Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Tình hình hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận kho vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.39 KB, 42 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước có sự đóng góp không
nhỏ của cộng đồng các doanh nghiệp. Chân dung nhà doanh nghiệp đã được
nhìn nhận và đánh giá đúng đắn, chính xác trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ
giữa sự phát triển của nền kinh tế đất nước với sự lớn mạnh của cộng đồng
các doanh nghiệp Việt Nam. Trong các nguồn nội lực tiềm năng chưa được
phát huy thì điều đáng chú ý nhất là trí tuệ và tinh thần dân tộc của nhân dân
ta, đặc biệt là đội ngũ trí thức và các nhà kinh doanh.
So với buôn bán hàng hoá, buôn bán dịch vụ ngày càng gia tăng, chiếm
tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Giao thông vận tải là một loại hình kinh doanh
đặc thù, là một khâu trong quá trình đưa hàng hoá từ tay người bán đến tay
người mua. Hoạt động giao nhận vận tải kịp thời và hợp lý sẽ giúp hàng hoá
luân chuyển nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cả người gửi lẫn
người nhận hàng. Trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang thực hiện chính
sách mở cửa, giao lưu quốc tế, do đó lượng hàng hoá lưu chuyển ngày càng
nhiều, kim ngạch xuất nhập khẩu cũng ngày càng lớn. Với tư cách là một dịch
vụ phục vụ đắc lực cho hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động giao nhận vận
tải đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình. Hoạt động giao
nhận giờ đây không chỉ bó gọn trong việc nhận hàng tại cảng bốc để chuyên
chở đến cảng đích mà còn mở rộng dịch vụ đưa hàng từ bất cứ địa điểm nào
theo yêu cầu của người gửi đến tận tay người nhận.
Ý thức được tầm quan trọng và sự phức tạp của hoạt động kinh doanh
dịch vụ giao nhận, em đã chọn đề tài “Tình hình hoạt động kinh doanh dịch
vụ giao nhận kho vận tại Vietrans “.
Nội dung bài báo cáo này được chia thành 3 phần:
Phần 1: Dịch vụ kho vận giao nhận ngoại thương và vai trò
của nó trong nền kinh tế thị trường.
Phần 2: Thực trạng hoạt động giao nhận tại VIETRANS.
2



Phần 3: Một số giải pháp phát triển dịch vụ giao nhận, kho vận ở
VIETRANS.


















3

PHẦN I: DỊCH VỤ GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN KHO
VẬN
1. Dịch vụ
Cùng với sự phát triển kinh tế, tỷ trọng của dịch vụ, đặc biệt là các dịch

vụ bao hàm mức độ trí tuệ cao, trong tổng thu nhập xã hội ngày càng tăng, ở
các nước phát triển, dịch vụ chiếm 70-75% GNP. Ngày nay, dịch vụ đã thực
sự trở thành một ngành có tầm quan trọng lớn, thúc đẩy kinh tế phát triển và
xã hội đi lên. Vì vậy mà các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng: “ Sau xã hội
công nghiệp là xã hội dịch vụ, và nó là lĩnh vực sản xuất vật chất lớn nhất của
xã hội hiện đại “. Vậy dịch vụ là gì?
- Theo nghĩa rộng: Dịch vụ được hiểu là lĩnh vực thứ ba trong nền kinh
tế quốc dân. Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành
công nghiệp, nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ.
- Theo nghĩa hẹp: Dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh
doanh, bao gồm cả các hỗ trợ trước, trong và sau khi bán.
Khác với hàng hoá vật chất, dịch vụ là một quá trình và có bốn
đặc điểm riêng biệt sau:
Một là, các dịch vụ là vô hình: chất lượng của dịch vụ chủ yếu phụ
thuộc vào sự cảm nhận của khách hàng.
Hai là, dịch vụ không đồng nhất, luôn luôn biến động.
Ba là, sản xuất và tiêu dùng dịch vụ luôn diễn ra đồng thời.
Bốn là, dịch vụ không thể cất giữ được trong kho tàng làm phần đệm,
điều chỉnh sự thay đổi nhu cầu thị trường.
Cùng với đà phát triển của xã hội ngày càng có nhiều loại hình dịch vụ
mới ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nói chung có hai loại hình
4

dịch vụ chính như: dịch vụ mang tính sản xuất( dịch vụ vận tải, cho thuê máy
móc...) và dịch vụ mang tính thương mại thuần tuý( dịch vụ quảng cáo, giám
định hàng hóa, tư vấn...). Và đây chính là một thị trường rộng mở đối với các
doanh nghiệp.
2. Dịch vụ giao nhận.
a. Khái niệm:
Theo luật Thương Mại Việt Nam 1997: Dịch vụ giao nhận hàng hoá là

hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá nhận hàng
từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục giấy tờ, các
dịch vụ khác có liên quan để giao nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của
người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác.
Trước đây, khi sản xuất và lưu thông chưa phát triển thì giao
nhận là một khâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Khi sản xuất và lưu thông phát triển ở mức độ cao, nhu cầu vận chuyển hàng
hoá lớn thì hoạt động giao nhận tách riêng thành một nghề mới. Hiện nay,
giao nhận đã trở thành ngành kinh doanh dịch vụ rất phát triển, đánh dấu cho
sự phát triển đó là sự ra đời của các tổ chức và các điều ước quốc tế về giao
nhận như: FIATA, IATA, IMO....
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận hay còn gọi là người giao nhận có
thể là chủ tàu, công ty xếp dỡ, người giao nhận chuyên nghiệp. . . hay bất kỳ
người nào có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá. Ngày nay,
người giao nhận không chỉ làm đại lý, thực hiện thủ tục giấy tờ, thuê tàu...
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và thương mại quốc tế họ còn
cung cấp dịch vụ trọn gói về quá trình vận tải và phân phối hàng hoá .
Trong thực tế, việc giao và nhận hàng cũng như việc thực hiện các công
việc khác không phải chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia mà nó đồng thời
diễn ra ở nhiều nước khác nhau. Do vậy một Công ty giao nhận không thể có
đủ cơ sở vật chất, phương tiện vận chuyển cũng như các điều kiện khác để
5

đáp ứng được yêu cầu này mà họ thường phải đi thuê các nhà chuyên chở :
hãng tàu, hãng hàng không, đường sắt. . . để hoàn thành công việc của mình.
Dây chuyền vận tải này có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dịch vụ. Do
vậy, khi tổ chức một dây chuyền vận tải, người giao nhận cần phải nắm rõ:
+ Các thị trường
+ Những trở ngại
+ Những yêu cầu về chứng từ

+ Các chi phí
+ Các phương tiện vận tải khác nhau, lợi ích và bất lợi của mỗi loại,
giá cả.
+ Theo kịp những thay đổi của các hãng tàu và các công hội hàng
hải
+ Tiến hành nghiên cứu vận tải đối với việc vận chuyển hàng công
trình.
Người giao nhận quốc tế có khả năng và sẵn sàng giải quyết mọi vấn đề
về hậu cần và vận tải trên quy mô toàn thế giới.
b. Đặc điểm:
+ Do đặc điểm của loại dịch vụ này là phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố
bên ngoài như các đơn vị nguồn hàng, các đơn vị vận chuyển, các đơn vị nhận
hàng. . . nên trong quá trình thực hiện không thể hoàn toàn chủ động được.
+ Dịch vụ giao nhận mang tính thời vụ do chịu ảnh hưởng của tính thời
vụ trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Dịch vụ giao nhận còn mang đặc điểm của dịch vụ vận tải, bởi dịch
vụ giao nhận bao hàm cả dịch vụ vận tải.
3. Dịch vụ kho vận
a. Khái niệm:
Dịch vụ kho vận là hình thức dịch vụ phục vụ khách hàng ở kho bao
gồm các dịch vụ chính như cho thuê kho để chứa, bảo quản và vận chuyển
6

hàng hoá...; ngoài ra còn có các dịch vụ khác như: xếp dỡ, đóng gói, giám
định chất lượng hàng hoá...
Vì cũng là một loại hình dịch vụ nên dịch vụ kho vận cũng có những
điểm giống với các ngành dịch vụ khác. Tuy nhiên, dịch vụ kho cũng có
những đặc điểm riêng:
+ Phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu khách hàng nên hoạt động dịch
vụ có thể diễn ra thất thường, không liên tục.

+ Khối lượng hàng gửi qua kho phụ thuộc vào tuyến đường và
phương tiện chuyên chở. Nếu phương tiện chuyên chở tiện lợi và liên tục thì
nhu cầu gửi hàng sẽ tăng.
II. VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI
THƯƠNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu là ngành nghề dịch vụ thương mại
gắn liền và liên quan mật thiết tới hoạt động ngoại thương và vận tải đối
ngoại. Đây là một loại hình dịch vụ thương mại không cần đầu tư nhiều vốn
nhưng mang lại một nguồn lợi tương đối chắc chắn và ổn định nếu biết khéo
léo tổ chức và điều hành trên cơ sở tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có.
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống như hiện nay thì hoạt động giao nhận càng
có vai trò quan trọng. Điều này thể hiện ở:
- Đặc điểm nổi bật của thương mại quốc tế là người mua và người bán
ở những nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán
thực hiện việc giao hàng tức là hàng được vận chuyển từ người bán sang
người mua. Để cho quá trình vận chuyển đó được bắt đầu, tiếp tục và kết thúc
tức là hàng hoá tới tay người mua, cần phải thực hiện một loạt các công việc
khác nhau liên quan tới chuyên chở như: đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi
hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải hàng ở dọc đường, dỡ hàng ra khỏi tàu và
giao cho người nhận. . . tất cả những công việc đó là nghiệp vụ của người
7

giao nhận. Như vậy, trước tiên nghiệp vụ giao nhận là điều kiện không thể
thiếu cho sự tồn tại và phát triển của thương mại quốc tế.
- Hoạt động giao nhận tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông nhanh
chóng, an toàn, tiết kiệm mà không cần có sự tham gia hiện diện của người
gửi cũng như người nhận hàng.
- Giúp người chuyên chở đẩy nhanh tốc độ vòng quay của các phương
tiện vận tải; tận dụng một cách tối đa và có hiệu quả dung tích, trọng tải của
các phương tiện vận tải, các công cụ vận tải cũng như các phương tiện hỗ trợ

khác.
- Tạo điều kiện cho các nhà xuất nhập khẩu có thể tập trung vào hoạt
động kinh doanh của họ.
- Góp phần giảm giá thành hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Bên cạnh đó, giao nhận cũng giúp các nhà xuất nhập khẩu giảm bớt
các chi phí không cần thiết khác như: chi phí xây dựng kho tàng, bến bãi nhờ
vào việc sử dụng kho tàng, bến bãi của người giao nhận, chi phí đào tạo nhân
công.
III. PHẠM VI CÁC DỊCH VỤ GIAO NHẬN
Các dịch vụ này bao gồm:
1. Thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu):
Theo chỉ dẫn của họ người giao nhận sẽ:
- Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích
hợp
- Lưu cước với người chuyên chở
- Nhận hàng từ người xuất khẩu và cấp những chứng từ thích hợp
- Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư và các điều kiện có
liên quan.
8

- Đóng gói hàng hoá (trừ phi việc này do người gửi hàng làm trước khi
giao hàng cho người nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản
chất của hàng hoá và những luật lệ áp dụng.
- Lo liệu việc lưu kho hàng hoá nếu cần.
- Cân đo hàng hoá.
- Lưu ý người gửi hàng mua bảo hiểm nếu được yêu cầu.
- Vận chuyển hàng hoá tới cảng, lo việc khai báo Hải quan và các thủ
tục chứng từ có liên quan, giao hàng cho người chuyên chở.
- Lo việc giao dịch ngoại hối nếu có.
- Thanh toán phí và những chí phí khác bao gồm cả tiền cước.

- Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
- Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần.
- Giám sát việc vận chuyển hàng hoá trên đường đi
- Ghi nhận những tổn thất của hàng hoá nếu có.
- Giúp người gửi hàng khiếu nại nếu cần.
2. Thay mặt người nhận hàng.
Theo những chỉ dẫn giao hàng người giao nhận sẽ:
- Tổ chức và giám sát việc vận chuyển hàng hoá.
- Nhận và kiểm tra những chứng từ có liên quan.
- Nhận hàng của người chuyên chở nếu cần thì thanh toán cước.
- Khai báo Hải quan và trả lệ phí, thuế và những chi phí có liên quan.
- Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
- Giao hàng đã làm thủ tục Hải quan cho người nhận hàng.
- Giúp người nhận hàng khiếu nại nếu cần.
- Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối hàng nếu cần.
3. Những dịch vụ khác.
Ngoài những dịch vụ nêu trên tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách hàng,
người giao nhận cũng có thể cung cấp các dịch vụ khác như: cung cấp thông
9

tin về nhu cầu tiêu dùng mới, thông báo về tình hình cạnh tranh, thực hiện
dịch vụ tư vấn, cung cấp các dịch vụ đặc biệt khác( vận chuyển hàng công
trình, vận chuyển quần áo treo trên mắc, chuyên chở hàng triển lãm ở nước
ngoài).
Như vậy qua Phần 1 ta đã có một cái nhìn chung nhất về dịch vụ giao
nhận kho vận và vai trò của ngành này trong sự phát triển chung của nền kinh
tế. Nhưng để có một cái nhìn sâu sắc hơn cũng như có sự hiểu biết tường tận
chúng ta hãy tìm hiểu về hoạt động của Công ty VIETRANS ở phần 2 của bài
Báo Cáo này.


PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN KHO VẬN TẠI
VIETRANS

I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty giao nhận kho vận ngoại thương - VIETRANS là một doanh
nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thương Mại, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh
tế tự chủ tài chính. Là tổ chức giao nhận đầu tiên được thành lập ở Việt Nam
theo quyết định số 554/BNT ngày 13/8/1970 của Bộ Thương Mại. Khi đó
công ty lấy tên là cục kho vận kiêm Tổng Công Ty giao nhận ngoại thương.
Hiện nay tên chính thức của công ty là “ Công ty giao nhận kho vận ngoại
thương “, tên giao dịch là “ VietNam National Foreign Trade Forwarding and
Warehousing Corporation “, tên viết tắt là VIETRANS được thành lập theo
quyết định số 337/TCCB ngày 31/3/1993 của Bộ Thương Mại.
Trước năm 1986, do chính sách Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương
nên VIETRANS là đơn vị duy nhất hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho
vận ngoại thương, nhưng hoạt động chủ yếu chỉ giới hạn ở các kho, cảng, cửa
khẩu. Sau đại hội đảng lần thứ VI, tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến
10

chuyển mới. Việc buôn bán trao đổi hàng hoá giữa Việt nam với các nước
ngày càng phát triển, VIETRANS đã mở rộng phạm vi hoạt động và vươn lên
trở thành một công ty giao nhận quốc tế có quan hệ đại lý rộng khắp trên thế
giới. VIETRANS đã tham gia nhiều tổ chức, nhiều hiệp hội khác nhau và
chính thức trở thành hội viên của FIATA từ 1989. Thời kỳ từ 1989 tới nay,
nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó,
VIETRANS mất thế độc quyền và phải bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt với
các tổ chức kinh tế khác hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận. Để thích
ứng với môi trường hoạt động kinh doanh mới, VIETRANS đã tiến hành đổi
mới toàn diện từ định hướng chiến lược, phương thức hoạt động đến quy mô,

hình thức và cách tổ chức hoạt động, điều hành. Công ty không chỉ chú ý đặc
biệt tới tăng cường cơ sở vật chất mà còn chú ý đào tạo ngoại ngữ cho đội ngũ
cán bộ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như uy tín của
công ty.
Cho tới nay, VIETRANS đã trở thành một công ty giao nhận quốc tế, là
một trong những sáng lập viên của VIFFAS , là một đại lý hàng không của
IATA và còn là thành viên của Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt
Nam. Hiện nay, VIETRANS có 6 chi nhánh ở các tỉnh thành phố: Hải Phòng,
Nghệ An, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, thành phố Hồ Chí Minh, hai liên
doanh (TNT-VIETRANS; LOTUS) và văn phòng đại diện ở trong và ngoài
nước.
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
2.1 Chức năng:
-Tiến hành và nhận uỷ thác dịch vụ kho vận, giao nhận, vận chuyển
hàng hoá, thuê và cho thuê kho bãi, lưu cước các phương tiện vận tải (tàu
biển, máy bay, sà lan...) và các dịch vụ khác có liên quan như gom hàng, làm
thủ tục Hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá....
11

- Tư vấn về các vấn đề giao nhận, vận tải và các vấn đề khác có liên
quan.
- Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu trực
tiếp.
- Thực hiện kinh doanh vận tải công cộng phù hợp với quy định của
nhà nước.
- Làm đại lý cho các hãng tàu nước ngoài và làm các công tác phục vụ
cho tàu biển của nước ngoài vào cảng của Việt Nam.
- Liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong
các lĩnh vực vận chuyển, giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, thuê tàu ... ..
2.2 Nhiệm vụ

- Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo hoạt động kinh doanh
của
Công ty và các đơn vị trực thuộc theo quy chế hiện hành.
- Bảo đảm việc bảo toàn và bổ sung vốn trên cơ sở tự tạo nguồn vốn, sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn, làm chọn nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước.
- Thường xuyên cải tiến, nâng cấp các phương tiện kỹ thuật để đảm bảo
việc giao nhận, chuyên chở hàng hoá an toàn.
- Nghiên cứu tình hình thị trường dịch vụ giao nhận, kho vận, đề ra các
biện pháp nhằm thu hút khách hàng, củng cố và nâng cao uy tín của Công ty
trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ quản lý, nghiệp vụ
chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ công nhân viên của Công ty để đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ kinh doanh ngày càng cao.
3. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của công ty VIETRANS
Đứng đầu Công ty là Tổng Giám đốc do Bộ trưởng Bộ Thương Mại bổ
nhiệm hoặc miễn nhiệm. Giúp việc có hai Phó giám đốc, trong đó có một Phó
tổng giám đốc thứ nhất. Các Phó giám đốc do tổng giám đốc đề nghị và được
12

thủ trưởng cơ quan chủ quản là Bộ thương Mại bổ nhiệm hoặc miễm nhiệm.
Trong trường hợp Tổng giám đốc vắng mặt thì Phó tổng giám đốc thứ nhất là
người thay mặt Tổng Giám Đốc điều hành mọi hoạt động của Công ty.
Hiện nay Công ty có các khối phòng ban sau:
+ Khối kinh doanh dịch vụ: Bao gồm các phòng ban có chức năng kinh
doanh nhằm tự trang trải và nuôi sống cán bộ văn phòng Công ty.
+ Khối quản lý: Các Phòng Ban trong khối có nhiệm vụ giúp Tổng
Giám Đốc trong công tác quản lý mọi hoạt động của Công ty: quản trị, quản
lý và theo dõi tình trạng máy móc, trang thiết bị, vật tư ....lập kế hoạch xây
dựng cơ bản cải tạo, mở rộng, sửa chữa, xây dựng mới Xí nghiệp, Văn phòng
công ty .. ., tham gia quản lý các công trình xây dựng, giải quyết các thủ tục

về xây dựng.
















GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
KHỐI KINH
DOANH
DỊCH VỤ

1. Phòng hng không
2. Phòng công trình
3. Phòng vận tải quốc tế
4. Phòng xuất nhập khẩu
5. Phòng gửi hng
KHỐI PHÒNG
QUẢN LÝ


1. Phòng kế toán ti
vụ
2. Phòng pháp chế
3. Phòng tổ chức cán
bộ
4. Phòng tổng hợp
CÁC CHI NHÁNH
TRỰC THUỘC

1. Vietrans Hải Phòng
2. Vietrans Nghệ An
3. Vietrans Đ Nẵng
4. Vietrans Nha Trang
5. Vietrans Quy Nhơn
6. Vietrans Si gòn
GIÁM ĐỐC
13











14


II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ
GIAO NHẬN KHO VẬN TẠI CÔNG TY
1. Tình hình hoạt động kinh doanh chung của Công ty trong
những năm qua
Là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực giao nhận ở Việt
Nam, sau những bước thăng trầm tưởng chừng không thể vượt nổi thì trong
những năm gần đây, do ổn định cơ cấu, Vietrans bước đầu đã có những bước
tiến vững chắc trong hoạt động kinh doanh.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Vietrans.

Đơn vị: triệu VND
Chỉ tiêu 1996
199
7
199
8
199
9
200
0
2001
Doanhthu(DT
)
27.87
6
28.8
76
27.7
62

25.3
08
27.5
42
28.0
51
Lợi
nhuận(LN)
2.389
2.16
3
1.
802
1.
684
1.
902
2.00
5
Nộp ngân
sách
5.805
4.95
5
5.67
2
7.45
2
6.32
2

6.87
2
LN/DT
0,07
5
0,06
5
0,06
6
0,06
9
0,07
1
(Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối
năm)
Doanh thu của công ty trong những năm gần đây
15

27.876
28.876
27.762
28.051
27.542
25.308
22
23
24
25
26
27

28
29
30
1996 1997 1998 1999 2000 2001
TriÖu VND
N¨m

Nhìn vào bảng kết quả kinh doanh và biểu đồ trên ta thấy:
- Doanh thu năm 1998, 1999 giảm so với năm 1996, 1997(từ 28476
triệu VND xuống còn 25308 triệu VND), lợi nhuận cũng giảm nhiều(từ 5805
triệu VND xuống còn 1684 triệu đồng). Có thể nói kết quả kinh doanh năm
1999 thấp nhất so với các năm. Qua phân tích và tìm hiểu, công ty đã đưa ra
một số nguyên nhân sau:
+ Do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực
Châu á năm 1997 làm cho tốc độ đầu tư của các nước vào Việt Nam chững
lại, lượng vật tư thiết bị nhập khẩu giảm đi mà đây lại là loại hàng hoá có khối
lượng lớn, do đó sản lượng giao nhận hàng nhập khẩu giảm đi rõ rệt.
+Hoàn cảnh kinh tế nước ta lúc đó gặp nhiều khó khăn: tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm, hiệu quả và năng lực cạnh tranh còn thấp, thị trường kém
sôi động đặc biệt là thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra.
+ Ngoài việc cạnh tranh và san sẻ thị trường với các tổ chức dịch vụ
giao nhận vận tải ngoại thương trong nước kể cả quốc doanh và ngoài quốc
doanh, VIETRANS còn phải đối mặt với lực lượng cạnh tranh mạnh hơn là
các công ty giao nhận quốc tế. Đặc biệt là việc nhiều đại lý giao nhận nước
ngoài được phép mở văn phòng đại diện tại Việt Nam đã làm cho quy mô,
16

mức độ uỷ thác giao nhận vận tải hàng hoá theo đó cũng thu hẹp dần, thậm
chí cắt hẳn hợp đồng đại lý. Các hãng tàu nước ngoài như: APM, HAPAG -
LlOYd.. .cũng đã tổ chức vận chuyển và cung ứng những dịch vụ phụ trợ cho

hoạt động giao nhận tại Việt Nam, do đó làm cho mức độ cạnh tranh trên thị
trường ngày càng gay gắt.
+ Lượng hàng xuất khẩu đã qua chế biến của Việt Nam ngày càng tăng,
đó là điều đáng mừng, song sản lượng hàng hoá xuất khẩu tính trên khối
lượng giảm xuống.
+Thêm vào đó là công tác tìm kiếm và giữ khách hàng tại doanh nghiệp
thực hiện chưa tốt, dẫn đến bị mất một số khách hàng xuất nhập khẩu lớn.
- Tuy nhiên, với sự nỗ lực và quyết tâm cao của toàn thể cán bộ công
nhân viên và ban lãnh đạo công ty, Vietrans đã từng bước vượt qua khó khăn.
Doanh thu năm 2000 và 2001 tăng so với năm 1999. Với chỉ tiêu doanh thu
tăng từ 7-10% do bộ giao cho, nhìn chung chỉ tiêu này đạt từ 3-5%.
- Mặc dù Doanh thu tăng nhưng tốc độ tăng của doanh thu lại nhỏ hơn
tốc độ tăng của chi phí nên tỷ lệ LN/DT năm 1998, 1999 giảm so với các năm
trước. Nhưng đến năm 2000-2001, tỷ lệ LN/DT đã có những biến chuyển,
tăng từ 0,065 năm 1998 lên 0,071 năm 2001, bởi công ty đã chú trọng thích
đáng đến đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao uy tín với khách hàng, cải
tiến bộ máy quản lý, mở rộng lĩnh vực kinh doanh để khách hàng có điều kiện
thuận lợi nhất trong việc tiến hành mua bán cũng như vận chuyển hàng hoá.
- Trên đây là những nhận xét về tình hình hoạt động của doanh nghiệp
nói chung. Sau đây ta sẽ xem xét cụ thể đối với từng cá nhân trong Công ty.
Cũng như tình hình chung của Công ty là doanh thu tăng lên nhưng lãi /người
/ năm giảm xuống. Nhưng xét đến chỉ tiêu thu nhập tiền lương/người/năm và
thu nhập/người/ tháng ta thấy: ngoài số tiền lương hàng tháng thì mọi người
còn có một số khoản tiền khác phụ trợ thêm. Theo tính toán các năm 1996 trở
lại đây thì số tiền này là khá lớn: năm 1996 là 4,6triệu đồng; 1997 là 4,86;

×