MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 2
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả 4
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Kết cấu của luận văn 5
Chương 1: SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CÔNG TÁC LÝ LUẬN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY 6
1.1. Phạm trù lý luận và thực tiễn theo quan điểm Hồ Chí Minh 6
1.1.1. Phạm trù lý luận 6
1.1.2. Phạm trù thực tiễn 7
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
9
1.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho cách
mạng nước ta 9
1.2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận cách mạng và thực tiễn cách mạng 11
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận Mác -
Lênin, chống chủ nghĩa giáo điều 17
1.3. Công các lý luận ở nước ta hiện nay 21
1.3.1. Nội dung công tác lý luận 21
1.3.2. Vai trò của công tác lý luận 28
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG
NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC LÝ
LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 34
2.1. Tính tất yếu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong công tác lý luận 34
2.1.1. Vận dụng tư tưởng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều 34
2.1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất lý luận và thực tiễn
nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam 40
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn vào công tác lý luận ở nước ta thời gian qua 48
2.2.1. Những kết quả đạt được 48
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay 50
2.3. Quan điểm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay 54
2.3.1. Tầm quan trọng của lý luận đối với thực tiễn cách mạng ở nước ta hiện
nay 54
2.3.2. Những yêu cầu mới của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay 60
2.3.3. Những phương châm chỉ đạo công tác lý luận ở nước ta hiện nay 66
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta những tác phẩm lý luận thuần
túy nhưng Người đã để lại cho chúng ta một hệ thống những quan điểm, lý
luận khoa học sáng tạo, gắn chặt với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh và là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của Người có
sức sống trường tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nhận xét: Bác Hồ là nhà lý luận
kiệt xuất trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta… khai thác,
hệ thống hoá, nghiên cứu nội dung và vận dụng di sản tinh thần phong phú
của Bác Hồ vào công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay là nhiệm vụ hàng đầu
của những người làm công tác nghiên cứu lý luận.
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn có ý nghĩa hết sức to lớn đối với đất nước ta hiện nay, nhất là trong công
tác tư tưởng, lý luận. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới với nhiều thách
thức, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, mà trọng tâm là công tác lý luận
đã trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều này bắt nguồn từ sự phát
triển mạnh của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, tác động sâu rộng đến giao lưu
hợp tác văn hóa, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo nhất
là sự cạnh tranh gay gắt thị trường kinh tế, cũng như cuộc đấu tranh giải quyết
những vấn đề toàn cầu: chạy đua vũ trang, cuộc chiến chống đói nghèo, bệnh
tật và vấn đề nóng lên của trái đất…
Thực tiễn đặt ra yêu cầu và đòi hỏi lý luận phải đổi mới và phát triển để
tìm được câu trả lời cho những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, cung cấp cơ sở lý
2
luận cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với sự
phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân.
Đứng trước những yêu cầu bức thiết được đặt ra từ công cuộc đổi mới,
tác giả chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn với công tác lý luận ở nước ta hiện nay” nhằm góp phần phục vụ
công tác lãnh đạo của Đảng, góp phần trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân, động viên và khích lệ nhân dân đấu
tranh chống kẻ thù, ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nói chung, thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, luôn có sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học từ Trung ương đến cơ sở. Trong những năm gần
đây, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết đăng trên các
sách, báo, tạp chí bằng những cách tiếp cận khác nhau với nội dung phong
phú, đa dạng.
Nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn đã có một số công trình tiêu biểu như: Luận văn hoàn chỉnh
trình độ thạc sĩ Triết học “Tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chống chủ nghĩa giáo điều trong quá
trình cách mạng Việt Nam”, của Đào Hữu Hải, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1995; "Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh", của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Khoa học xã hội,
số 1(59), năm 2003; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều", của Trần
Văn Phòng, Tạp chí Khoa học xã hội, số 05 (93), năm 2006; Tư tưởng Triết
học Hồ Chí Minh, của GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Nxb Lao động, năm 2000; Tư
3
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, của TS Nguyễn Đức Đạt, Nxb Chính trị quốc
gia, năm 2007
Qua các công trình nghiên cứu có được, tác giả luận án sơ bộ nhận thấy
những công trình trên nêu bật những nội dung sau: Giữa lý luận và thực tiễn
có mối quan hệ khăng khít. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của lý luận; lý luận
định hướng và tổ chức thực tiễn; lý luận giúp khắc phục bệnh kinh nghiệm
trong hoạt động thực tiễn. Đồng thời cũng chỉ rõ tính thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng.
Về công tác tư tưởng, lý luận có một số các bài viết xuất bản thành sách
và in trên tạp chí như: “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”, của
Nguyễn Đức Bình, Tạp chí Cộng sản, số 829, tháng 11 năm 2011; “Một số
vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức của Đảng trong thời kỳ đổi
mới”, của tác giả Tô Huy Rứa, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012; “Nâng cao
chất lượng công tác tư tưởng, lý luận hiện nay”, cuả Lê Xuân Lựu, Tạp chí
Cộng sản, số 23, tháng 8 năm 2003
Đảng ta cũng đưa ra các nghị quyết riêng về công tác tư tưởng, lý luận
như: Nghị quyết 01 - NQ/TW ngày 28 tháng 3 năm 1992 của Bộ Chính trị
khóa VII "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay"; Nghị quyết 16 -
NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
(Hội nghị Trung ương 5) "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới"; Nghị quyết 16 - NQ/TW ngày 1 tháng 8 năm 2007 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa X (Hội nghị Trung ương 5) “Về công tác tư
tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”.
Nhìn chung, các tài liệu, bài viết, văn kiện đều đã nêu rõ nội dung tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; đã chỉ
ra thực trạng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay.
4
Song chưa có tài liệu nào nghiên cứu sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, gắn tư tưởng biện chứng đó nhằm định
hướng phát triển công tác lý luận ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn theo quan điểm của Hồ Chí Minh vào công tác lý luận, đáp
ứng những yêu cầu đang đặt ra trong quá trình đổi mới ở nước ta.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng nguyên tắc trong công tác lý luận.
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thông qua các quan điểm của Người và sự
vận dụng nguyên tắc này trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần phải làm rõ những luận điểm
cơ bản sau:
+ Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn.
+ Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công
tác lý luận ở nước ta hiện nay.
Những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài:
+ Về mặt lý luận:
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực tiễn và lý luận.
Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan
điểm của Hồ Chí Minh.
5
Vai trò của nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong công tác lý
luận ở nước ta hiện nay.
+ Về mặt thực tiễn:
Giúp người học phát triển tư duy biện chứng, có khả năng vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để nhận thức con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài vận dụng một
số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp này được sử dụng để
tập hợp và thu lượm những vấn đề lý luận có liên quan đến nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn của
cách mạng Việt Nam và trong công tác lý luận hiện nay.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
vào quá trình tìm hiểu các tư liệu có liên quan đến vấn đề thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn của cách mạng
Việt Nam và trong công tác lý luận hiện nay.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng khi tranh
thủ ý kiến và những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, những người
am hiểu về tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và về công tác lý luận ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung gồm 2 chương:
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn và công tác lý luận ở nước ta hiện nay
Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay
6
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VỚI THỰC TIỄN VÀ CÔNG TÁC LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Phạm trù lý luận và thực tiễn theo quan điểm Hồ Chí Minh
1.1.1. Phạm trù lý luận
Phạm trù lý luận được đề cập trong rất nhiều các bài viết, bài nói chuyện
của Hồ Chí Minh. Khái niệm “lý luận” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
hiểu là: “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu
tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem
nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [20, tr.292]; “lý luận do
kinh nghiệm cách mạng các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước
và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm
đó thành lý luận” [17, tr.272]; “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử” [19, tr.497].
Chúng ta nhận thấy rằng, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về “lý
luận” có chứa yếu tố thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và thể hiện được
mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận cũng như yếu tố kế thừa của
lý luận. Cách quan niệm về lý luận như thế cho phép người ta nhìn lý luận
trong trạng thái mở, trạng thái vận động của nó. Lý luận chân chính tự nó
không chấp nhận sự xa rời thực tiễn, xa rời hiện thực. Việc Hồ Chí Minh đặt
“lý luận” trong mối quan hệ chặt chẽ với “kinh nghiệm” cũng là một cách chỉ
ra tính quy định của thực tế đối với nội dung của lý luận. Điều cần lưu ý là,
tuy Người không quên nhắc nhở phải chống bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa,
nhưng Người không hề coi thường kinh nghiệm. Với Hồ Chí Minh, kinh
nghiệm là nguyên liệu để tạo nên lý luận, thậm chí là một yếu tố, một bộ
phận của lý luận.
7
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã nêu một cách
cụ thể hơn: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong
các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý
luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế” [17, tr.233]. Và theo Hồ Chí
Minh: “đó là lý luận chân chính” [17, tr.233]. Như vậy, lý luận là sự tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành, nhưng lý luận chân chính là lý luận
phải được chứng minh với thực tế, tức là phải phù hợp với thực tế, phải
được vận dụng vào thực tế.
Trong các bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn
đạt khác nhau về lý luận, nhưng điều cơ bản mà chúng ta bắt gặp là Người
muốn nhấn mạnh lý luận là “do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện
nay gom góp, phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó mà thành” [17,
tr.272]. Nói khác đi lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành.
1.1.2. Phạm trù thực tiễn
Trong lý luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng, “thực tiễn”
được coi là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nó gồm các dạng cơ bản là
hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực
nghiệm khoa học. Thực tiễn được coi là mục đích, là cơ sở, là động lực chủ
yếu và trực tiếp của nhận thức, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Vận dụng nguyên lý này vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “thực tế” hay “thực hành”…
cùng với khái niệm “thực tiễn”.
Theo Hồ Chí Minh: “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu
thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của
chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho chúng ta giải quyết. Thực
tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá
8
nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho
đến các vấn đề trong nước và trên thế giới” [19, tr.497].
Một điểm cần lưu ý là trong các bài viết, bài nói chuyện của mình,
Hồ Chí Minh đã dùng hai khái niệm thực tiễn và thực tế với cùng một nội
hàm như nhau. Cũng có thể xuất phát từ chỗ để cho mọi người dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ liên hệ nên Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm thực tế nhiều hơn
khái niệm thực tiễn.
Chúng ta biết rằng phần lớn cán bộ, đảng viên của ta đều xuất thân từ
nông dân, trình độ học vấn còn nhiều hạn chế, lại không quen với những lý
thuyết sách vở cao xa cùng những khái niệm chuyên môn phức tạp khó hiểu.
Việc dùng khái niệm thực tế chắc chắn sẽ dễ giải thích, dễ tuyên truyền, dễ
hiểu hơn khái niệm thực tiễn - với tư cách là một phạm trù triết học. Hồ Chí
Minh cho rằng, thực tế bao gồm rất rộng như thực tế cách mạng của nước ta,
kinh nghiệm công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách đường lối của Đảng,
kinh nghiệm của Đảng, những vấn đề trong nước và trên thế giới hiện nay…
Vì vậy, thực tế không đối lập với thực tiễn, nó chỉ rộng hơn thực tiễn mà thôi.
Qua các bài viết, bài nói chuyện của Hồ Chí Minh chúng ta nhận thấy,
khi đề cập tới sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin thì bao giờ Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm
thực tiễn, nhưng khi đề cập tới việc áp dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ lý
luận với thực tiễn và khi giải thích nguyên tắc này thì Người thường dùng
khái niệm thực tế thay cho thực tiễn. Cho nên, trong cùng một bài viết, bài nói
chuyện, Hồ Chí Minh vẫn sử dụng cả hai khái niệm thực tế và thực tiễn.
Xét về bản chất, hai khái niệm thực tế và thực tiễn tuy có nội dung
khác nhau nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng với nội hàm như nhau. Tuy
vậy, hai khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất với nhau và không thể
thay thế cho nhau trong một số trường hợp. Vì vậy, Hồ Chí Minh không
9
bao giờ viết “thống nhất giữa lý luận và thực tế” mà viết “thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn”.
Xuất phát từ chỗ hiểu thực tế rất rộng, bao gồm toàn bộ thực tiễn cách
mạng của Đảng ta, cả kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, đường lối, chính
sách… Cho nên, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên rằng khi liên hệ
lý luận với thực tế cần tránh sự lệch lạc không hiểu rõ vấn đề, đòi hỏi phải
giải quyết mọi vấn đề thực tế ngay một lúc, vì thực tế là cả một quá trình lâu
dài của toàn Đảng, toàn dân.
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
1.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho
cách mạng nước ta
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa xã hội, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc. Người tiếp
thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng
cho cách mạng Việt Nam.
Vậy điều gì đã làm cho Hồ Chí Minh tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin?
Người tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin và Người tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-
Lênin câu trả lời bức thiết nhất cho dân tộc Việt Nam là con đường giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi người. Trong bài
Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người đã nói: “Từng bước một,
trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác
thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ” [21, tr.128].
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với
nhiều tư tưởng, nhiều học thuyết, nhưng tất cả đều không đem lại lời giải đáp
10
cho cách mạng Việt Nam. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết cách
mạng nhất, khoa học nhất, vạch đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước ta. Người đã khẳng
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin” [33, tr.24].
Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin trên cơ sở thống nhất
giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Hơn nữa, lý luận cách mạng
ấy lại được Người vận dụng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng
của mình. Điều này thể hiện rất rõ ở chỗ, Người tích cực tham gia hoạt động
trong các tổ chức cách mạng, tổ chức chính trị - xã hội nhằm đưa chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào cách mạng. Từ tham gia Đảng xã hội Pháp, Hồ
Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp, Hội liên hiệp thuộc địa, ra báo Người cùng khổ. Người đã viết
nhiều bài nói về phong trào công nhân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
cũng như tố cáo tội ác của bọn đế quốc thực dân đăng trên các báo: Nhân
đạo, Đời sống công nhân, Người cùng khổ… xuất bản ở Pari. Người đã trực
tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam… Đây là cả một quá trình phát triển từ nhận thức lý luận đến việc
kết hợp sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn phong trào cách mạng thế
giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Rõ ràng là Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ từ
nhận thức lý luận mà còn từ hoạt động thực tiễn cách mạng và không chỉ
dừng lại đó, Người còn đưa lý luận đó vào thực tiễn cách mạng. Nhờ vậy mà
Người sớm đến được với chủ nghĩa Mác-Lênin. Mùa thu năm 1920, không
phải chỉ có một mình Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người Việt Nam
duy nhất được đọc Sơ thảo những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lênin, nhưng chỉ có Người là duy nhất tìm thấy con đường cách mạng
11
đúng đắn để giải phóng cho dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức khác.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến và nhận thức được
chủ nghĩa Mác-Lênin không phải trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa hay giáo
điều sách vở mà trên cơ sở của sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách
mạng và hoạt động thực tiễn cách mạng của Người.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, biết vận dụng
lý luận Mác-Lênin vào tình hình thực tế đất nước để từ đó đề ra đường lối,
chính sách đúng đắn. Vì vậy, cách mạng Việt Nam đã giành được những
thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với phong
trào cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái
“cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản” [21, tr.128].
1.2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng
Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác -
Lênin để chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam, Người nắm vững những
nguyên lý triết học mácxít để làm cơ sở lý luận cho những phương pháp cách
mạng đúng đắn. Người hiểu rất sâu sắc vai trò của lý luận đối với thực tiễn.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Người luôn nhắc nhở cán
bộ, đảng viên phải nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin để chỉ đạo thực
tiễn phong trào cách mạng. Người nhắc nhở lại lời dạy của Lênin là: “Không
có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “chỉ có một
Đảng có lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò
12
chiến sĩ tiên phong” [19, tr.495].
Để cán bộ, đảng viên hiểu được con đường hình thành và vai trò lý luận
đối với hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nêu ra khái niệm lý luận về
sự tổng kết, sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn của loài người đã
diễn ra trong lịch sử, là hệ thống những tri thức của loài người về tự
nhiên và xã hội, Người nói: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ
trong quá trình lịch sử” [19, tr.497].
Muốn có lý luận, con người phải dựa vào hoạt động thực tiễn, dựa vào
thực tế trong lịch sử, dựa vào những kinh nghiệm đã đúc rút được trong quá
trình hoạt động thực tiễn. Qua đó, con người đối chiếu, so sánh, phân tích,
tổng hợp và khái quát thành lý luận.
Trong bài Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý luận” [17, tr.233].
Lý luận phản ánh đúng đắn bản chất của các sự vật, hiện tượng, các quá
trình trong tự nhiên và xã hội sẽ giúp chúng ta nắm được quy luật vận động của
các sự vật và hiện tượng. Như vậy, Hồ Chí Minh không những làm rõ khái niệm
triết học về lý luận, mà còn làm rõ nguồn gốc, con đường hình thành và vai trò
của lý luận. Người cũng nói rõ, chính lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự
tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các
nước. Nó là: “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa
học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước ” [19, tr.497].
Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư
tưởng cho phong trào cách mạng của giai cấp vô sản các nước. Những
nguyên lý phổ biến của lý luận Mác-Lênin xác định phương hướng và định ra
13
phương pháp hành động đúng đắn cho Đảng Cộng sản và phong trào công
nhân ở nước ta thực hiện thành công cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, lý luận Mác-Lênin là “kim
chỉ nam”, nó “chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” [17,
tr.233]. Vì vậy, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên muốn làm tốt thì phải
nắm vững lý luận, vì “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”
[17, tr.234].
Về mối quan hệ giữa kinh nghiệm và lý luận, Người cho rằng, kinh
nghiệm là vốn quý. Trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải rút kinh
nghiệm, nắm được kinh nghiệm và cần có nhiều kinh nghiệm để chỉ đạo hành
động. Con người không có kinh nghiệm, sẽ không có cơ sở, điều kiện để tổng
kết, đúc rút lý luận. Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm thì chưa đủ.
Bởi vì, kinh nghiệm mới chỉ phản ánh từng mặt, từng bộ phận, chưa đi sâu vào
bản chất và tìm ra quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng. Kinh nghiệm
chỉ có vai trò trong một phạm vi hẹp. Trong bài Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí
Minh đã nói với cán bộ, đảng viên rằng: “ kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng
cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”.
Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên không được dừng lại ở trình độ kinh
nghiệm, tuyệt đối hoá kinh nghiệm dẫn đến coi thường lý luận, không học lý
luận, lý luận kém. Muốn làm việc tốt, cán bộ cần phải nâng cao tri thức lý
luận, nắm vững lý luận. Người nói: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ,
làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho
Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ
đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều” [17,
tr.234]. Như vậy, cần phải kết hợp hài hoà giữa việc tích lũy kinh nghiệm và
lý luận. Vai trò của kinh nghiệm và lý luận được Người dùng hình tượng so
14
sánh như hai con mắt: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một
mắt sáng, một mắt mờ” [17, tr.234].
Hồ Chí Minh không những khẳng định vai trò của lý luận mà còn khẳng
định vai trò của hoạt động thực tiễn. Người chỉ rõ lý luận ra đời trên cơ sở
hoạt động thực tiễn xã hội. Chính hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở,
nguồn gốc để con người đúc rút thành kinh nghiệm và tổng kết, khái quát
thành lý luận. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi. Vì vậy, lý luận cũng phải
được bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới. Người
chỉ rõ: “Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra
từ trong thực tiễn sinh động” [19, tr.496].
Lý luận ra đời hướng dẫn con người cải tạo lại hoàn cảnh, cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội khi lý luận đó được vận dụng vào thực tiễn hoạt động
của quần chúng. Bởi vì, suy cho cùng thì lý luận không phải vì lý luận, mà lý
luận vì mục đích cải tạo hiện thực, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Thực tiễn
là mục đích của nhận thức, của lý luận. Người nói: “Lý luận cốt để áp dụng
vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận
suông” [17, tr.234].
Chỉ có trên cơ sở vận dụng lý luận vào thực tiễn mới khẳng định được lý
luận đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp với thực tiễn. Một học thuyết
đúng khi nó thể hiện được sức mạnh của mình trong hoạt động thực tiễn xã
hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Một chủ trương đúng, một chính sách đúng sẽ có
vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực.
Ngược lại, chủ trương và chính sách không đúng, không phù hợp với thực
tiễn sẽ cản trở hoạt động thực tiễn, cản trở tiến bộ xã hội.
Vì vậy, hoạt động thực tiễn có vai trò là cơ sở duy nhất, là tiêu chuẩn để
kiểm tra lý luận đúng hay sai. Để làm rõ vấn đề này, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh vai trò của thực tiễn. Người khẳng định: lý luận sau khi ra đời “rồi lại
15
đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [17, tr.234].
Như vậy, tính đúng đắn của lý luận không phải được chứng minh bằng
lý luận, mà phải dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu
cán bộ, đảng viên vừa phải học tập và nắm vững lý luận để chỉ đạo hoạt động
cách mạng đi đúng hướng, vừa phải đi sâu, đi sát hoàn cảnh, điều kiện thực tế
khách quan. Điều kiện thực tế khách quan của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi
vùng, mỗi địa phương, có những đặc điểm khác nhau. Vì vậy, nắm vững lý
luận phải dựa trên cơ sở vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước
mình, địa phương mình. Cán bộ, đảng viên phải chống tư tưởng quan liêu, xa
quần chúng, xa thực tế.
Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Người luôn coi sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, là phương châm hành động của những người mácxít. Muốn cách mạng
thành công, đòi hỏi những người mácxít phải nắm vững nguyên tắc về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cán bộ, đảng viên cần phải chống tư
tưởng tuyệt đối hoá vai trò lý luận, hạ thấp, coi thường vai trò của thực tiễn
dẫn đến xa rời thực tiễn cách mạng, ra rời quần chúng, giáo điều trong suy
nghĩ và hành động. Mặt khác, phải chống tư tưởng coi thường lý luận, tuyệt
đối hoá vai trò kinh nghiệm, dẫn đến lười học lý luận, yếu kém về lý luận,
hành động mò mẫm, tự do, tuỳ tiện.
Để thấy rõ tầm quan trọng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Người khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” [19, tr.496]. Mỗi cán bộ, đảng viên của
Đảng cần phải thấy rõ nguyên tắc này và xem nó là phương châm hành
động của mình.
16
Lý luận có vai trò định hướng, làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.
Nhưng, lý luận chỉ dừng lại ở lý luận, ở câu chữ, sách vở, không gắn với hoạt
động thực tiễn xã hội thì không có vai trò cải tạo thế giới.
Vì vậy, khi nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận phải gắn với thực
tiễn. Người đã nói: “Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông” [19, 496].
Một trong những yêu cầu của người cán bộ cách mạng là chống tư
tưởng “lý luận suông”, “lý luận xa rời thực tiễn, xa rời nhu cầu của quần
chúng, xa rời thực tế khách quan. Bệnh “lý luận suông” là một khuynh hướng
trong những cán bộ không nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn. Chúng ta học lý luận phải gắn với thực tế, học lý luận để áp dụng
vào việc làm. Người nhấn mạnh: “biết lý luận mà không thực hành là lý luận
suông” [18, tr.47].
Cán bộ, đảng viên cần phải có trình độ lý luận. Phong trào cách mạng
phải có lý luận cách mạng soi đường. Người cho rằng: phải có lý luận thì mới
hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để “chủ trương cho đúng”,
“làm cho đúng”.
Người chủ trương: “Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế” [18,
tr.48]. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình
hình cụ thể, mặt khác, lý luận còn phải có nhiệm vụ giải thích cho quần
chúng hiểu để thực hiện các chủ trương, chính sách đó. Như thế, “lý luận mới
khỏi tách rời thực tế”.
Cán bộ, đảng viên phải nâng cao trình độ lý luận phải “gắn liền công tác
lý luận với thực tiễn cách mạng”; phải “đi sát thực tế”, phải “liên hệ mật thiết
với quần chúng”.
Hồ Chí Minh không những thấy rõ lý luận phải gắn liền với thực tiễn,
phù hợp với thực tiễn, chống lý luận suông, giáo điều chủ nghĩa, mà còn thấy
17
rõ thực tiễn đòi hỏi phải có nhu cầu hướng dẫn của lý luận. Người khẳng
định: “Thực tế không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”
[19, tr.496].
Thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn thiếu định hướng.
Hành động không có lý luận soi đường là hành động mò mẫm, tự do, tuỳ tiện,
xa rời quy luật khách quan.
Chính hoạt động thực tiễn xã hội là cơ sở, là mục đích của nhận thức,
của lý luận. Lý luận hình thành lại là kim chỉ nam soi đường cho hoạt động
thực tiễn. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Trong hoạt
động thực tiễn xã hội, chống tư tưởng coi thường lý luận, “coi khinh lý luận”,
tuyệt đối hoá kinh nghiệm thực tiễn dẫn đến bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Tuyệt đối hoá vai trò lý luận hoặc tuyệt đối hoá vai trò thực tiễn đều là
những khuynh hướng tư tưởng cực đoan sai lầm. Người đòi hỏi cán bộ cách
mạng muốn làm việc tốt phải nắm vững sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
coi đó là nguyên tắc, là phương châm trong suy nghĩ và hành động của mình.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận
Mác - Lênin, chống chủ nghĩa giáo điều
Để giải quyết tốt mọi nhiệm vụ của cách mạng đặt ra Đảng ta phải nắm
vững nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Hồ Chí Minh thấy rõ cán bộ, đảng viên của Đảng cần được học tập
lý luận, hiểu lý luận và biết vận dụng lý luận để giải quyết các công việc của
cách mạng. Người đã đặt ra câu hỏi với cán bộ, đảng viên là vì sao phải học
tập lý luận.
Người cho rằng, một Đảng mạnh là một Đảng phải có lý luận tiền
phong hướng dẫn. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho
hành động của mình, nên đã lãnh đạo cách mạng thu được những thắng lợi to
lớn và căn bản. Nhưng mặt khác, vì trình độ lý luận thấp kém, cho nên, đứng
18
trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo.
Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm khuyết điểm; “Đảng ta
còn có nhiều nhược điểm mà một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận
còn thấp kém”. Vì vậy công tác tổ chức học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận
cho cán bộ, đảng viên là công việc cần thiết và thường xuyên của Đảng.
Đảng ta tổ chức học tập lý luận cho cán bộ, đảng viên là để “nâng cao
trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác
của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”. Muốn
thế phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý
luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng.
Cán bộ, đảng viên cần học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác -
Lênin như thế nào?
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Lý luận phải liên hệ với thực tế”. Lý
luận rất cần thiết, nhưng học tập, tiếp thu lý luận mà không liên hệ và vận
dụng vào thực tiễn thì không có kết quả.
Cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ lý luận là cốt để áp dụng
vào thực tế. Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích: “Học để vận dụng chứ
không phải học lý luận vì lý luận”.
Người làm cách mạng phải nắm vững lý luận cách mạng để hiểu rõ mọi
hoàn cảnh khó khăn phức tạp, xác định rõ mâu thuẫn nảy sinh và phát triển để
giải quyết đúng đắn các vấn đề cách mạng đặt ra.
Cán bộ, đảng viên tiếp thu và nắm vững lý luận là nắm cái gì?
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh
thần xử trí mọi việc, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-
Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế ở nước ta. Tiếp thu
19
lý luận Mác-Lênin là tiếp thu những nguyên lý, quy luật chung nhất. Từ đó,
chúng ta vận dụng, soi sáng vào điều kiện cụ thể của nước mình.
Vì vậy, học tập và vận dụng lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn cách
mạng nước ta là tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo trong hoàn cảnh, điều
kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với đặc điểm riêng của Việt Nam. Hồ Chí
Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “chúng ta phải học tập chủ nghĩa Mác-
Lênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta,
cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng, là nền tảng
tư tưởng cho Đảng ta làm cách mạng. Nhưng, chủ nghĩa Mác-Lênin không
phải là hệ thống lý luận khép kín, hoàn chỉnh tuyệt đối, mà nó là hệ thống lý
luận mở, luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động.
Lý luận Mác-Lênin cũng không phải là những khuôn mẫu cứng nhắc ở các
thời đại khác nhau. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhắc lại lời dạy của Lênin
rằng: “Lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó làm kim chỉ nam cho
hành động cách mạng; lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính
chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung những kết luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động”.
Người còn căn dặn cán bộ, đảng viên học tập và tiếp thu lý luận Mác-
Lênin là tiếp thu cái tinh thần chung, nguyên lý chung, phương pháp luận
chung để định hướng trong suy nghĩ và vận dụng vào thực tiễn cho phù hợp
với hoàn cảnh đặc biệt của nước ta. Chống tư tưởng học thuộc lòng câu chữ,
sách vở mà không hiểu ý nghĩa, nội dung các nguyên lý chung, các quy luật
chung đó. Người nhắc nhở: “Không phải học để thuộc lòng từng câu từng
chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc”.
Học tập lý luận Mác-Lênin mà chỉ nắm câu chữ, thuộc câu chữ mà không
hiểu sâu sắc nội dung, nguyên lý, quy luật để vận dụng vào thực tế cho phù
20
hợp, đó là bệnh giáo điều sách vở, xa thực tế. Học kinh nghiệm của nước
khác, địa phương khác, ngành khác mà không phân tích, tiếp thu tinh thần
chung, đem áp dụng một cách dập khuôn máy móc, đó cũng là giáo điều.
Người kiên quyết phê phán những cán bộ, đảng viên có tư tưởng lệch
lạc trong việc học tập và tiếp thu lý luận Mác-Lênin. Người phê phán những
cán bộ, đảng viên học tập lý luận theo kiểu học thuộc lòng sách vở, thuộc
được nhiều câu, đọc được nhiều sách lý luận rồi cho mình là giỏi lý luận, kiêu
căng, tự mãn. Những người như vậy là giáo điều chủ nghĩa, xa rời thực tế
khách quan. Họ không phải giỏi lý luận mà thực chất là yếu kém về lý luận, lý
luận suông. Do đó, họ thường có biểu hiện lời nói không đi đôi với việc làm.
Trong bài Đạo đức cách mạng, Người đã chỉ rõ: Có đồng chí thuộc
lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ tự cho mình là hiểu biết chủ
nghĩa Mác-Lênin hơn ai hết. Song khi gặp việc thực tế, thì họ hoặc là máy
móc, hoặc là lúng túng. Lời nói và việc làm của họ không nhất trí. Họ học
sách vở Mác-Lênin, nhưng không học tinh thần Mác-Lênin. Học để trang sức,
chứ không phải để vận dụng vào công việc cách mạng.
Người đã chỉ rõ những khuyết điểm của cán bộ ta. Người nói: Từ trước
tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tế
cách mạng Việt Nam. Cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất
cách mạng tốt đẹp. Nhưng chúng ta còn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ
quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm
Người mong muốn đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng từ thế
hệ này sang thế hệ khác luôn nắm vững những nguyên lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, để vận dụng vào
thực tế cách mạng Việt Nam một cách sáng tạo.
Hồ Chí Minh không những là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, là nhà văn
hóa lớn mà còn là người có tư tưởng triết học duy vật biện chứng sâu sắc.
21
Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận Mác-Lênin trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận cách mạng và thực tiễn vào phong trào cách mạng một cách đúng đắn.
Người đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, đưa
đất nước ta đi lên con đường chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế của thời đại.
1.3. Công các lý luận ở nước ta hiện nay
1.3.1. Nội dung công tác lý luận
Nhiệm vụ công tác lý luận là phục vụ việc tiếp tục đổi mới tư duy, xây
dựng luận cứ khoa học về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, về các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; bồi
dưỡng thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ; tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, củng cố niềm tin vào lý tưởng, phê phán những quan điểm lệch lạc, đấu
tranh chống những trào lưu tư tưởng - lý luận sai trái và thù địch, góp phần bảo
vệ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, bảo vệ Tổ quốc và chủ nghĩa
xã hội; phát triển đội ngũ cán bộ lý luận với phẩm chất chính trị và trình độ
khoa học cao đủ khả năng đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, đồng
thời chuẩn bị tiềm lực lý luận cho bước phát triển sau này của đất nước.
Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, cần đặc biệt nhấn mạnh:
Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận
một cách sáng tạo, trước hết là tổng kết lý luận những kinh nghiệm cơ bản
trong công cuộc đổi mới nhằm làm sáng tỏ hơn nữa căn cứ khoa học và thực
tiễn của việc xây dựng mô hình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam dưới ánh sáng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 – 2020 được thông qua tại đại hội XI của Đảng.
22
Để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên, công tác lý luận trong giai đoạn hiện
nay cần tập trung vào những hướng nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, làm rõ những vấn đề cần nhận thức lại, những vấn đề cần tiếp
tục bổ sung, điều chỉnh và phát triển trên cơ sở tổng kết và khái quát những
kinh nghiệm thực tiễn mới và những thành tựu của khoa học hiện đại. Nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, đồng thời chú trọng nghiên cứu những tinh hoa trí tuệ của dân tộc.
Những học thuyết khác về xã hội (ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin) cần được
nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng, có phê phán. Kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều cũng như chống chủ nghĩa xét lại, chủ
nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu và cuộc tiến công
về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch đã gây ra không ít hoài nghi dao
động trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về tính đúng đắn của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Một khi còn hoài nghi, dao động về nền tảng tư tưởng
của Đảng thì sự thống nhất quan điểm chính trị và niềm tin sẽ bị ảnh hưởng
và khó có thể vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
cách mạng nước ta.
Vì vậy, nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, làm sáng tỏ bản chất
cách mạng khoa học của nó, khẳng định nó mãi mãi là ngọn đèn soi sáng cho
sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc
bị áp bức là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đồng thời, trong khi khẳng định
điều đó, chúng ta cũng cần xem xét những luận điểm đã được các nhà kinh
điển khái quát từ thế kỷ thứ XIX đến nay đã bị lịch sử vượt qua.
Ngày nay, chúng ta phải từ những biến đổi của lịch sử mà làm sáng tỏ
những gì của chủ nghĩa Mác-Lênin là vĩnh hằng và những gì đã bị hạn chế
23
bởi thời đại đã sinh thành ra nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng không phải là
cẩm nang có sẵn mọi lời giải cho tất cả mọi vấn đề của cách mạng nảy sinh
sau này mà hậu thế gặp phải.
Trong thực tế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước
trước đây những người cộng sản đã không nhận thức được đầy đủ bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin; không nắm hết sự vận
động phát triển của nó cùng với sự vận động, phát triển của tình hình mà tách
lý luận ra khỏi thực tiễn của thời đại, thực tiễn của đất nước, nên đã phạm
phải giáo điều, bảo thủ.
Do vậy, ngày nay công tác lý luận phải từ những biến đổi của lịch sử mà
làm sáng tỏ những gì mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã đúng trước đây, nay vẫn
đúng; những gì bị hạn chế bởi thời đại sinh thành ra nó, những gì do chúng ta
đã nhận thức không đầy đủ, méo mó và sai lệch.
Chỉ có làm tốt việc này thì công tác lý luận mới tạo cơ sở khoa học cho
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn của thời đại và thực
tiễn của cách mạng nước ta, mới có thể khai phá và sáng tạo trong khi giải
quyết các vấn đề mà cách mạng nước ta đang đặt ra. Chỉ có làm tốt việc này
thì mới tạo ra cơ sở khoa học cho công tác giáo dục lý luận, đào tạo cán bộ,
xây dựng sự thống nhất quan điểm chính trị, tư tưởng, niềm tin vào nền tảng
tư tưởng của Đảng và mới có sức mạnh trong cuộc đấu tranh chống lại các tư
tưởng, lý luận thù địch.
Thứ hai, nghiên cứu những kinh nghiệm lịch sử hơn 70 năm của chủ
nghĩa xã hội hiện thực, những bài học rút ra từ những cuộc cải tổ và sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chú trọng nghiên
cứu những vấn đề thời đại, về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về toàn cầu hóa và
những biến đổi trong các quan hệ quốc tế, về trật tự thế giới mới, dự báo xu
hướng phát triển của phong trào cánh tả, cộng sản và công nhân thế giới và