việc làm và ông
Phan Văn Quốc chịu trách nhiệm bên mảng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em
khiếm thị.
Tỉnh Hội gồm có 1 chánh văn phòng bên cạnh đó có các phòng ban
gồm kế toán, văn thư, thủ quỹ. Có 3 giáo viên dạy lớp 1,2,3 có 1 cấp dưỡng
và 1 bảo mẫu
1.2. Một số khái niệm liên quan
1.2.1. Khái niệm về trẻ em
Trẻ em là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau.

Tuỳ theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hay cấp độ đánh giá mà đưa ra
những định nghĩa hay khái niệm về trẻ em. Có thể tiếp cận về mặt sinh học,
tiếp cận về mặt tâm lý học, y học, xã hội học Từ những khái niệm tiếp cận
đi đến những khái niệm hoặc định nghĩa khác nhau về các nhóm trẻ em. Tuy
vậy, trong các định nghĩa hoặc khái niệm đó đều có những điểm chung và
thống nhất là căn cứ vào tuổi đời để xác định số lượng trẻ em. Quốc tế đã đưa
ra khái niệm chung là: ‘‘ Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi
luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Khái niệm này đã lấy
tuổi đời để định nghĩa trẻ em và lấy mốc là dưới 18 tuổi. Khái niệm này cũng
được mở rộng cho các quốc gia có thể qui định mốc tuổi dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau của các ngành
khoa học cũng như từ bản chất chính trị - xã hội và thực tiễn truyền thống văn
hoá, khả năng nguồn lực của Nhà nước mà đưa ra khái niệm cụ thể về trẻ em.
* Điển hình ngành khoa học lao động đã căn cứ tâm sinh lý của con
người để xác định những người đủ15 tuổi trở lên được xếp vào lực lượng lao
động nhưng vẫn khuyến khích các em độ tuổi từ 15 -18 đến trường.
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 12
Báo cáo tốt nghiệp
* Tiếp cận từ chính sách chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em qui định
trẻ em là những người dưới 16 tuổi
* Tiếp cận khía cạnh pháp luật có qui định thêm tuổi vị thành niên ( 16
-18 tuổi).
Như vậy, khái niệm trẻ em có thể được hiểu là: Trẻ em là những người
dưới 16 tuổi, người từ 16 tuổi đến đủ 18 tuổi coi là vị thành niên và trong một
số trường hợp như làm trái pháp luật,nghiện hút, mại dâm thì cũng được coi
như trẻ em và có biện pháp giải quyết đặc thù riêng.
1.2.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật
Theo pháp lệnh về người tàn tật:" người tàn tật không phân biệt nguồn
gốc gây ra tàn tật là người khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng

hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn ( điều
1-pháp lệnh về người tàn tật).
Từ khái niệm về người tàn tật có thể hiểu trẻ em tàn tật (hay trẻ em
khuyết tật):" là những trẻ em dưới 16 tuổi không phân biệt nguồn gốc gây ra
tàn tật, bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc trí não làm ảnh
hưởng đến một hay nhiều chức năng của cơ thể mà cần sự giúp đỡ để phục
hồi và hoà nhập vào cộng đồng".
Quan niệm về người tàn tật được thể hiện trong bộ luật cơ bản về phúc
lợi người tàn tật năm 1993 của Nhật Bản:"Những người bị khuyết tật về thể
lực và trí lực được dùng trong khái niệm này để chỉ những ai mà cuộc sống
hàng ngày hoặc cuộc sống xã hội của họ có nhiều trở ngại đáng kể trong một
thời gian dài vì lý do chân tay hoặc thân thể bị tàn tật, một sự khuyết tật trong
chức năng thị lực, thính giác, một sự rối loạn trong chức năng nói, đọc và các
cơ quan nội tạng như là tim, phổi cũng như là các khuyết tật về mặt thần kinh
như sự phát triển chậm về mặt trí tuệ thì được gọi là người tàn tật".
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 13
Báo cáo tốt nghiệp
So sánh các định nghĩa trên cho thấy không phải tất cả những người bị
khiếm khuyết về cơ thể hoặc chức năng đều được coi là tàn tật mà chỉ có
những người vì thế gặp nhiều khó khăn trong lao động và học tập thì mới
được coi là tàn tật.
Như vậy, rõ ràng ở đây không phải tất cả các em bị một khiếm khuyết
về cơ thể và chức năng đều liệt vào TETT mà chỉ có những trẻ vì thế mà khả
năng tham gia vào các hoạt động xã hội gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn,
những em câm điếc thì về thể chất vẫn khoẻ mạnh không ảnh hưởng gì đến
sinh hoạt cá nhân hàng ngày nhưng không thể học chung với trẻ em bình
thường khác; hoặc những em liệt gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt hàng
ngày cũng như đi học nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, các em có khả năng tiếp
thu kiến thức khoa học. Những trẻ em này nếu không có sự giúp đỡ đặc biệt
về giáo dục, về phục hồi chức năng, về phương tiện trợ giúp thì không thể đến

trường, tham gia vào các hoạt động xã hội khác.
1.2.3. Khái niệm trẻ khiếm thị
Trẻ khiếm thị là trẻ dưới 18 tuổi có khuyết tật thị giác, khi đã có
phương tiện trợ giúp nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động cần
sử dụng mắt.
1.2.4. Khái niệm hòa nhập cộng đồng
Hòa nhập cộng đồng theo nghĩa rộng là một xã hội không có rào cản
cho mọi người trong việc tham gia vào đời sống xã hội. trong tiến trình xã hội
hóa của cá nhân sẽ không gặp bất cứ khó khăn nào làm trở ngại đến tâm lý,
sức khỏe và về mặt xã hội.
Theo nghĩa hẹp đó là sự hòa nhập của các nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương trong việc tham gia vào đời sống xã hội. Những rào cản này bao gồm
thái độ kỳ thị xa lánh và phân biệt đối xử thậm chí là bất bình đẳng của cộng
đồng đối với từng cá nhân
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 14
Báo cáo tốt nghiệp
1.3. Quản lý Nhà nước đối với bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1.3.1. Khái niệm về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Trong công tác trẻ em thường dùng ba thuật ngữ: "Bảo vệ', "chăm sóc",
"giáo dục" trẻ em. Có thể hiểu ba thuật ngữ này qua cac hành vi sau đây:
Hai hành vi cơ bản quan trọng nhất để bảo vệ trẻ em :
- Phòng ngừa để trẻ em không bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn:
bao gồm phòng ngừa tàn tật, phòng ngừa mồ côi, phòng ngừa bị xâm hại tình
dục, phòng ngừa trẻ em nghiện ma tuý, phòng ngừa lang thang.
- Khi trẻ em vì một lý do nào đó đã rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn thì phải giúp chúng thoát ra khỏi hoàn cảnh đó, trở về cuộc sống bình
thường (tái hoà nhập cộng đồng) hoặc không để tình hình xấu hơn (từ mồ côi
thành lang thang, từ một dạng tật do thiếu sự quan tâm cần thiết trở thành hai
dạng tật, từ lang thang thành tội phạm nghiện hút ).
Hai hành vi cơ bản quan trọng để chăm sóc trẻ em:

- Người lớn nhận biết và đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần trong sự
phát triển của trẻ( nhu cầu ăn mặc, học hành,vui chơi giải trí, nhu cầu được
thương yêu, được tôn trọng )
- Người lớn thường xuyên đưa trẻ vào những hoạt động xã hội phù hợp,
năng động và vui vẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển theo từng lứa tuổi.
Những hành vi cơ bản, quan trọng nhất để giáo dục trẻ em:
- Đáp ứng nhu cầu của trẻ em trong việc nhận thức phát triển kiến thức,
hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người
- Tạo điều kiện tốt nhất để trẻ em được đến trường, tiếp cận với nền
giáo dục cơ bản thông qua hoạt động học tập ở nhà trường
- Tạo điều kiện và tổ chức chăm lo đời sống,văn hoá tinh thần vui chơi
giải trí cho mọi trẻ em.
Các thuật ngữ trên đây tuy có khác nhau về nhiều mặt riêng nhưng
thống nhất và hỗ trợ cho nhau. Nếu ta quan tâm chăm sóc trẻ em thì hiển
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 15
Báo cáo tốt nghiệp
nhiên ta phải bảo vệ chúng trước mọi rủi ro của cuộc sống. Đồng thời khi ta
quan tâm đến việc giáo dục trẻ em, hiển nhiên ta phải chăm sóc tới sự phát
triển bình thường của chúng
1.3.2. Quản lý Nhà nước đối với bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khiếm thị
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, trẻ em khiếm thị
(TEKT) là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.
Nhà nước với tư cách là người tổ chức, người quản lý xã hội, do thấy
hết tầm quan trọng của việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung,
TEKT đã luôn quan tâm đến vấn đề này. Thông qua các hoạt động lập pháp,
hành pháp, tư pháp và các hoạt động cung cấp các dịch vụ xã hôi cơ bản. Đó
chính là hoạt động điều hành và quản lý của Nhà nước như xây dựng và triển
khai thực hiện các chính sách, luật pháp nhằm vừa bảo vệ, vừa chăm sóc và
giáo dục trẻ em, đặc biệt là tạo môi trường xã hội để ngăn ngừa, hạn chế trẻ
em khiếm thị.

Như vậy, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục TEKT của Nhà nước
là tạo môi trường pháp lý, hành chính thuận lợi để bảo vệ quyền của trẻ em và
tạo điều kiện để các em hoà nhập công đồng, hội nhập để phát triển toàn diện
như những trẻ em bình thường khác.
Cụ thể, trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khiếm thị,
Nhà nước thể hiện chức năng quản lý của mình bằng việc bảo vệ các em
chống lại bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào và có những biện pháp tích
cực để bảo vệ quyền trẻ em, Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại sự xâm
hại về thể chất hay tinh thần, kể cả việc bóc lột và lạm dụng trẻ em. Nhà
nước bảo vệ trẻ em không bị bóc lột về kinh tế, không phải làm những công
việc làm ảnh hưởng đến học tập của các em hay tổn hại đến sức khoẻ, phúc
lợi của các em.
Nhà nước đảm bảo cho các em được tiếp xúc với các thông tin và tài
liệu có xuất xứ từ các nguồn khác nhau, phải khuyến khích các phương tiện
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 16
Báo cáo tốt nghiệp
thông tin đại chúng truyền bá những thông tin có ích lợi về mặt văn hoá xã
hội đối với trẻ em, Nhà nước bảo vệ trẻ em chống lại những tài liệu nguy hại.
Đối với các trẻ em bị tước mất môi trường gia đình, Nhà nước có nghĩa vụ
bảo vệ đặc biệt, đảm bảo sao cho các em được hưởng sự chăm sóc thích hợp,
thay thế cho sự chăm sóc của gia đình hoặc có những cơ sở nuôi dạy các em.
Trẻ em có quyền được bảo vệ không phải làm những công việc gây tổn
hại đến sức khoẻ, giáo dục và sự phát triển của các em. Do vậy, Nhà nước
phải quy định đối với việc tuyển mộ lao động và quy định những điều kiện
lao động để tránh cho các em các đáng tiếc kể trên
Như vậy, quản lý Nhà nước đối với bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em là các hoạt động của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các gia đình có đối tượng
thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo, vay
vốn, tạo việc làm, cứu trợ xã hội
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy

định:" người tàn tật, Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và
xã hội trợ giúp"( điêù 67), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng
quy định taị khoản 3, điều 6:"TETT, Trẻ em khuyết tật được Nhà nước và xã
hội giúp đỡ trong việc điều trị, phục hồi chức năng để hoà nhập vào cộng
đồng xã hội, được thu nhận vào các trường lớp đặc biệt".
Nhà nước trợ cấp cho những đối tượng quá khó khăn thông qua chính
sách Bảo trợ xã hội, đồng thời đề ra những chính sách cụ thể về quản lý, phát
triển các dịch vụ đặc biệt nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về vấn đề
này, tổ chức đào tạo cán bộ chuyên môn, xây dựng các trung tâm nuôi dưỡng
trẻ khiếm thị cũng như các trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng cho trẻ
tàn tật.
Quản lý Nhà nước đối với chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em khiếm
thị không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ ăn, mặc mà còn:"giúp đỡ để mọi trẻ em
được phổ cập giáo dục theo qui định, giảm trẻ em bỏ học, thất học, lưu ban,
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 17
Báo cáo tốt nghiệp
thu hút trẻ em quá độ tuổi vào các lớp học, tích cực phòng chống tình trạng
trẻ em khiếm thị bị thất học ( chỉ thị 55 - CT/TƯ ngày 28/6/2000 của Bộ
chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Uỷ đảng ở cơ sở đối với công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em). Bên cạnh đó" trẻ em là con liệt sỹ,
thương binh nặng, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện quan
tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết để đạt trình độ giáo dục tiểu học". ( Điều
11 - Luật giáo dục phổ cập tiểu học). Khi trẻ đến độ tuổi thích hợp, cần tổ
chức dạy nghề, tạo việc làm phù hợp với thể trạng của trẻ để trẻ có thu nhập.
Tóm lại, Nhà nước với tư cách là người quản lý xã hội có trách nhiệm:
- Ban hành hệ thống luật pháp để mọi người dân, mọi tổ chức và bản thân
Nhà nước phải thực hiện tốt trách nhiệm của mình để bảo vệ quyền trẻ em.
- Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống trường sở, hệ thống bệnh viện, hệ
thống các trung tâm phục hồi chức năng, cơ sở vui chơi giải trí để các em

được học hành, chữa bệnh, vui chơi.
- Nhà nước quan tâm tới các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của nhân dân và tổ chức đào tạo những người làm công tác xã hội ở các cấp.
- Nhà nước trực tiếp hỗ trợ cho những đối tượng đặc biệt khó khăn
nhất và ban hành chính sách hỗ trợ gia đình nghèo, gia đình có trẻ em tàn tật,
trẻ em mồ côi, mở các trường lớp chuyên, các trung tâm phục hồi chức
năng để giúp các em học tập, chữa trị, có cơ hội bình đẳng như trẻ em khác
để hoà nhập cộng đồng.
- Nhà nước quản lý các tổ chức ở trong nước, ở các thành phần khác
nhau (tư nhân, từ thiện ) làm nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
khiếm thị.
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 18
Báo cáo tốt nghiệp
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO TRẺ
KHIẾM THỊ TẠI TỈNH HỘI NGƯỜI MÙ THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Thực trạng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em khiếm thị tại tỉnh Hội
2.1.1. Thực trạng đời sống của trẻ khiếm thị
Những trẻ em khiếm thị là những mảnh đời chịu rất nhiều thiệt thòi vì
các em chẳng thể thấy được những sắc màu tươi đẹp của cuộc sống bằng đôi
mắt của mình. Các em chỉ có thể cảm nhận thay cho việc nhìn thấy cuộc đời
thông qua đôi bàn tay, đôi tai lắng nghe để biết được rằng vạn vật xung quanh
có hình thù như thế nào. Bạn đã bao giờ nhắm mắt lại từ mò mẫm tìm đường
đi, sờ nắn những đồ vật bằng đôi tay để biết nó là vật gì thì bạn sẽ thấu hiểu
được những khó khăn của trẻ khiếm thị. Hay đơn giản như trò chơi bịt mắt bắt
dê thuở nhỏ ai chẳng từng chơi một lần cái cảm giác bước đi bằng đôi chân
nhưng đôi tay định hướng thay cho đôi mắt để tìm đến đối phương thật là khó
khăn. Nhưng nó chỉ là một trò chơi và ta chỉ trãi nghiệm nó trong một chốc lát
còn những trẻ em khiếm thị thì đối với các em bất cứ một trò chơi hay hoạt
động nào cũng là “bịt mắt bắt dê.”
Khi lần đầu tiên đến với Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế bước vào

cổng tôi bắt gặp hình ảnh đầu tiên đó là các em nhỏ cứ níu lấy áo nhau như
một đoàn tàu rồi dẫn nhau đi từng bước nhỏ cứ từ từ như thế các em đưa nhau
vào lớp học. Đó cũng là lần đầu tôi bắt gặp những em nhỏ khiếm thị một cảm
giác khó tả tôi chợt thấy mình thật may mắn vì mình được sinh ra là một
người không khuyết tật. Tôi đến bên cửa lớp học nghe cô giáo dạy các bạn
nhỏ đọc rồi viết chữ braille tôi thấy khâm phục vô cùng cô trò nơi đây. Cô
giáo cũng là một người khiếm thị nhưng cách cô chỉ dạy các em với nụ cười
luôn ở trên môi làm tôi thấy tuy họ không may mắn vì mất đi đôi mắt nhưng
họ có một tâm hồn sáng để dẫn lối họ đi bất cứ nơi đâu.
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 19
Báo cáo tốt nghiệp
Có lẽ đến bất cứ cơ quan nào việc gặp giám đốc có lẽ là rất khó, nếu
bạn là sinh viên bạn đến xin tài liệu hay tìm hiểu thông tin gì thì sẽ chẳng có
cơ quan nào cho bạn nếu không có giấy giới thiệu của trường. Nhưng đến với
Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế bạn được tiếp đón rất ân cần, nhiệt tình
những gì bạn cần mà những người phụ trách chưa cung cấp được hết bạn
được gặp Chủ tịch để giải quyết ngay. Một môi trường thân thiện hòa đồng và
giúp đỡ nhau làm tôi thấy ở đây như một gia đình. Qua tìm hiểu tôi được biết
rằng Tỉnh Hội có 300 trẻ em khiếm thị và hiện tại đang nuôi dạy 43 trẻ nhỏ
các em ở khắp nơi trên địa bàn Thừa Thiên Huế được chiêu sinh về đây và
hầu hết là các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Như thông thường các
trường học khác cứ đến mùa tựu trường thì phụ huynh đưa con em đến nhập
học nhưng ở Tỉnh Hội người mù thì lại khác cứ đến mùa hè ban lãnh đạo và
các cô giáo nơi đây phải rong ruổi suốt các huyện, thị xã và thành phố để
chiêu sinh các em cho năm học mới. Nhiều trường hợp các cô các chú trong
Tỉnh Hội còn phải vận động tuyên truyền khuyến khích khi đó gia đình mới
cho con em đi học. Khi về với Tỉnh hội các em được học chữ Braille, được
học lớp hòa nhập cũng như phục hồi chức năng bên cạnh đó các em còn được
sự chăm sóc tận tình của các cô và bảo mẫu. Các em được chăm lo từ bữa ăn
giấc ngủ các cô xem các em như con cái của mình. Đối diện với lớp học của

các em là nơi các em nghĩ ngơi sinh hoạt như một gia đình mọi thứ đếu ngăn
nắp sạch sẽ và mọi thứ các em đều tự sắp xếp. Ban lãnh đạo nơi đây luôn trăn
trở làm sao cho các em có được một cuộc sống tốt nhất được chăm lo đầy đủ
như bao trẻ em khác.
Tuy rằng các em kém may mắn hơn những bạn nhỏ khác nhưng khi
nhìn thấy sự chăm sóc tận tình cũng như việc tạo điều kiện về mọi mặt để làm
sao cuộc sống của các em đầy đủ hơn nữa từ những tấm lòng đầy nhân hậu và
tâm huyết của tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế thì phần nào đã bù đắp
được những mất mát mà các em gặp phải. Để các em trở thành những người
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 20
Báo cáo tốt nghiệp
con có ích cho xã hội, để các em có quyền hi vọng một cuộc sống tươi đẹp
trong tương lai như bao người bình thường khác. Và một điều minh chứng cụ
thể nhất đó là nhiều em đã trở thành những sinh viên xuất sắc những con
ngoan trò giỏi và là những tấm gương để nhiều người học tập và Tỉnh hội
người mù là ngôi trường đầu tiên nuôi dạy các em.
Sự chăm lo của các cô chú ở tỉnh Hội đối với các em là rất lớn nhưng
do số lượng của các em thì nhiều nhưng cô giáo và bảo mẫu ở đây lại rất ít
hiện tại thì có 43 trẻ nhưng chỉ có 3 cô giáo và 1 bảo mẫu nên việc chăm sóc
các em cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh thiếu nhân lực là sự thiếu thốn
về vật chất để hỗ trợ các em trong các hoạt động đời sống thường ngày và
trong học tập như việc di chuyển hay là những đồ chơi cho các em ngoài
những giờ học văn hóa. Cũng do sự thiếu thốn về kinh phí nên nhiều lúc các
cô đã phải tính toán đắn đo làm sao cho bữa cơm của các em không thiếu vi
chất để các em được phát triển tốt như bao bạn nhỏ khác. Tỉnh hội người mù
là một môi trường chuyên biệt cho các em khiếm thị chính vì vậy các em ít
được giao lưu gặp gỡ cũng như tham gia vào các hoạt động bên ngoài để hòa
nhập được dễ dàng hơn. Chính vì vậy mà từ khi được thành lập và nuôi dạy
trẻ em khiếm thị tại Tỉnh hội thì việc nâng cao khả năng cũng như tạo cơ hội
cho trẻ ở đây được hòa nhập cộng đồng là vấn đề luôn được quan tâm hàng

đầu của tỉnh hội cũng như của các cấp và ban ngành trong toàn tỉnh.
2.1.2. Thực trạng công tác hòa nhập cộng đồng của trẻ khiếm thị
Giúp trẻ em khiếm thị hòa nhập cộng đồng là một trong những giải
pháp quan trọng giúp các em bớt mặc cảm, có động lực và điều kiện vươn lên
trong cuộc sống. Những năm qua, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã tạo điều kiện cho
trẻ khiếm thị đến trường học văn hóa, học nghề. Nhờ đó, hàng trăm trẻ khiếm
thị đã được xóa mù chữ, nâng cao dân trí, có việc làm tự nuôi sống bản thân.
Toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế có trên 3.000 người mù, trong đó có hơn
40% ở trong độ tuổi lao động đang cần có việc làm phù hợp, tạo thu nhập ổn
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 21
Báo cáo tốt nghiệp
định cuộc sống. Đặc biệt, trong số đó có hơn 300 trẻ em khiếm thị đang nằm
trong độ tuổi học đường. Phần lớn gia đình các em đều thuộc diện nghèo.
Cuộc sống của các em phụ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của gia đình,
người thân, ít được học hành.
Trung tâm Trung tâm Giáo dục - Hướng nghiệp trẻ em mù thuộc Hội
Người mù Thừa Thiên Huế là một địa chỉ tin cậy của trẻ khiếm thị. Được
thành lập từ năm 1995, trung tâm đã tạo điều kiện cho các em học phục hồi
chức năng, học chữ Braille, các lớp tiền hòa nhập. Các em được học đánh
máy chữ, học vi tính dành cho người mù. Hiện, Trung tâm Giáo dục - Hướng
nghiệp trẻ em mù đang nuôi dạy 43 học sinh. Hàng năm, Trung tâm cử cán bộ
về cơ sở, khảo sát số trẻ em mù trong độ tuổi 6 - 18 tuổi để chiêu sinh. Sau
đó, các em được học các lớp tiền tiền hòa nhập từ lớp 1 đến lớp 3. Lên lớp 4,
các em được Trung tâm tạo điều kiện cho học hòa nhập tại các trường tiểu
học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tùy theo khả năng, các em có
thể học lên bậc đại học, cao đẳng, trung cấp nghề Em Nguyễn Hoàng Tú (10
tuổi) ở phường Phú Bài, thị xã Hương Thủy bị mù bẩm sinh. Trước đây, Tú
chỉ biết làm bạn với mấy bức tường. Được vào học ở trung tâm, cuộc đời Tú
như bước sang một trang mới. Lật cuốn sách chữ nổi chương trình lớp 3, Tú
lấy hai tay sờ sờ rồi đọc thành thạo. Tú nói: “Ở đây, em rất vui. Em được học

chữ, được vui chơi cùng bạn bè và được các thầy cô chăm sóc, dạy dỗ”
Ông Đặng Công Chánh, Chánh văn phòng cho biết:” Khi các em đến
trung tâm, chúng tôi động viên các em làm tất cả mọi việc như trẻ bình
thường như ăn uống, tắm giặt, chăm sóc bản thân, đi lại mà không cần giúp
đỡ của người khác. 10 năm qua, có gần 140 em học sinh được học tập và sinh
hoạt tại trung tâm, trong đó có 13 em đã học lên đại học, đạt thủ khoa các
ngành học. Điển hình như em Nguyễn Văn Duy đã đỗ thủ khoa kỳ thi tuyển
sinh đại học năm 2007, ngành Luật, trường Đại học Khoa học Huế. Em Trần
Thị Mỹ Lài thủ khoa năm 2008, chuyên ngành Ngữ Văn, trường Đại học
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 22
Báo cáo tốt nghiệp
Khoa học Huế. Em Mai Thị Tư, thủ khoa năm 2008, bộ môn biểu diễn đàn
tranh, Học viện Âm nhạc Huế ”
Ngoài thời gian học văn hóa, các học sinh ở Trung tâm được định
hướng nghề nghiệp phù hợp với trình độ, sức khỏe, lứa tuổi, năng khiếu, với
các lĩnh vực như âm nhạc, ngoại ngữ,nhờ đó các em có đủ khả năng thi tuyển
vào các trường văn hóa nghệ thuật hoặc học nghề. Đến nay, trung tâm đã có 5
em được đào tạo và tốt nghiệp chính quy ở trường trung học văn hóa nghệ
thuật. Nhiều em được phục hồi chức năng đã trở về gia đình. Trung tâm cũng
tạo điều kiện cho những em không có khả năng học lên được học nghề và tạo
việc làm, giúp các em có thu nhập để có thể tự nuôi sống bản thân.
Chúng ta có thể thấy rằng ngoài việc chăm lo cho các em khiếm thị
có một cuộc sống tốt hơn với sự chăm sóc tận tình của các cô các chú ở
Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế. Thì Các em còn được tạo điều kiện để
được học những môn năng khiếu hay tin học hay tạo điều kiện cho các em
học nghề để có thể tự kiếm sống bàng dôi bàn tay và sức lao động của
chính bản thân mình mà không phụ thuộc vào người thân. Sự nỗ lực chăm
lo cho các em và tạo điều kiện cho các em hòa nhập cộng đồng xóa bỏ rào
cản mặc cảm tự ti là vô bờ bến của Ban lãnh đạo Tỉnh Hội người mù Thừa
Thiên Huế. Nhưng chúng ta cũng biết rằng mang trong mình những khuyết

tật không mong muốn các em cần rất nhiều thời gian, nhiều cơ hội và nhiều
hoạt động cộng đồng để có thể hòa nhập với cộng đồng như bao người bình
thường khác. Đồng thời cũng cần phải nhấn mạnh rằng cộng đồng cần phải
nhìn nhận các em bằng những năng lực mà các em có chứ không phải là sự
thương hại. Vì trong cuộc sống này không thiếu những ánh mắt coi thường
những lời nói vô trách nhiệm và những hành động vô tâm khiến cho người
khuyết tật nói chung và những trẻ em khiếm thị nói riêng cảm thấy tự ti và
mất niềm tin vào cuộc sống
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 23
Báo cáo tốt nghiệp
2.2. Nguyên nhân và khó khăn hạn chế khả năng hòa nhập cộng đồng của
trẻ khiếm thị
2.2.1. Nhóm nguyên nhân từ trẻ
Để giúp các em có một cuộc sống hòa nhập với những người xung
quang một cách tốt nhất thì chúng ta cần phải tìm hiểu những nguyên nhân
sâu xa dẫn tới vấn đề. Các em khiếm thị là những mảnh đời bất hạnh, kém
may mắn nên các em rất nhạy cảm, một lời nói của những người xung quanh
cũng khiến cho các em thu mình lại với thế giới bên ngoài. Nên nguyên nhân
đầu tiên dẫn đến hạn chế khả năng hòa nhập cộng đồng ở trẻ chính là từ trẻ.
Theo ông Lê Văn Lộc cho biết : “hầu hết trẻ khiếm thị tại tỉnh hội người mù
luôn mang trong mình mặc cảm tự ti với cuộc sống và các em ngại tiếp xúc
với bên ngoài.” Đây chính là rào cản lớn nhất khiến các em chỉ thu nhỏ mình
lại và môi trường mà các em tiếp xúc chỉ bó hẹp trong tỉnh hội và gia đình.
Luôn mang trong mình tư tưởng mình là “người bỏ đi” mình là “người tàn
phế” là gánh nặng cho những người xung quanh khiến các em tự làm mình
mất đi những quyền đáng được hưởng. cuộc sống của các em phần lớn là do
các em quyết định nhưng các em không muốn bước ra ngoài xã hội ấy hay
muốn nhưng trong mình luôn mang tư tưởng sợ hãi, lo lắng về những khuyết
tật của chính bản thân mình. Chính vì vậy mà các em tự xây lên những
tường rào đầu tiên và khó có thể phá bỏ giữa cuộc sống của các em với thế

giới xung quanh mình. Hay nói một cách khác thì chính những mặc cảm tự ti
của các em làm cho các em mất đi cơ hội hòa nhập cộng đồng của chính bản
thân mình.
2.2.2. Nhóm nguyên nhân từ gia đình trẻ
Gia đình là cái nôi quan trọng là môi trường đầu tiên của mỗi con
người và gia đình là một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
sống của mỗi cá nhân. Đối với người khuyết tật nói chung và trẻ em khiếm thị
nói riêng thì gia đình có yếu tố quyết định vô cùng lớn đối với cuộc sống của
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 24
Báo cáo tốt nghiệp
các em. Cũng chính vì thế mà gia đình cũng là một nguyên nhân trực tiếp làm
hạn chế khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ khiếm thị ở tỉnh hội người mù
Thừa Thiên Huế.
Một thực trạng có thể dễ nhận thấy ở những gia đình có con khiếm thị
đó là họ cũng mặc cảm tự ti với cộng đồng xung quanh khi có con bị khuyết
tật, họ ngại cho con mình tiếp xúc với người ngoài. Theo ông Phan Văn Quốc
phó chủ tịch Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế cho biết: “ Khi đi chiêu sinh
trẻ em mù hàng năm trên địa bàn toàn tỉnh thì luôn gặp những trường hợp gia
đình không đồng ý cho con mình về Tỉnh Hội học tập và sinh sống” . Có thể
trong tư tưởng những người làm cha làm mẹ có con khuyết tật thì họ lo sợ con
cái của mình không được chăm sóc chu đáo tận tình trong khi cuộc sống của
các con lại không thể tự chăm sóc mình. Hay cũng có thể là họ không tin vào
bản thân con cái của họ có thể tự lập như bao đừa trẻ không khuyết tật khác.
Suy cho cùng thì những bậc phụ huynh cũng là vì lo cho con cái của mình
nhưng chính vì cách yêu thương không đúng cách ấy khiến cho cánh của
bước ra ngoài xã hội được hưởng những quyền được hưởng của trẻ em khiếm
thị bỗng nhiên khép lại. Như đã nói ở trên gia đình có vai trò quyết định đến
cuộc sống của các em khiếm thị nên sự hạn chế khả năng hòa nhập cộng đồng
của trẻ khiếm thị một phần cũng xuất phát từ gia đình các em.
2.2.3. Nhóm nguyên nhân từ Tỉnh Hội

Tỉnh Hội người mù Thừa Thiên Huế đã hết sức nổ lực để tìm kiếm
những nguồn lực tốt nhất để giúp các em khiếm thị thay đổi cuộc sống của
mình. Khi vào Tỉnh Hội các em được chăm sóc giáo dục văn hóa cũng như
giáo dục hòa nhập để các em có thêm những kỹ năng và sự dụng thuần thục
những kỹ năng để có thể có một cuộc sống tự lập cho các em mà không cần
phải dựa dẫm vào ai. Hơn 20 năm qua cán bộ nhân viên Tỉnh Hội người mù
đã không khỏi băn khoăn trăn trở mong sao cuộc sống của các em được tốt
hơn nhu cầu của các em được đáp ứng tối đa nhất. Việc nâng cao khả năng
SVTH: Lê Thị Ngọc Tú 25

×