Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

khảo sát tình hình hoạt động tự doanh tại các công ty chứng khoán việt nam hiện nay - hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán habubank securities hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.71 KB, 45 trang )

Bài thảo luận kinh doanh chứng khoán
Đề tài thảo luận: Khảo sát tình hình hoạt động tự
doanh tại các công ty chứng khoán Việt Nam hiện
nay - “Hoạt động tự doanh của công ty chứng
khoán Habubank securities hiện nay”.
Giáo viên hướng dẫn: Phùng Việt Hà
Lớp học phần: 1103BKSC 0411
LỜI MỞ ĐẦU
Tự doanh chứng khoán là một trong những nghiệp vụ cơ bản và quan trọng
bậc nhất của một công ty chứng khoán. Nó có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình
hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và của công ty
chứng khoán nói riêng. Tự doanh chứng khoán không chỉ mang lại lợi ích cho
bản thân các công ty chứng khoán nói riêng mà còn đem lại lợi ích cho sự phát
triển của thị trường chứng khoán nói chung.
Ở các nước phát triển có thị trường chứng khoán phát triển thì nghiệp vụ tự
doanh là rất phổ biến, bởi lẽ các công ty chứng khoán( CTCK) có kinh nghiệm và
quản lý tốt. Một câu hỏi được đặt ra là: Ở Việt Nam vào thời điểm hiện nay các
CTCK sẽ thực hiện nghiệp vụ tự doanh như thế nào? Cho đến nay hầu hết các
công ty chứng khoán đã thực hiện nghiệp vụ này và đã thu được những kết quả
nhất định, tuy nhiên còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Hoạt động tự doanh
của các CTCK vào thời điểm hiện nay vẫn chưa thực sự nổi bật, các CTCK mới
chỉ tập trung vào hoạt động môi giới. Điều này có thể được nhìn nhận dưới rất
nhiều lý do khác nhau như: tính chất phức tạp của hoạt động tự doanh hay các
CTCK chỉ muốn tập trung hoàn thiện nghiệp vụ môi giới trước để từ đó rút kinh
nghiệm triển khai các hoạt động có liên quan trong tương lai Những bất cập này
không chỉ xuất phát từ phía các công ty chứng khoán mà còn bắt nguồn từ phía
thị trường chứng khoán nói chung cũng như những hạn chế trong các văn bản
pháp quy.
A: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CHỨNG KHOÁN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
 Khái niệm tự doanh


Tự doanh là hoạt động tự mua bán chứng khoán cho mình để hưởng lợi
nhuận từ chênh lệch giá chứng khoán. Nói cách khác, tự doanh là hoạt động mua
đi bán lại chứng khoán nhằm thu chênh lệch giá (mua thấp, bán cao).
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện ở SGD và thị
trường OTC. Tại SGD hoạt động mua bán này cũng được tiến hành như hoạt
động của nhà đầu tư thông thường. Trên thị trường OTC, hoạt động tự doanh có
thể được thực hiện trực tuyến giữa công ty với các đối tác, thông qua hoạt động
tạo thị trường hoặc thông qua hệ thống giao dịch tự động.
 Giao dịch tự doanh được thực hiẹn theo phương thức giao dịch trực tiếp hay
gián tiếp
+ Giao dịch trực tiếp là giao dịch trao tay giữa khách hàng và công ty chứng
khoán theo giá thỏa thuận (giao dịch tại quầy). Các đối tác giao dịch tự tìm đầu
mối, họ có thể là cá nhân hay tổ chức. Thời gian giao dịch không quy định (có thể
trong hoặc ngoài giờ hành chính, ngày hoặc đêm…). Chứng khoán giao dịch rất
đa dạng, phần lớn là các chứng khoán chưa niêm yết hoặc mới phát hành. Các đối
tác giao dịch thường trực tiếp thực hiện các thủ tục thanh toán và chuyển giao. Vì
vậy trong loại giao dịch này không có bất cứ một loại phí nào. Thông thường,
doanh số giao dịch trực tiếp lớn gấp bội lần doanh số giao dịch trên sở (chiếm
khoảng 80% - 90% doanh số giao dịch của thị trường). Các hoạt động giao dịch
này không chịu sự giảm sát của SGD nhưng chịu sự giám sát của thanh tra nhà
nước về chứng khoán.
+ Giao dịch gián tiếp là các giao dịch công ty thực hiện thông qua các nhà môi
giới lập giá, các chuyên gia chứng khóan trên thị trường, hoặc đặt lệnh mua bán
giống như lệnh mua bán của các nhà đầu tư khác. Do giao dịch qua SGD nên
CTCK phải chịu các chi phí môi giới lập giá, chi phí thanh toán bù trừ và lưu kí
chứng khoán.
1.2. Mục đích hoạt động tự doanh
CTCK triển khai hoạt động tự doanh nhằm thực hiện các mục đích sau:
 Tự doanh để thu chênh lệch giá cho chính mình.
CTCK là những tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp. Với vai trò

và vị trí của mình họ có nhiều lợi thế về thông tin và khả năng phân tích, định giá
chứng khoán… Vì vậy, khi triển khai họat động tự doanh, khả năng sinh lợi từ
hoạt động này của họ sẽ cao hơn so với các nhà đầu tư khác. Tuy nhiên để đảm
bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều quy định
các CTCK phải đáp ứng một số điều kiện nhất định, như: điều kiện về vốn, về
nguồn nhân lực, về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tự doanh…
 Dự trữ để đám bảo khả năng cung ứng
 Pháp luật kinh doanh chứng khoán ở một số nước có quy định, các
công ty môi giới, các chuyên gia chứng khoán và những nhà tạo lập thị
trường có trách nhiệm đảm bảo tính thanh khoản của thị trường. Điều này có
nghĩa là, khi nhu cầu thị trường giảm sút mạnh, thị trường có thể lâm vào
tình trạng kém sôi động hoặc đóng băng đối với 1 hoặc một số loại chứng
khoán nhất định, những nhà tạo thị trường phải có trách nhiệm mua chứng
khoán để kích cầu, trường hợp ngược lại phải bán ra để tăng cung. Để hoàn
thành các trọng trách này các nhà tạo lập thị trường, các CTCK phải tính
toán để xác định khối lượng các chứng khoán cần mua để dự trữ nhằm bảo
đảm khả năng cung ứng trong những trường hợp cần thiết, đồng thời đảm
bảo khả năng sinh lợi hợp lí từ những hoạt động này.
 Điều tiết thị trường
Khi giá chứng khoán biến động bất lợi cho tình hình hoạt động cung của thị
trường, các CTCK thực hiện các giao dịch mua bán nhằm ổn định thị trường theo
yêu cầu can thiệp của cơ quan quản lí và tự bảo vệ mình hay bảo vệ khách hàng.
Tuy nhiên để làm được điều này các công ty thường phải liên kết với nhau trong
quá trình hoạt động thông qua các tổ chức như: Hiệp hội chứng khoán.
1.3. Yêu cầu đối với hoạt động tự doanh
 Tách biệt quản lí
Khi CTCK đồng thời thực hiện 2 nghiệp vụ tự doanh và môi giới thì phải tổ
chức tách biệt 2 nghiệp vụ này để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt
động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người, vốn, tài sản và quy trình
nghiệp vụ.

- Phải tổ chức các bộ phận kinh doanh riêng biệt. Các nhân viên tự doanh không
được thực hiện nghiệp vụ môi giới và ngược lại. Ở Thái Lan, nguyên tắc này
được gọi là nguyên tắc phân chia ranh giới.
- Phải tách bạch tài sản của khách hàng với tài sản của công ty.
 Ưu tiên khách hàng
Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu
tiên khách hàng, có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được ưu tiên xử
lí trước lệnh tự doanh của công ty. Điều này đảm bảo tính công bằng trong giao
dịch chứng khoán khi mà các CTCK có nhiều lợi thế hơn khách hàng về tìm kiếm
thông tin và phân tích thị trường.
 Bình ổn thị trường
Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là ở các TTCK mới nổi, bao gồm chủ
yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ nên tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu
tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến động bất thường trên thị
trường. Vì vậy các nhà đầu tư lớn chuyên nghiệp rất cần thiết trong việc làm tín
hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Cùng với các quỹ đầu tư chứng khoán,
các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình thông qua hoạt
động tự doanh góp phần vào việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại
chứng khóan trên thị trường.
Thông thường chức năng này không phải là một quy định bắt buộc trong hệ
thống pháp luật của các nước. Tuy nhiên đây thường là nguyên tắc nghề nghiệp
do các Hiệp hội chứng khoán đặt ra, và các thành viên của Hiệp hội phải tuân
theo.
Ngoài ra các CTCK còn phải tuân thủ 1 số quy định khác như các giới hạn
về đầu tư, lĩnh vực đầu tư… Mục đích của các quy định này nhằm bảo đảm 1 độ
an toàn nhất định cho các CTCK trong quá trình hoạt động, tránh sự đổ vỡ gây
thiệt hại chung cho cả thị trường.
Ở Việt Nam hiện nay, khi triển khai nghiệp vụ tự doanh các CTCK phải đảm
bảo các yêu cầu sau:
Công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh

toán các lệnh giao dịch cho tài khoản của chính mình.
Công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh
của chính mình.
Công ty chứng khoán phải công bố cho khách hàng biết khi mình là đối tác
trong giao dịch trực tiếp với khách hàng và không được thu phí giao dịch của
khách hàng trong trường hợp này.
Trong trường hợp lệnh mua/bán chứng khoán của khách hàng có thể ảnh
hưởng lớn tới giá của loại chứng khoán đó, công ty chứng khoán không được
mua/bán trước cùng loại chứng khoán đó cho chính mình hoặc tiết lộ thông tin
cho bên thứ 3 mua/bán chứng khoán đó.
Khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, công ty chứng khoán không được mua
hoặc bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hoặc tốt hơn mức
giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện.
CTCK không được:
- Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu của
công ty chứng khoán.
- Đầu tư trên 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm
yết.
- Đầu tư trên 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không
niêm yết
Đầu tư hoặc góp vốn trên 15% tổng số vốn góp của một công ty trách nhiệm
hữu hạn.
Trong trường hợp công ty đầu tư vượt quá các hạn mức quy định nêu trên
thì bị xử lý theo quy định pháp luật hiện hành.
Sauk hi thu hồi vốn, bộ phận tự doah sẽ tổng kếtm đánh giá lại tình hình
thực hiện và tiếp tục một chu kỳ mới.
1.4. Quy trình nghiệp vụ tự doanh
Cũng giống như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động tự doanh không
có một quy trình chuẩn hay bắt buộc nào. Các CTCK tùy theo cơ cấu tổ chức của
mình sẽ có các quy trình nghiệp vụ riêng, phù hợp. Tuy nhiên trên giác độ chung

nhất, quy trình hoạt động tự doanh bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xây dựng chiến lược đầu tư
CTCK phải xác định rõ chiến lược trong hoạt động tự doanh của mình là
chủ động, thụ động hay bán chủ động, đầu tư vào những ngành nghề hay lĩnh vực
nào.
Chiến lược đầu tư của một công ty thường phụ thuộc vào:
- Thực trạng nền kinh tế
- Khả năng nắm bắt và xử lí thông tin
- Trình độ và khả năng phân tích
- Khả năng quản trị điều hành của ban lãnh đạo công ty…
Bước 2: Khai thác tìm kiếm cơ hội đầu tư
Theo mục tiêu đã được xác định, công ty sẽ chủ động tìm kiếm mặt hàng,
nguồn hàng, khách hàng, cơ hội đầu tư. Việc khai thác tìm kiếm cơ hội đầu tư
được tiến hành cả ở thị trường phát hành và thị trường lưu thông, cả chứng
khoán đã niêm yết và chưa niêm yết.
Bước 3: Phân tích, đánh giá chất lượng, cơ hội đầu tư
Bộ phận tự doanh phải triển khai và kết hợp với bộ phận phân tích để thẩm
định, phân tích các khoản đầu tư để có các kết luận cụ thể về các cơ hội đầu tư
(mặt hàng, số lượng, giá cả, thị trường nào…).
Bước 4: Thực hiện đầu tư
Sau khi đã đánh giá phân tích các cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển
khai các hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân thủ
các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành.
- Nếu mua chứng khoán trên thị trường sơ cấp, bộ phận tự doanh phải tuân thủ
đúng quy trình đấu thầu, hoặc bảo lãnh phát hành, hoặc thỏa thuận với các tổ
chức phát hành trong các công đoạn chuẩn bị phát hành.
- Nếu mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp, bộ phận tự doanh phải đặt
lệnh giao dịch theo phương thức khớp lệnh hoặc giao dịch thỏa thuận (trên SGD)
hoặc khớp giá (trên sàn OTC). Sau đó nhân viên tự doanh kết hợp với bộ phận kế
toán để xác nhận kết quả giao dịch, hoàn tất các thủ tục thanh toán chứng khoán

và tiền.
Lệnh giao dịch của bộ phận tự doanh sẽ được chuyển từ bộ phận tự doanh
của công ty sang phòng môi giới như lệnh của một khách hàng, trừ việc kiểm tra
kí quỹ. Nếu lệnh tự doanh và lệnh của khách hàng được chuyển cho phòng môi
giới cùng một thời gian thì lệnh của khách hàng được ưu tiên truyền đi trước.
Bước 5: Quản lí đầu tư và thu hồi vốn
Trong khâu này, bộ phận tự doanh có trách nhiệm theo dõi các khoản đầu tư,
đánh giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp lí cũng như tìm
kiếm những cơ hội đầu tư mới.
Đối với trái phiếu công ty phải thường xuyên theo dõi mọi biến động về lãi
suất, tỉ giá hối đoái, biến động kinh tế để kịp thời điều chỉnh. Công ty cần có
những dự đoán về lãi suất của các trái phiéu theo các kì hạn khác nhau trên cơ sở
chu kì kinh tế và triển vọng kinh tế, từ đó thực hiện những thay đổi phù hợp trong
quản lí danh mục trái phiếu.
Đối với cổ phiếu, công ty phải thường xuyên theo dõi danh mục cổ phiếu
của mình trên cơ sở phân tích và dự đoán kinh tế vĩ mô, ngành, thực trạng tình
hình các cổ phiếu đang nắm giữ, định giá chúng để quyết định tiếp tục nắm giữ
hay bán đi.
B : CƠ SỞ THỰC TIỄN
I : Tổng quát tình hình kinh tế - xã hội thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán
Tình hình kinh tế việt nam hiện nay khó khăn, thách thức vẫn còn rất lớn.
Trên thế giới, kinh tế thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp : Những biến
động về chính trị, xã hội ở một số nước Trung Đông và Châu Phi tác động làm
tăng mạnh giá dầu mỏ, giá vàng, lương thực và một số loại nguyên vật liệu cơ
bản; thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt là khu vực đồng Euro vẫn bất ổn; lạm
phát bắt đầu tăng cao ở một số nước trong khu vực vốn là thị trường nhập khẩu
quan trọng của nước ta.
Ở trong nước, kinh tế-xã hội của nước ta tiếp tục phải đối mặt với những
khó khăn, thách thức, thậm chí lớn hơn so với dự báo cuối năm trước về lạm phát,

ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Tăng trưởng GDP có xu hướng chậm lại,
thấp hơn so với cùng kỳ năm 2010; giá cả, lạm phát, mặt bằng lãi suất tăng cao so
với chỉ số lạm phát và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp; tình trạng đô la hóa và
sử dụng vàng để kinh doanh, làm công cụ thanh toán trở nên phổ biến và nghiêm
trọng hơn; tỷ giá biến động mạnh, giá vàng tăng cao; dự trữ ngoại hối giảm; việc
cung cấp điện còn nhiều căng thẳng. Ngoài ra, việc rét đậm, rét hại kéo dài ở
miền Bắc và Bắc Trung Bộ cũng đã gây tổn thất và tác động bất lợi không nhỏ
đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân.
Tình hình trên tác động tiêu cực đến sản xuất, đời sống của nhân dân, nhất là
người nghèo, người thu nhập thấp, người về hưu, cán bộ, công chức, viên chức và
ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với việc thực hiện những mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2011 và những năm tiếp theo như Quốc
hội đã thông qua và Nghị quyết Đại hội XI đã đề ra.
Nguyên nhân của tình hình trên: Về khách quan, do tác động tiêu cực của
tình hình kinh tế thế giới; về chủ quan là do những hạn chế, yếu kém vốn có của
nền kinh tế, mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế chậm được khắc phục, bị tích
tụ nặng nề hơn trong những năm phải đối phó với tình trạng suy giảm kinh tế và
do một số hạn chế trong quản lý, điều hành của các cấp. Đây cũng chính là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trong nhiều năm qua, nước ta luôn phải
đối mặt với tình trạng lạm phát cao và kinh tế vĩ mô không vững chắc, gay gắt
hơn các nước trong khu vực.
- Tình hình trong thời gian tới
Trên thế giới: Nhiều dự báo cho rằng kinh tế thế giới sẽ còn tiếp tục có
những diễn biến xấu. Lạm phát cao diễn ra ở nhiều nước, kể cả các nước trong
khu vực. Giá dầu mỏ, lương thực và một số nguyên vật liệu cơ bản còn tăng.
Thiên tai, biến đổi khí hậu và những diễn biến mới của tình hình Trung Đông,
Bắc Phi tác động xấu đối với nền kinh tế thế giới. Thị trường tài chính toàn cầu
tiếp tục có mặt còn thiếu ổn định, thậm chí đã có những cảnh báo về nguy cơ tái
khủng hoảng.
Ở trong nước: Việc thực hiện đồng thời ba mục tiêu (kiềm chế lạm phát, ổn

định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội) và chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm
2011 gặp nhiều khó khăn, thách thức; kết quả tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố
quyết tâm và đồng thuận của toàn xã hội, vào năng lực, hiệu lực, hiệu quả của
việc điều hành, tổ chức triển khai thực hiện thành công các chủ trương của Đảng
và Nghị quyết 11/NQ-CP, ngày 24-02-2011 của Chính phủ. Chỉ số giá tiêu dùng
có thể còn tiếp tục tăng cao. Những tác động của các giải pháp kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô bên cạnh mặt tích cực, có thể có những tác dụng phụ
làm giảm tốc độ tăng trưởng, ảnh hưởng đến thị trường bất động sản, thị trường
tài chính, tiền tệ, tính thanh khoản và độ an toàn của một số ngân hàng thương
mại, nhất là đối với sự ổn định của hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Kết quả kinh doanh quý III sẽ công bố nhiều hơn trong thời gian tới, nhưng
có thể không tác động nhiều tới thị trường. Theo giới phân tích, biến động của
lãi suất, tỷ giá và thị trường vàng tiếp tục ảnh hưởng tới chứng khoán.
II: THỰC TRẠNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CHỨNG KHOÁN
CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NĂM 2009 - 2011
2.1. Kết quả hoạt động tự doanh chứng khoán từ 2009 đến nay
2.1.1 Kết quả hoạt động tự doanh chứng khoán năm 2009

Nhìn tổng thể, kết quả hoạt động của các CTCK trong 6 tháng đầu năm cho
thấy: Mảng tự doanh chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu doanh thu của các
CTCK. Tại SSI, trong tổng doanh thu 303,83 tỷ đồng có 172,52 tỷ đồng từ hoạt
động đầu tư chứng khoán và góp vốn. Tương tự, hoạt động tự doanh của HSC
chiếm tỷ trọng 63,23% trong tổng doanh thu; KLS là 52,21%; đặc biệt với IBS,
con số này lên tới 81%. BVSC chỉ công bố BCTC dạng tóm tắt, nhưng giải trình
kết quả kinh doanh của Công ty cho biết, trong quý II nghiệp vụ tự doanh của
BVSC gặt hái được 36 tỷ đồng doanh thu, tăng tới 200% so với quý I…
Tự doanh là nguồn thu nhập chính của các CTCK nhờ việc kinh doanh chứng
khoán niêm yết và chưa niêm yết, thông thường chiếm 60-70% tổng thu nhập của
các công ty. Với thị trường khó khăn về thanh khoản cũng như rủi ro về chính sách

tiền tệ và thông tin, mảng nghiệp vụ này trở thành phản tác dụng, gây ra các chi
phí dự phòng lớn trong khi nguồn thu nhập hạn chế. Điển hình như CTCK Kim
Long thua lỗ 172 tỷ đồng, Bảo Việt lỗ 92 tỷ đồng.
2.1.2. Kết quả hoạt động tự doanh chứng khoán từ 2010
Năm 2010, có 88 trên 94 công ty được thống kê có doanh thu từ hoạt động tự
doanh với tổng giá trị đạt 5.164 tỉ đồng, chiếm 36,14% trong tổng doanh thu.
Công ty dẫn đầu trong doanh thu tự doanh là SBS (1.131 tỉ đồng), SSI (710 tỉ
đồng) và AGR (642 tỉ đồng). Đặc biệt số CTCK có doanh thu đến chủ yếu từ tự
doanh như Chứng khoán Á-Âu (82,61%), Chứng khoán SBS (82,12%), Chứng
khoán Bản Việt (70,11%).
Các CTCK lớn đang niêm yết trên sàn như SSI, HPC, SHS cũng có doanh thu từ
hoạt động tự doanh chiếm tỷ lệ khá lớn.
Tự doanh luôn là hoạt động tạo ra lợi nhuận chính của các CTCK. Sau năm
2009 khá thành công, bộ phận tự doanh của nhiều CTCK hiện đang “chết đứng”.
Nhiều CTCK chuyên về tự doanh đã lỗ nặng, bế tắc trước câu hỏi “Tự doanh như
thế nào cho hiệu quả?”.
Năm 2009, các CTCK đã tích cực tìm doanh nghiệp (DN) chưa niêm yết để tư vấn
rồi mua CP giá rẻ, chờ khi lên sàn sẽ hiện thực hóa lợi nhuận. Nhưng từ đầu năm
2010, hầu hết CTCK lựa chọn chiến thuật này đã rơi vào tình trạng thua nhiều hơn
thắng.
DIG (DIC Corp) và CSM (Casumina) là 2 trong số những mã CP chào sàn thành
công nhất trong năm 2009. DIG xuất hiện tại HOSE vào cuối tháng 8 với giá 5.5,
chỉ sau 1 tháng đã leo lên mức đỉnh 15.0.Cùng khoảng thời gian này, CSM cũng
lên sàn với giá khởi điểm 4.2 và tăng lên đến gần 14.0 không lâu sau đó. Thành
công của DIG và CSM nhờ vào nhiều yếu tố. Thời điểm hai mã CP này lên sàn,
TTCK vẫn đang có diễn biến thuận lợi.
Đây là những “ông lớn” thực sự trong ngành bất động sản (DIC Corp) và công
nghiệp cao su (Casumina). Cả 2 đã chọn mức giá chào sàn thấp. Lúc đó, EPS 9
tháng của DIG tương đương 6.500 đồng/CP, P/E tính theo giá chào sàn chưa đến 8
lần, trong khi rất nhiều CP BĐS lúc đó có P/E từ 15-20 lần.

Nhìn lại những DN chào sàn trong năm 2010, không nhiều DN đạt tầm vóc như
DIC Corp và CSM. OGC (Tập đoàn Đại Dương) có thể xem là trường hợp hiếm
hoi thành công, nhưng diễn biến của CP này khiến nhiều NĐT “đau tim” chứ
không có kiểu “lên thẳng” như năm ngoái. 3 yếu tố vừa nêu, trong một chừng mực
nào đó, đã không thể xuất hiện cùng lúc trong năm 2010 này, nên chiến thuật săn
CP dưới sàn để lên sàn xả hàng của các CTCK thất bại là điều dễ hiểu.
Theo báo cáo tài chính của DN này thì trong năm 2010, KLS bị lỗ tới hơn 173 tỉ
đồng - một con số khiến cho các cổ đông của Cty này tá hỏa. Chưa hết, một CTCK
khác thuộc hàng “đại gia” là CTCP CK Bảo Việt (BVS) cũng lỗ tới hơn 92 tỉ đồng.
Tiếp đến hàng loạt các CTCK khác là CTCP CK Hải Phòng (HPC) bị âm hơn 48,7
tỉ đồng, CTCP CK Sao Việt (SVS) lỗ hơn 21,3 tỉ đồng, CTCK Nam Việt cũng thiết
lập kỷ lục lỗ 4 năm liên tiếp với số tiền lỗ hơn 16 tỉ đồng, CTCK Tầm Nhìn (HRS)
cũng lỗ 4 năm liên tiếp, mức lỗ lên đến 36 tỉ đồng, CTCK Vina lỗ hơn 128 tỉ đồng.
Các CTCK như NVS của Navibank, CTCK Miền Nam, CTCK Thành Công,
CTCK Nam An cũng chung số phận thua lỗ.
Những CTCK khác như WSS, APG, APS quý IV/2010 các công ty này đều thua
lỗ: WSS lỗ 41 tỷ đồng, APG lỗ 3,19 tỷ đồng, APS lỗ 16,57 tỷ đồng.
Với bối cảnh thị trường hiện nay thì hoạt động tự doanh của các công ty vẫn chưa
có gì sáng sủa. Năm 2008 có tới 70% (61/88) CTCK bị thua lỗ chủ yếu là do hoạt
động tự doanh, con số này năm 2010 chỉ còn 26,59% (25/94).
Với trường hợp của FPTS, từ mức lỗ lũy kế là 227 tỷ đồng cuối năm 2008 do tự
doanh, sau 2 năm thay đổi chiến lược (cắt giảm đầu tư, tập trung sang môi giới và
tư vấn), CTCK này đã đảo ngược được tình thế, đạt lợi nhuận chưa phân phối cộng
dồn 69 tỷ đồng vào năm 2010.
Mấu chốt ở đây chính là các CTCK đã không thể dự báo được tình hình của thị
trường trong khoảng thời gian mình mua CP cho đến khi lên sàn. Quản trị rủi ro
kém, dự báo yếu, thua lỗ là điều không thể tránh khỏi. Trong năm 2009 đã có khá
nhiều CTCK huênh hoang về khả năng tư vấn niêm yết CP của mình, hễ CP nào
mình “làm” là sẽ “lên", nhưng giờ đây không ít CTCK đã phải lãnh quả đắng về
sản phẩm của mình.

2.1.3. Kết quả hoạt động tự doanh chứng khoán trong năm 2011 của một số
công ty.
SBS: Doanh thu tự doanh quý I/2011 tăng 43% so với cùng kỳ 2010.Tuy nhiên do
chi phí kinh doanh lớn nên SBS lãi sau thuế quý I/2011 đạt hơn 6 tỷ đồng, giảm
84% so với quý I/2010. Doanh thu tự doanh của SBS trong quý I/2011 tăng hơn
110 tỷ so với cùng kỳ 2010. Tuy nhiên chi phí hoạt động kinh doanh của SBS quý
này lên tới 326 tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ 2010; chi phí quản lý doanh
nghiệp đạt 24 tỷ đồng, tăng 47% so với quý I/2010.
SSI tỷ trọng doanh thu các mảng kinh doanh được đa dạng hóa, trong đó tự doanh
50%, ngân hàng đầu tư 7%, doanh thu khác 30%, môi giới 10%.
Theo báo cáo kết quả kinh doanh quý I/2011 mà các CTCK vừa công bố thì chỉ có
HCM và KLS là có lãi. Còn lại, những CTCK khác như SSI, VND, AVS đều công
bố mức lỗ từ vài chục cho đến cả trăm tỷ đồng. CTCK đầu ngành như SSI lần đầu
tiên cũng chịu chung tình cảnh với kết quả thua lỗ 102 tỷ đồng trong quý I.
Đối với HCM và KLS, mặc dù công bố lãi, nhưng mức lãi không đạt kỳ vọng của
nhà đầu tư. Cụ thể, lợi nhuận của HCM giảm gần 20% so với cùng kỳ năm trước;
còn KLS chỉ lãi vỏn vẹn 30 tỷ đồng nhờ vào gần 2.000 tỷ đồng gửi tiết kiệm.
Trái ngược lại với CTCK hàng đầu này, cảnh thua lỗ, lợi nhuận rất thấp trong năm
2010 thường thấy với các CTCK khác như KLS, BVS, VND v.v… Lý do cơ bản
là: thị trường không thuận lợi, trích lập dự phòng cho các khoản đầu tư, và doanh
số môi giới giảm sút. Thời điểm khó khăn như hiện nay khiến 102 CTCK tính đến
việc thu hẹp, sát nhập và giảm số lượng.
Năm 2008 có tới 70% (61/88) CTCK bị thua lỗ chủ yếu là do hoạt động tự doanh,
con số này năm 2010 chỉ còn 26,59% (25/94) và vào quí 1-2011 lại có đến gần
50% công ty đang niêm yết bị thua lỗ. Việc các CTCK quá chú trọng vào hoạt
động tự doanh trong khi năng lực còn hạn chế và TTCK không thuận lợi đã khiến
cho nhiều công ty bị thua lỗ nặng nề.
2.2. Đánh giá về hoạt động tự doanh chứng khoán và diễn biến TTCK trong
thời gian tới
 Nguyên nhân thua lỗ của hoạt động tự doanh chứng khoán

Trong khi Nhà nước đang thực hiện liên tiếp các chính sách thắt chặt tiền tệ, thắt
chặt cho vay CK, hạn chế đòn bẩy tài chính, thắt chặt các cơ chế hoạt động của
CTCK thì hàng loạt CTCK lại tiếp tục có báo cáo “lỗ nặng”. Nhiều CTCK lỗ tới
3 - 4 năm liên tiếp và đẩy chính số phận của các CTCK này vào cơn bĩ cực.
Thực tế, việc các CTCK thua lỗ là điều theo các chuyên gia là rất dễ hiểu. Lý do
đơn giản là trong bối cảnh TTCK giảm sút, số đông NĐT đều không còn mặn mà
với kiểu đầu tư trên sàn CK đã khiến số tiền thu được từ hoạt động môi giới CK
của các Cty này sụt giảm mạnh. Bên cạnh đó, một lý do khác là hầu hết các CTCK
này đều tham gia vào “đánh CK” theo kiểu tự doanh. Chính hoạt động này cũng
khiến các CTCK thua lỗ do thị giá của TTCK nói chung thời gian qua giảm mạnh
Nguyên nhân thua lỗ của các CTCK không nằm ngoài lý do TTCK Việt Nam quá
xấu trong suốt quý I/2011. Mặc dù VN-Index chỉ giảm hơn 10%, nhưng HNX-
Index đã giảm gần 30%. Nhiều cổ phiếu có mức giảm giá từ 40 - 50%. Điều này
khiến cho hoạt động tự doanh của các CTCK đều khó khăn và thua lỗ. Nhiều
CTCK phải gia tăng các khoản trích lập dự phòng giảm giá cổ phiếu. SSI là một
trong những công ty trích lập dự phòng lớn nhất, với gần 350 tỷ đồng. Do báo cáo
tài chính quý I không yêu cầu phải soát xét nên có khả năng các công ty chưa trích
lập dự phòng đầy đủ. Hơn nữa, nhiều cổ phiếu trên thị trường OTC không có giao
dịch, nên việc xác định trích dự phòng bao nhiêu cũng là một điều khó khăn.
Đánh giá triển vọng của hoạt động tự doanh và TTCK trong thời gian tới
Triển vọng của TTCK từ nay đến cuối năm theo nhiều nhận định là khá mờ mịt.
Lạm phát vẫn đang ở mức cao, lãi suất đi vay cao buộc doanh nghiệp phải thu hẹp
hoạt động sản xuất - kinhdoanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Lãi suất cho vay cao
còn bóp chặt dòng tiền đầu tư vào TTCK. Lãi suất cho vay để thực hiện các dịch
vụ chứng khoán của CTCK đã được nâng lên 24 - 27%/năm. Điều này càng khiến
cho nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc tìm nguồn vốn để đầu tư. Hơn nữa, các
ngân hàng thương mại đang chịu áp lực lớn trong việc giảm dư nợ cho vay phi sản
xuất xuống dưới mức 22% vào cuối tháng 6/2011 và xuống mức 16% vào cuối
năm nay. Để có thể thực hiện được điều này thì các ngân hàng thương mại sẽ buộc
phải lựa chọn cắt giảm cho vay đầu tư cổ phiếu, TTCK vì thế thiếu đi một điều

kiện để tăng trưởng.
Như vậy, khi TTCK tiếp tục "teo tóp" thì lợi nhuận của các CTCK còn bị ảnh
hưởng nặng nề. Báo cáo tài chính quý II/2011 sẽ phải thực hiện việc soát xét nên
bức tranh về lợi nhuận trong quý II nhiều khả năng vẫn mang màu xám
Doanh thu môi giới giảm, tự doanh thua lỗ trong khi phải đối mặt với áp lực giải
chấp tài khoản của khách hàng… các công ty chứng khoán vẫn phải cố gắng cầm
cự để chờ ngày thị trường chứng khoán hồi phục.
III: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN HABUBANK SECURITIES HIỆN NAY.
1. Giới thiệu chung về công ty chứng khoán Habubank
1.1 Qúa trình hình thành và phát triển của công ty chứng khoán Habubank
Công ty chứng khoán TNHH Ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội
(Habubank security) được thành lập ngày 03 tháng 11 năm 2005 theo quyết định số
14/UBCK-GPHĐKD của chủ tịch uỷ ban chứng khoán nhà nước, với số vốn điều
lệ hiện có là 50 tỷ đồng. HBBS là công ty chứng khoán thứ 14 được thành lập và
hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam. HBBS được ra đời trong bối
cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn sôi động nhất, là bước
phát triển chiến lược của Ngân hàng mẹ HABUBANK. Với mục tiêu phải trở
thành một trong 3 công ty chứng khoán dẫn đầu thị trường trong các phân khúc
khách hàng của mình, cung ứng một cách toàn diện các dịch vụ và sản phẩm có
tính sáng tạo cao và mang lại giá trị thực sự cho khách hàng, HBBS đã đầu tư lớn
vào và không ngừng hoàn thiện cơ sở vật chất cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ
nhân viên trong công ty.
Chú trọng khách hàng là mục tiêu đi đầu và xuyên suốt của HBBS trong mọi
hoạt động của mình. Đầu tư xây dựng công ty với cơ sở vật chất hiện đại nhất hiện
nay và một đội ngũ nhân viên với trình độ chuyên môn cao với đạo đức nghề
nghiệp nổi trội là nền tảng để Công ty có thể mang đến cho các nhà đầu tư những
thông tin cập nhật nhanh nhất từ thị trường cũng như thực hiện các giao dịch đạt độ
chính xác với tốc độ cao, tạo cảm giác thoải mái cho các nhà đầu tư trong mỗi lần
đến giao dịch tại Công ty. Làm vững chắc thêm tôn chỉ hoạt động của ngân hàng

mẹ là "Giá trị tích luỹ niềm tin", HBBS luôn nhắm tới mục tiêu mang đến cho các
nhà đầu tư những cơ hội đầu tư hiệu quả nhất xứng đáng với chi phí, thời gian và
công sức, thông qua những dịch vụ mang tính chuyên nghiệp và có chất lượng cao.
Kết hợp với HABUBANK, Công ty cung ứng các dịch sau:
Dịch vụ môi giới: HBBS thực hiện chức năng môi giới mua, bán chứng
khoán chưa niêm yết và niêm yết trên TTGDCK cho khách hàng dưới các hình
thức: Nhận lệnh trực tiếp từ khách hàng tại sàn giao dịch ở Hà Nội và Hồ Chí
Minh; Nhận lệnh qua hệ thống Fax; điện thoại; SMS; Internet tại bất cứ thời điểm
nào và tại bất cứ nơi đâu.
Dịch vụ lưu ký, quản lý sổ cổ đông, quản lý chuyển nhượng trái phiếu doanh
nghiệp: Với kinh nghiệm và thực tiễn hoạt động của đội ngũ cán bộ, HBBS thực
hiện các thủ tục lưu ký, quản lý đối với từng loại chứng khoán ( bao gồm cổ phiếu
và trái phiếu) niêm yết và chưa niêm yết. Bên cạnh đó, công ty lưu ký của HBBS
được thực hiện trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các quy trình nôi bộ và các quy trình
của TTGDCK, đảm bảo chính xác và an toàn tuyệt đối về chứng khoán lưu ký,
chứng khoán giao dịch cho khách hàng.
Dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp: Được đánh giá là một trong những tổ
chức cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính hàng đầu Việt Nam, bộ phận tư vấn tài
chính doanh nghiệp của HBBS liên tục sáng tạo để cung cấp cho doanh nghiệp
Việt Nam những giải pháp huy động vốn phù hợp nhất. Để đáp ứng nhu cầu vốn
của doanh nghiệp, HBBS đã không ngừng bổ sung và xây dựng một danh mục đa
dạng các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngoài việc tư vấn và cung cấp các giải pháp
thông qua phát hành chứng khoán vốn ( cổ phiếu), chứng khoán nợ (trái phiếu),
hay các loại chứng khoán cơ cấu( trái phiếu hay nợ chuyển đổi), HBBS còn cung
cấp các dịch vụ khác như tư vấn cổ phần hóa,tư vấn đấu giá ra công chúng lần đầu
( IPO), tư vấn niêm yết, tư vấn quản trị công ty đại chúng Bên cạnh đó,trên cơ sở
nhu cầu mở rộng và phát triển doanh nghiệp thông qua hình thức mua bán và sáp
nhập doanh nghiệp ngày càng tăng, HBBS không chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm đối
tượng phù hợp, hỗ trợ thương thào mà còn có khả năng hỗ trợ huy động vốn cho
bên mua.

Dịch vụ hỗ trợ tài chính: Với mục đích hỗ trợ khách hàng nắm bắt kịp thời
các cơ hội đầu tư, tạo khả năng quay vòng vốn nhanh, nâng cao hiệu quả đầu tư
cho khách hàng, HBBS phối hợp với các ngân hàng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tài
chính cho khách hàng.
Dịch vụ hỗ trợ thông tin: Với đội ngũ chuyên gia phân tích dày dặn kinh
nghiệm cùng với mối quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp và các hãng thông tấn
nổi tiếng quốc tế, HBBS cung cấp tới khách hàng các bàn phân tích, nhận định về
thị trường, ngành, cổ phiếu, các báo cáo phân tích thị trường hàng ngày, giúp khách
hàng nhận định một cách nhanh chóng và chính xác nhất về các thông tin: diễn
biến giao dịch ngày hôm trước, các thông tin thị trường, về doanh nghiệp, các
thông tin trong nước và quốc tế để có những quyết định đầu tư hiệu quả.
HBBS cũng cung cấp các dịch vụ phân tích thị trường, phân tích doanh
nghiệp,và phân tích cơ hội/dự án cụ thể theo yêu cầu riêng của khách hàng.
2. Chức năng, nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty
chứng khoán Habubank (HBBS)
2.1. Chức năng của HBBS
HBBS cũng như chức năng của một CTCK thông thường có ba chức năng chủ
yếu là:
 Tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách nối những người có tiền (nhà đầu tư) với
những người muốn huy động vốn (người phát hành chứng khoán như các công ty
cổ phần, Chính phủ ).
 Cung cấp một cơ chế giá cả cho giá trị của các khoản đầu tư.
 Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho các nhà đầu tư, tức là cung cấp một cơ
chế chuyển chứng khoán ra tiền mặt một cách nhanh nhất và ngược lại.
2.2. Nguyên tắc hoạt động của HBBS
Giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng trên cơ sở kết
hợp hài hoà giữa lợi ích của công ty và lợi ích của khách hàng kinh doanh có kỹ
năng tận tụy và có tinh thần trách nhiệm.
Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.
Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách

hàng
Tổ chức và thực hiện công tác thanh tra kiểm soát nội bộ để đảm bảo hoạt
động của công ty và nhân viên của công ty phù hợp với các quy định của pháp luật.
Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm
về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt
hại cho khách hàng
2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của HBBS
Có quyền chủ động tiến hành hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm về
các khoản nợ, cam kết của mình trong phạm vi số vốn và tài sản được Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội giao cho công ty quản lý và sử dụng.
Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng về mua bán chứng khoán, quản lý
doanh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, thực hiện các nghĩa vụ lưu kí chứng khoán.
Phải thu thập đầy đủ thông tin về tình hình tài chính và mục tiêu đầu tư của
khách hàng.
Quản lý tái sản chứng khoán của khách hàng tách biệt với tài sản chứng
khoán của công ty.
Chỉ nhận lệnh của khách hàng tại trụ sở chính và các chi nhánh có đăng ký.
Bảo mật thông tin cho khách hàng.
Thu phí cung cấp dịch vụ, mức phí do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quy
định sau khi thoả thuận với bộ tài chính.
Thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật.
Trong khuôn khổ biên chế được Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội cho phép,
công ty được quền tuyển chọn bố trí sử dụng hoặc cho thôi việc đối với cán bộ,
nhân viên công tác trong bộ máy quản lý và kinh doanh của công ty.
Công ty có trách nhiệm chăm lo phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo thực
hiện chiến lược phát triển và nhiệm vụ kinh doanh của công ty.
3. Cơ cấu tổ chức các phòng ban
3.1. Sơ đồ tổ chức
Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức quản lý của HB BS
3.2. Cơ cấu các phòng ban

• Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội: là cơ quan quyền lực cao nhất của Công ty. Là
pháp nhân đầu tiên góp vốn sang lập ra HBBS.
• HBBS: là tổ chức đứng ra điều hành các hoạt động chứng khoán của công ty và
trực thuộc NHTMCP Nhà Hà Nội.
• Ban giám đốc: Ban Giám đốc do Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội bổ nhiệm, có
nhiệm vụ tổ chức điều hành và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của Công ty theo
chiến lược và kế hoạch kinh doanh hàng năm đã được Ngân Hàng thông qua.
Giám đốc là người đại diện trước pháp luật của Công ty, thành viên ban giám đốc
có nhiệm kỳ 3 năm.
• Phòng Môi giới chứng khoán với hai chức năng cơ bản là:
 Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng: công ty thông qua các nhân viên bán
hàng cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu những khuyến nghị đầu tư.
Nguồn quan trọng nhất của các báo cáo nghiên cứu này là từ bộ phận nghiên cứu
trong công ty.
 Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp khách hang thực hiện giao dịch
theo yêu cầu và vì lợi ích của họ. Qúa trình này bao gồm hàng loạt các công việc
sau: hướng dẫn khách hang mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận
giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng.
• Phòng phân tích
Với chức năng cơ bản là đưa ra các sản phẩm phân tích tốt từ đó có thể giúp
công ty kinh doanh và tư vấn cho khách hàng có hiệu quả.
Phòng phân tích của công ty bao gồm hai chức năng cơ bản là:
• Phân tích cho hoạt động tự doanh của công ty.
• Phân tích để phục vụ các khách hàng chiến lược của công ty cũng
như các khách hàng tiềm năng.
Vì vậy phòng phân tích có vai trò đặc biệt quan trọng trong một công ty chứng
khoán, nó không những tự đưa ra các sản phẩm cho chính mình mà còn là mắt xích
quan trọng để kết nối khách hàng với công ty và hoạt động kinh doanh chứng
khoán của công ty hoạt động có hiệu quả hay không có phụ thuộc rất lớn vào các
sản phẩm từ phòng phân tích này.

• Phòng Tự doanh
HBBS đầu tư kinh doanh cho chính Công ty bằng vốn của mình, vốn vay tín
dụng và vì mục tiêu thu nhập. Hoạt động tự doanh là điều kiện song song bắt buộc
phải có để công ty có thể triển khai thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành, một
hoạt động quan trọng liên quan trực tiếp đến việc huy động vốn của các doanh
nghiệp trên thị trường chứng khoán mà hiện nay công ty đang triển khai rất mạnh
mẽ. Hoạt động tự doanh được hỗ trợ rất nhiều từ hoạt động tư vấn, bảo lãnh phát
hành cũng như dịch vụ tư vấn tài chính của công ty, những thông tin có được từ các
hoạt động này là những yếu tố quan trọng giúp HBBS xây dựng được một danh
mục đầu tư hợp lý, an toàn. Dựa vào những am hiểu sâu sắc về thị trường và sự lớn
mạnh của hoạt động tư vấn, HBBS đang xây dựng cho mình một danh mục đầu tư
tự doanh hợp lý và hiệu quả bao gồm các chứng khoán niêm yết, chưa niêm yết và
trái phiếu, trên nguyên tắc đa dạng hóa danh mục đầu tư để phân tán rủi ro, đảm
bảo cân bằng và tập trung vào các chứng khoán có tiềm năng tăng trưởng nhanh và
ổn định.
• Phòng tư vấn đầu tư: là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ
bỏ ra để kinh doanh nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý
rât lớn đến người được tư vấn và có thể làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay
bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời
bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu người đầu tư có lợi kiếm được
tiền từ những lời tư vấn thì những người tư vấn sẽ được sự cảm ơn và có thể thêm
một phần hoa hồng nhưng nếu nhà đầu tư bị thiệt hại từ những lời tư vấn đó thì
chắc chắn nhà tư vấn sẽ bị phàn nàn, bị thiệt hại đến thanh danh và đặc biệt có thể
bị bồi thường.

×