Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Nghiên cứu về thị trường lao động tiền lương và tiền lương tối thiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.67 KB, 39 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua tình hình kinh tế xã hội nước ta đã có nhiều
thay đổi quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trên con đưòng phát triển: chỉ tiêu
tăng trưởng luôn được duy trì, trung bình năm khoảng 7%, các chỉ báo xoá
đói giảm nghèo, phát triển con người, bình đẳng giới tương đối khả quan
trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế với xuất phát điểm thấp, bối cảnh
thế giới và khu vực có nhiều biến động không thuận lợi. Những thành tựu đó
do đường lối đổi mới đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện thông
qua các chính sách và biện pháp trên mọi lĩnh vực trong đó các chính sách
về tiền lương
Tiền lương là một trong những công cụ kinh tế cực kỳ quan trọng và
vô cùng nhạy cảm trong đời sống kinh tế - chính trị và xã hội của bất cứ một
quốc gia nào. Đồng thời, tiền lương cũng là một trong những vấn đề cực kỳ
phức tạp trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn. Chính vì vậy, sự cần
thiêt của việc nghiên cứu tiền lương nhất là về tiền lương tối thiểu phải luôn
luôn được xã hội quan tâm trao đổi thường xuyên và liên tục để có thể giúp
các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà chức trách có được một cái
nhìn đầy đủ, toàn diện, chính xác và sâu sắc hơn nữa về “đòn bẩy” kinh tế
đặc biệt quan trọng này.
Là một sinh viên của chuyên ngành kinh tế lao động, em đã được học
về một số vấn đề liên quan tới tiền lương, đăc biệt là đã nhận thấy được tầm
quan trọng và tính cấp thiết của tiền lương tối thiểu - vấn đề quan trọng bậc
nhất trong nền tài chính quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc
thực hiện đề án em muốn tìm hiểu rõ hơn về một nội dung môn học của
mình. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế nên đề án của em còn nhiều sai
sót, mong cô hướng dẫn và chỉ bảo để em hoàn thành đề án hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Phương Mai!
1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận
1. Thị trường lao động, tiền lương và tiền lương tối thiểu
1.1 Hàng hoá sức lao động và giá cả sức lao động
Trong nền kinh tế thị trường, mọi yếu tố đầu vào của sản xuất đều là
hàng hoá kể cả yếu tố sức lao động. Nó là một loại hàng hoá đặc biệt, là một
yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất, nhưng khác với các tư liệu sản xuất ở
chỗ nó đưa các yếu tố khác của sản xuất nào hoạt động và tạo ra một giá trị
mới, lớn hơn giá trị ban đầu. Hàng hoá sức lao động cũng giống như mọi
hàng hoá khác đều có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sức lao động bao gồm
giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để bù đắp lại sức lao động đã hao phí
trong quá trình sản xuất, giá trị những chi phí để nuôi dưỡng con người trước
và sau tuổi có khả năng lao động, giá trị của những chi phí cần thiết cho việc
hoc hành. Những chi phí này không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên và
sinh lý của con người mà còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã
hội. Do vậy giá trị sức lao động không phải là yếu tố cố định, nó thường
xuyên thay đổi giữa các giai đoạn phát triển của lịch sử và có thể khác nhau
giữa các nước các vùng. Trong kinh tế thị trường giá cả sức lao động có thể
dao động quanh giá trị của nó tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện rõ trong quá trình
người chủ sử dụng sức lực của người làm thuê, nghĩa là trong việc tiêu dùng
sức lao động của người làm thuê
Và cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng được
đem ra trao đổi mua bán trên thị trường. Đó là thị trường lao động
2
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn


: 6.280.688
1.2 Thị trường lao động
Có khá nhiều định nghĩa về thị trường lao động, mặc dù còn có những
điểm khác biệt nhưng các định nghĩa hiện có đều thống nhất với nhau về mặt
nội dung cơ bản và được nêu ra như sau: Thị trường lao động là nơi thực
hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người làm thuê) và
người mua sức lao động (người sử dụng lao động) thông qua các hình thức
thoả thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác
trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua
các dạng hợp đồng lao động hoặc thoả thuận khác
Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi hội đủ các yếu tố
sau: 1) Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường. 2) Có định
chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động. 3) Người lao động không
sở hữu tư liệu sản xuất đủ đảm bảo các nhu cầu cá nhân. 4) Có hệ thống thể
chế thị trường lao động thích hợp. Sự hình thành, phát triển và hoạt động của
thị trường lao động chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế
thị trường như quy luật giá trị, giá cả, cạnh tranh, độc quyền ...Các quy luật
này tác động chi phối quan hệ cung cầu lao động
Trong nghiên cứu, phân tích thị trường lao động trước hết phải phân
tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng tới cung cầu lao động và sự vận động của
chúng, mối quan hệ giữa cung cầu và ảnh hưởng của mối quan hệ đó tới sự
hình thành giá cả sức lao động. Dưới đây là những phân tích cụ thể về các
yếu tố đó
1.3 Cung lao động
Theo Samuelson cung lao động biểu hiện số lượng lao động mà các
hộ gia đình sẵn lòng đem bán trên thị trường. Cung lao động là tập hợp
những người có khả năng và có nhu cầu làm việc. Lý thuyết cung lao động
được xác định trên cơ sở học thuyết tiêu dùng, việc tham gia vào hoạt động
3
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn


: 6.280.688
lao động phụ thuộc vào mức lương thực tế họ dự kiến sẽ thu được và khả
năng thu nhập từ các nguồn khác mang lại. Điều này sẽ khiến quyết định lựa
chọn của con người tuỳ theo các mức tiền lương khác nhau trên thị trường
cũng như khả năng thoả dụng tối đa của các mức lương đó
Thông thường khi nói tới cung trên thị trường lao động thường phân
biệt rõ thành cung thực tế và cung tiềm năng. Cung thực tế về lao động gồm
tất cả những người đủ 15 tuổi đang làm việc và những người thất nghiệp.
Cung tiềm năng gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang lam việc,
những người thất nghiệp và những người đang đi học, đang làm công việc
nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới cung lao động: quy mô và tốc độ
tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động, tình trạng bản thân người lao
động, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động….
1.4 Cầu lao động
Cầu lao động cho thấy sức lao động mà nhà sản xuất sẵn sàng thuê để
sản xuất hàng hoá dịch vụ với từng mức tiền lương nhất định. Trong nền
kinh tế thị trường cầu lao động là cầu dẫn xuất. Lao động là yếu tố đầu vào
cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm nhất định do vậy
quy mô của nó phụ thuộc vào mức cầu của hàng hoá do lao động sản xuất
cũng như là giá cả của hàng hoá đó trên thị trường
Cầu thực tế là nhu cầu thực tế về lao động cần được cung tại một thời
điểm nhất định thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và những
chỗ làm việc mới. Còn cầu tiềm năng là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ
làm việc có thể có được sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công
nghệ và cả những điều kiện khác như chính trị, xã hội …
4
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn


: 6.280.688
Cầu về lao động gồm hai mặt: thứ nhất cầu về chất lượng lao động.
Thứ hai, cầu về số lượng lao động. Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện
năng suất lao động không biến đổi cầu về số lượng lao động xã hội tỷ lệ
thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi cầu về
số lượng lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn xét từ góc độ
chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri
thức… của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng sức
lao động
1.6 Mối quan hệ giữa giá cả sức lao động và cân bằng cung cầu lao
động
Kinh tế thị trường là một thể thống nhất của các thị trường: hàng hoá
tiêu dùng và dịch vụ, vật tư, vốn, tài chính, sức lao động, trong đó thị trường
sức lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong lịch sử phát triển, so với
các thị trường khác thì thị trường lao động được hình thành và phát triển
chậm hơn, có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của các thị trường nói trên.
Thị trường sức lao động là một loại thị trường gắn với các yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất – kinh doanh, là sự biểu hiện mối quan hệ tác động
giữa một bên là người sử dụng sức lao động và một bên là người có sức lao
động dựa trên nguyên tắc thoả thuận để xác định giá cả sức lao động. Và giá
cả sức lao động cũng như cũng như các loại hàng hoá khác có thể biến động
tăng giảm phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động.
Sự vận động của cung cầu lao động sẽ chi phối số lượng người tham
gia vào thị trường lao động và mức tiền công. Nếu mức cung lao động phù
hợp với mức cầu với điều kiện mức cầu có khả năng thu hút tất cả những
người có khả năng lao động và mong muốn làm việc thì thị trường lao động
vận hành tốt. Nếu cung lớn hơn thì tiền lương sẽ giảm xuống, ngược lại nếu
cung nhỏ hơn cầu, tiền lương sẽ được nâng cao. Mặt khác giá trị sức lao
động bằng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết bù đắp lại sức lao động đã

5
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
hao phí. Nếu giá cả các tư liệu sinh hoạt thay đổi thì tiền lương danh nghĩa
cũng phải thay đổi theo. Như vậy tiền lương thường xuyên biến động nhưng
nó phải xoay quanh giá trị sức lao động.
Tuy nhiên không có thị trường lao động hoàn hảo, trong đó các yếu tố
của nó hoạt động cân bằng tuyệt đối, không có tình trạng thất nghiệp, không
có bất bình đẳng về tiền công và thu nhập vì vậy Nhà nước luôn nỗ lực tìm
cách kiểm soát cung cầu lao động và tiền công sao cho giữ chúng ở vị trí cân
bằng nhưng sự cạnh tranh với mục đích tạo ra động lực lại phá vỡ sự cân
bằng. Các yếu tố thị trường lao động luôn thay đổi theo sự phát triển kinh tế
xã hội. Xã hội càng phát triển thì các yếu tố càng được kiểm soát hiệu quả
hơn và ngược lại các nước kém phát triển thì sự dao động của các yếu tố này
xung quanh vị trí cân bằng càng lớn tính tự phát của thị trường càng lớn
Trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo do cung cầu điều chỉnh linh
hoạt theo mức tăng của tiền công thì thất nghiệp không xảy ra( tuy nhiên
mức tiền lương có thể thấp một cách tuỳ ý). Nhưng không phải lúc nào thị
trường lao động cũng vận hành suôn sẻ, sự mất cân bằng cung cầu lao động
sẽ dẫn tới hiện tượng thất nghiệp. Theo quan điểm của các nhà kinh tế, hiện
tại trong nền kinh tế thị trường thất nghiệp là hiện tượng không thể tránh
khỏi do vậy mối bận tâm của mọi chính phủ là làm sao tìm ra và duy trì một
tỷ lệ thất nghiệp hợp lý sao cho việc tăng việc làm không dẫn tới việc tăng
lạm phát và kết hợp đồng thời với mức độ tăng tiền lương thực tế cho người
lao động. Thất nghiệp - tiền lương - việc làm có mối quan hệ với nhau thông
qua chỉ số lạm phát. Theo nguyên lý của đường cong Phillips nếu thất
nghiệp thấp hơn giới hạn tự nhiên của nó( nhằm mục đích tăng việc làm) thì
lạm phát có xu hướng tăng lên, kết quả là giảm mức tiền lương thực tế của
người lao động

6
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
2. Bản chất tiền lương trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước
Trước đây quan niệm cũ cho rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không
thể là nền kinh tế thị trường mà là nền kinh tế hoạt động trên cơ sở kế hoạch
hoá tập trung và do đó về bản chất tiền lương không phải là giá cả sức lao
động mà là một phần thu nhập quốc dân được Nhà nước phân phối một cách
có kế hoạch cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động. Như
vậy tiền lương chịu sự tác động của quy luật phát triển cân đối, có kế hoạch
và chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà nước. Từ đó mỗi chính sách chế độ và
mức lương cụ thể đều do Nhà nước thống nhất ban hành để áp dụng cho mỗi
người lao động bất kỳ họ công tác ở khu vực hành chính sự nghiệp hay các
đơn vị sản xuất kinh doanh
Theo quan điểm mới tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động để hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ
quy định. Với khái niệm này bản chất tiền lương là giá cả sức lao động được
hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người
có sức lao động và người sử dụng sức lao động, đồng thời chịu sự chi phối
của các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cung cầu. Mặt khác lương phải
bao gồm đủ các yếu tố cấu thành để đảm bảo là nguồn thu nhập, là nguồn
sống chủ yếu của bản thân và gia đình người lao động và là điều kiện để
người hưởng lương hoà nhập vào thị trường xã hội. Khái niệm về tiền lương
nêu trên đã khắc phục được quan niệm cho rằng tiền lương là một phần thu
nhập quốc dân được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho người
lao động. Đồng thời khái niệm mới về tiền lương đã nghiêng về việc thừa
nhận sức lao động là hàng hoá đặc biệt và đòi hỏi phải trả lương cho người
lao động theo sự đóng góp và hiệu quả cụ thể.

Để phù hợp với khái niệm mới về bản chất tiền lương trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta, có một yêu cầu mới là phải làm cho tiền lương thực
7
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
hiện đầy đủ các chức năng của nó: chức năng thước đo giá trị - là cơ sở để
điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá cả biến động. Chức năng tái sản
xuất sức lao động nhằm duy trì năng lực làm việc lâu dài, có hiệu quả trên
cơ sở tiền lương bảo đảm bù đắp được sức lao động đã hao phí cho người
lao đông. Chức năng kích thích bảo đảm khi người lao động làm việc có
hiệu quả, có năng suất cao thì về mặt nguyên tắc tiền lương phải được nâng
lên và ngược lại. Chức năng tích luỹ đảm bảo tiền lương của người lao đông
không những duy trì cuộc sống hàng ngày trong thời gian làm việc mà còn
để dụ phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao động hoặc gặp
bất trắc rủi ro
Thêm vào đó khi xây dựng các chế độ tiền lương và tổ chức trả lương
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Trả lương ngang nhau cho các lao động ngang nhau
- Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân
- Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm việc trong các ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân
Trên đây là một số vấn đề cơ bản thuộc bản chất kinh tế của tiền lương.
Ngoài bản chất kinh tế, tiền lương còn mang bản chất xã hội vì nó gắn liền
với người lao động và cuộc sống của họ. Sức lao động của con người không
giống với hàng hoá khác mà là tổng thể các mối quan hệ xã hội. Vì vậy trong
quá trình nghiên cứu xây dựng chính sách, chế độ tiền lương lần này không
những chỉ tính về mặt kinh tế mà còn đề cập và tính toán đầy đủ cả về mặt
xã hội của tiền lương
Những phân tích trên đây đã cho chúng ta hiểu rõ về bản chất của tiền

lương. Tiền lương được phân thành hai loại đó là tiền lương danh nghĩa và
tiền lương thực tế
8
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
2.3 Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao
động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào
năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào
trình độ, kinh nghiệm làm việc ... ngay trong quá trình lao động
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng
và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua
được bằng tiền lương danh nghĩa của họ
Như vậy, tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số tiền lương
danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoá tiêu dùng và
các loại dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương
thực tế và tiền lương danh nghĩa được thể hiện qua công thức sau đây:
Itltt = Itldn / Igc
Ta có thể thấy rõ nếu giá cả tăng lên thì tiền lương thực tế giảm đi.
Điều này có thể xảy ra ngay cả khi tiền lương danh nghĩa tăng lên( do có
những thay đổi, điều chỉnh trong chính sách tiền lương). Đây là một quan hệ
rất phức tạp do sự thay đổi của tiền lương danh nghĩa, của giá cả và phụ
thuộc những yếu tố khác nhau. Trong xã hội tiền lương thực tế là mục đích
trực tiếp của người lao động hưởng lương. Đó cũng là đối tượng quản lý trực
tiếp trong các chính sách về thu nhập, tiền lương và đời sống
Giá - lương - tiền là quan hệ kinh tế vĩ mô rất nhạy cảm. Khi quan hệ
giá - lương - tiền hợp lý sẽ có tác dụng kích thích sản xuất, bảo đảm đời sống
cho người lao động và góp phần vào ổn định kinh tế đất nước. có 2 loại tiền
lương là tiền lương danh nghĩa phụ thuộc vào cường độ, năng suất, hiệu quả

công việc và tiền lương thực tế. Tiền lương thực tế chính là khối lượng hàng
hoá có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa để phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt. Tiền lương thực tế bị ảnh hưởng bởi giá cả, lạm phát. Khi giá cả
9
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
tăng, tiền lương thực tế giảm. Nếu tiền lương danh nghĩa không tăng, thì tiền
lương thực tế sẽ giảm đi, cuộc sống của người lao động sẽ giảm. Khi giá
tăng, lương không tăng thì đời sống của người hưởng lương sẽ khó khăn.
Nếu giá tăng, lương cũng tăng sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng
mạnh, một mặt góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế cao song mặt khác sẽ tạo
ra tâm lý "bù giá vào lương" của người lao động và làm giảm lòng tin của
người lao động vào giá trị của đồng tiền. Hiệu quả tăng lương bị triệt tiêu
bởi giá.
Trong hệ thống tiền lương thì tiền lương tối thiểu đóng một vai trò quan
trọng có ảnh hưởng tới nhiều yếu tố trên thị trường lao động. Để hiểu đúng
về nó chúng ta hãy xem xét một số khái niệm liên quan và khái niệm về tiền
lương tối thiểu
3. Tiền lương tối thiểu
3.1 Các khái niệm liên quan
Nhu cầu tối thiểu: được hiểu như là một sự đòi hỏi của người lao động
về điều kiện sinh hoạt tối thiểu về vật chất và tinh thần để tồn tại và làm
việc, được phân chia thành hai hệ thống là nhu cầu sinh học và nhu cầu xã
hội học. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội thì nhu cầu của con
người ngày càng tăng
Mức sống tối thiểu: là một mức độ thoả mãn những nhu cầu tối thiểu
của người lao động trong một thời kỳ nào đó được biểu hiện dưới hai dạng
hiện vật và giá trị. Mức sống tối thiểu bao gồm cơ cấu, chủng loại các tư liệu
sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động giản đơn. Về mặt giá trị,

được biểu hiện giá trị của các tư liệu sinh hoạt và công việc dịch vụ, nó liên
quan chặt chẽ với lương tối thiểu. Mức sống tối thiểu được đảm bảo thông
qua tiền lương tối thiểu và các phúc lợi công cộng
10
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
Tiền lương tối thiểu: Lương tối thiểu là mức tiền trả công (mức lương)
thấp nhất do luật định, có thể được trả theo giờ, ngày hoặc tháng cho lao
động giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường, nhằm đảm bảo
mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết u của người lao động và gia đình họ,
phù hợp với giá cả sinh hoạt, quan hệ cung - cầu lao động và điều kiện kinh
tế - văn hoá - xã hội của mỗi nước; được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật,
không thể bị giảm bớt bởi thoả ước lao động tập thể hoặc thoả thuận cá
nhân. Các mức lương thấp nhất không được ấn định bằng luật thì không
được gọi là mức lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu không bao gồm các
khoản tiền thưởng, phúc lợi xã hội, không phải là trợ cấp xã hội.
3.2 Chức năng của tiền lương tối thiểu:
Chức năng xã hội (chức năng cơ bản): Mức lương tối thiểu là lưới an
toàn đối với mọi người làm công ăn lương, không một người sử dụng lao
động nào được trả thấp hơn nhằm loại trừ bóc lột quá đáng và ngăn cản sự
đói nghèo của người lao động dưới mức cho phép; đồng thời là một công cụ
để phòng ngừa và giải quyết tranh chấp lao động
Chức năng kinh tế: Loại bỏ cạnh tranh không công bằng, buộc chủ
doanh nghiệp phải tìm cách khác (ngoài tiền lương) để giảm chi phí sản
xuất; đồng thời người lao động được chia sẻ lợi ích từ sự phát triển, tạo động
lực lao động của người lao động.
3.3 Các phương pháp xác định mức lương tối thiểu
3.3.1 Xác định mức lương tối thiểu chung
Việc xác định mức lương tối thiểu chung trong nền kinh tế thị trường

là vấn đề rất phức tạp, phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho người lao
động, phù hợp với khả năng chi trả tiền lương của người sử dụng lao động
nhằm thúc đẩy thị trường lao động phát triển. Trên cơ sở khuyến nghị của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ở nước ta từ năm 1993 đến nay, khi cải
11
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
cách tiền lương theo yêu cầu kinh tế thị trường đã sử dụng 4 phương pháp
tiếp cận để xác định mức lương tối thiểu chung như sau:
Phương pháp 1: Xác định từ mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết
yếu của người lao động có nuôi con (gọi tắt là từ nhu cầu tối thiểu)
Phương pháp này được xác định trên cơ sở hệ thống nhu cầu tối thiểu
(chi cho ăn uống và nhu cầu xã hội khác) của người lao động có nuôi con để
người lao động hoà nhập vào thị trường lao động. Kết quả của phương pháp
này phụ thuộc vào việc xác định rổ hàng hoá lương thực, thực phẩm, hệ số
nuôi con, tỷ lệ chi cho ăn uống (lương thực, thực phẩm) và chi nhu cầu xã
hội khác trong tổng chi tiêu của gia đình người lao động (về việc xác định
các yếu tố này còn có ý kiến khác nhau).
Phương pháp 2: Xác định từ điều tra mức chi trả tiền lương đối với
lao động giản đơn (chưa qua đào tạo nghề) trên thị trường lao động
Phương pháp này được xác định trên cơ sở: (1) thống kê các mức lương
thấp nhất Chính phủ quy định áp dụng cho các đối tượng hưởng lương khác
nhau; và (2) tính bình quân các mức lương thấp nhất thực trả trên thị trường
lao động. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào mẫu và các tiêu chí
điều tra tiền lương thực trả thấp nhất trên thị trường lao động (hiện chưa có
mẫu điều tra chuẩn).
Phương pháp 3: Xác định từ khả năng của nền kinh tế
Phương pháp này được xác định trên cơ sở các số liệu công bố của
Tổng cục Thống kê về quỹ tiêu dùng cá nhân dân cư trong GDP, lao động

làm việc trong nền kinh tế, quy mô hộ gia đình, thời gian làm việc hưởng
lương, năng suất lao động xã hội và tương quan về thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư. Kết quả của phương pháp này phụ thuộc vào việc xác định hệ số
nuôi con, tỷ trọng tiền lương trong tổng thu nhập, quan hệ giữa lương bình
12
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
quân so với lương thấp nhất... (về các hệ số điều chỉnh này còn có ý kiến
khác nhau).
Phương pháp 4: Xác định từ chỉ số tăng giá tiêu dùng
Kết quả của phương pháp này là tính đủ trượt giá tiêu dùng vào
lương tối thiểu hiện áp dụng để giữ tiền lương thực tế bằng thời kỳ trước
(chưa tính tăng trưởng GDP và mức tăng năng suất lao động xã hội). Trước
năm 2001, bù đủ trượt giá vào lương là mục tiêu của chính sách tiền lương ở
nước ta, nhưng từ năm 2001 mức lương tối thiểu chung đã được điều chỉnh
cao hơn mức tăng giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố. Tuy nhiên,
đến nay mức lương tối thiểu chung (450.000 đồng/tháng), theo nhiều chuyên
gia đánh giá là vẫn chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của người lao
động, chưa thực hiện được các chức năng của tiền lương tối thiểu. Vì vậy,
phương pháp này chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi tiền lương tối thiểu đã đảm
bảo được mức sống tối thiểu theo nhu cầu thiết yếu của người lao động.
Căn cứ kết quả của 4 phương pháp tiếp cận xác định mức lương tối
thiểu chung nêu trên, từ năm 1993 đến nay khi trình Chính phủ ấn định mức
lương tối thiểu chung, chúng ta đều đưa ra một miền xác định lương tối
thiểu, với sự chênh lệch nhau nhiều lần giữa mức cao nhất so với mức thấp
nhất (thấp nhất bằng mức bù trượt giá; cao nhất là nhu cầu tối thiểu, theo
những tính toán thời gian gần đây đó là mức lương thấp nhất được áp dụng ở
doanh nghiệp nhà nước 1.050.000 đồng/tháng). Với cách làm này và trong
điều kiện ngân sách khó khăn thì đương nhiên quyết định chính sách là ấn

định mức lương tối thiểu thuộc miền xác định gần cận dưới. Đây là nhược
điểm cơ bản của việc xác định tiền lương tối thiểu ở nước ta từ năm 1993
đến nay; đồng thời do mức lương tối thiểu chung là “nền” của chế độ tiền
lương đã dẫn đến chính sách tiền lương rất lạc hậu so với thực tiễn, gây khó
khăn cho cải cách cơ bản chính sách tiền lương theo yêu cầu của nền kinh tế
thị trường.
13
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
3.3 .2 Xác định mức lương tối thiểu vùng
Mức lương tối thiểu vùng có thể được xác định theo 5 yếu tố: (1)
mức sống tối thiểu của người lao động trong vùng; (2) mức sống chung đạt
được trong vùng (vùng mức sống); (3) mặt bằng tiền lương trong vùng; (4)
giá cả tiêu dùng trong vùng; và (5) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp
dẫn của vùng.
3.3.3 Xác định mức lương tối thiểu ngành
Mức lương tối thiểu ngành có thể được xác định theo 3 yếu tố: (1)
chất lượng và điều kiện lao động theo yêu cầu của ngành; (2) quan hệ cung
cầu lao động của ngành; và (3) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn
của ngành.
4. Vai trò của Nhà nước
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội của đất nước, là một trong những động lực phát triển và
tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà
nước. Tiền lương cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm, có ảnh hưởng to lớn đến
tình hình kinh tế xã hội. Việc trả lương cho người lao động theo nguyên tắc
thực hiện chính sách tiền lương thống nhất, nhưng cơ chế phân phối tiền
lương được phép linh hoạt. Các cơ quan đơn vị được quản lý toàn diện các
nguồn tài chính làm ra, nguồn ngân sách cấp, nguồn ngân sách hỗ trợ để chủ

động chi tiêu phát triển hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ, trả lương
cho cán bộ công chức. Nhà nước thực hiện vai trò giám sát và điều tiết thông
qua các công cụ vĩ mô.
Theo đó, đối với khu vực sự nghiệp, thực hiện phân loại các đơn vị sự
nghiệp dựa theo khả năng tự đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động (tự đảm bảo
toàn bộ, tự đảm bảo một phần, ngân sách nhà nước lo) để xây dựng, thiết kế
các phương thức trả lương khác nhau trên cơ sở gắn với năng suất, hiệu quả
14
CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn

: 6.280.688
từng cơ quan, đơn vị và kết quả công việc của mỗi người lao động. Trên cơ
sở phân loại này, Nhà nước thực hiện trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ và vai trò
thanh tra, kiểm tra nhằm thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp nâng cao chất lượng,
phát triển hoạt động. Đồng thời với việc phân loại, thực hiện cơ chế quản lý
tiền lương nói trên, khẩn trương sửa đổi các quy định hiện hành về phân
phối, sử dụng học phí, viện phí và các khoản thu sự nghiệp, tạo điều kiện đi
vào cơ chế quản lý mới về tiền lương, thu nhập trong các lĩnh vực này. Tuy
nhiên, bài học rút ra từ việc thực hiện Nghị định 10/2002/ND-CP là để tránh
tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp toàn bộ của ngân sách nhà nước,
cần tập trung chỉ đạo, giao trách nhiệm cụ thể cho các Bộ, ngành và địa
phương trong việc giao quyền chủ động về tổ chức công việc, về quản lý và
sử dụng lao động, về quản lý tài chính cho đơn vị. Qua đó tạo điều kiện cho
các đơn vị tự đảm bảo kinh phí tăng thêm khi Nhà nước điều chỉnh chính
sách tiền lương . Ngân sách chỉ hỗ trợ khi đã khai thác hết khả năng tại chỗ.
Đối với khu vực quản lý hành chính, cần thực hiện tinh giản biên chế và
rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, chuyển bộ phận làm công tác dịch vụ sang
chế độ hợp đồng thuê khoán theo công việc, triển khai mở rộng khoán biên
chế và kinh phí hành chính đối với các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành và
địa phương trên cả nước. Các đơn vị được chủ động sử dụng nguồn kinh phí

được khoán, được quyền trả lương cao hơn mức quy định chung trên cơ sở
đảm bảo hiệu quả và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Nhà nước đã thể hiện chính sách tiền lương làm cơ sở cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ký hợp đồng lao động, thực
hiện các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động.
- Nhà nước qui định việc xây dựng thang, bảng lương mang tính chất định
hướng, giao doanh nghiệp chủ động xây dựng và trả lương phù hợp với
15

×