Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

thực trạng kế toán nghiệp vụ nhập khẩu tại công ty cổ phần bao bì việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.34 KB, 93 trang )






LUẬN VĂN
THỰC TRẠNG KẾ TOÁN NGHIỆP
VỤ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU
TRONG CÁC ĐƠN VỊ KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU

ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị
trường
1.1.1.1 Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong cơ chế thị
trường
Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu ở nước ta trong mấy năm gần đây
Đặc điểm nghiệp vụ nhập khẩu trong doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu
Đặc điểm chung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Các phương thức và hình thức nhập khẩu
Các điều kiện giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế
Điều kiện cơ sở giao hàng và giá mua hàng nhập khẩu
Điều kiện về tiền tệ
Điều kiện về thời gian thanh toán
Điều kiện về phương thức thanh toán.
YÊU CẦU QUẢN LÝ VÀ NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ
NHẬP KHẨU


Yêu cầu quản lý nghiệp vụ nhập khẩu
Nhiệm vụ của kế toán nhập khẩu trong các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu
KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU Ở CÁC ĐƠN VỊ KINH DOANH
XUẤT NHẬP KHẨU
Các quy định chung về kế toán nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá trong các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Kế toán nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá trong các đơn vị kinh doanh xuất
nhập khẩu
Chứng từ
Tài khoản sử dụng
Trình tự hạch toán
Trường hợp nhập khẩu trực tiếp
Trường hợp nhập khẩu uỷ thác
Sổ sách phản ánh
Hình thức sổ kế toán “Nhật ký chung”
Hình thức sổ kế toán “Nhật ký sổ cái”
Hình thức sổ kế toán “Chứng từ ghi sổ”
Hình thức sổ kế toán “Nhật ký chứng từ”
Hình thức kế toán trên máy vi tính



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM

ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ TỔ CHỨC
CÔNG TÁC KẾ TOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT
NAM

Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Bao bì Việt
Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Bao bì Việt Nam
Chức năng, nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh của Công ty Cổ phần Bao bì
Việt Nam
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty
Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại Công ty Cổ phần Bao bì Việt Nam
THỰC TRẠNG KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM
Kế toán nghiệp vụ nhập khẩu trực tiếp tại VPC
Chứng từ sử dụng
Tài khoản sử dụng
Trình tự hạch toán
Kế toán nghiệp vụ nhận nhập khẩu uỷ thác tại VPC
Chứng từ sử dụng
Tài khoản sử dụng
Trình tự hạch toán
2.2.4 Sổ sách phản ánh
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU
HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM
Những ưu điểm
Những điểm còn tồn tại



CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP
KHẢU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM



3.1 SỰ CẦN THIẾN PHẢI HOÀN THIỆN VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC
HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM
3.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán nghiệp vụ nhập khẩu tại Công ty Cổ
phần Bao bì Việt Nam
3.1.2 Yêu cầu của việc hoàn thiện kế toán nghiệp vụ nhập khẩu tại Công ty Cổ
phần Bao bì Việt Nam
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ
NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ VIỆT NAM
3.2.1 Nội dung hoàn thiện kế toán nghiệp vụ nhập khẩu
3.2.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán nghiệp vụ nhập khẩu tại Công ty
Cổ phần Bao bì Việt Nam
3.2.2.1 Hoàn thiện kế toán hàng tồn kho
3.2.2.2 Hoàn thiện công tác kiểm tra kế toán
3.2.2.3 Hoàn thiện công tác phân tích kinh tế doanh nghiệp
3.2.2.4 Hoàn thiện công tác kế toán hàng đi đường
3.2.2.5 Hoàn thiện công tác hạch toán ngoại tệ

KẾT LUẬN















LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ NHẬP KHẨU TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU

ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Vai trò của hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong cơ chế thị trường
Hoạt động nhập khẩu là một mặt của lĩnh vực ngoại thương, là sự trao đổi
giữa các quốc gia thông qua mua bán trên phạm vi toàn thế giới. Sự trao đổi này biểu
hiện mối quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị giữa những người, những đơn vị sản xuất
hàng hoá riêng lẻ, giữa các quốc gia với nhau. Nhập khẩu là một hoạt động quan
trọng của ngoại thương và cũng là một bộ phận của lưu thông hàng hoá, là cầu nối
giữa sản xuất và tiêu dùng trên phạm vi quốc tế. Hoạt động nhập khẩu tạo ra xu
hướng hợp tác hoá toàn cầu, các nước có điều kiện liên kết và hợp tác kinh tế với
nhau. Từ đó phát huy được thế mạnh và vận dụng được lợi thế của các nước khác
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế mỗi nước.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc
sản xuất nhưng không đáp ứng được đủ nhu cầu trong nước. Nhập khẩu còn để thay
thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi
bằng nhập khẩu. Nếu hai mặt nhập khẩu thay thế và nhập khẩu bổ sung được thực
hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, trong
đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động và
sức lao động. Với cách tác động đó ngoại thương trong đó nhập khẩu được coi là
phương pháp sản xuất gián tiếp, nhưng nó lại tác động một cách trực tiếp đến đời

sống và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Do đó, nhập khẩu đóng một vai
trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
 Đối với doanh nghiệp nói chung, nhập khẩu là nguồn cung cấp hàng hoá:
Nhập khẩu cung cấp mặt hàng kinh doanh trực tiếp cho doanh nghiệp thương mại.
Với doanh nghiệp sản xuất thì nhập khẩu để có đầu vào phục vụ sản xuất, đặc biệt là
nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, năng
suất lao động.
Nhập khẩu giúp doanh nghiệp có được mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất
được hoặc nếu sản xuất thì chi phí và giá thành một sản phẩm sẽ đắt hơn so với nhập
khẩu mặt hàng đó vào trong nước để bán. Từ đó doanh nghiệp thoả mãn được nhu
cầu tiêu dùng đa dạng của dân cư, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, mở rộng nền
kinh tế.
Nhập khẩu thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, qua đó
kích thích doanh nghiệp không ngừng sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm
kinh doanh hiệu quả hơn, tạo điều kiện nền kinh tế phát triển.
 Đối với toàn bộ nền kinh tế, nhập khẩu có vai trò:
Tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước (nhập khẩu máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ
tiên tiến)
Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát
triển cân đối và ổn định.
Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân: góp phần thoả
mãn một cách đầy đủ nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo
đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Nhập khẩu thúc đẩy tích cực đến xuất khẩu, nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất
hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước
ngoài.
Ngoại thương là một ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, nhận
thức rõ ràng vai trò quan trọng của ngoại thương trong đó có hoạt động nhập khẩu
nên Nhà nước ta hiện nay rất chú trọng trong việc quản lý các hoạt động này. Đặt

trong xu hướng toàn cầu hoá thì nhập khẩu sẽ giúp mở rộng quan hệ hợp tác giữa các
nước trong khu vực và trên thế giới. Mỗi quốc gia có thể tranh thủ lợi thế so sánh của
mình để thực hiện cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu nhằm tối đa hoá lợi ích, đạt
mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.
Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu ở nước ta trong mấy năm gần
đây
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng không có một quốc gia
nào có thể phát triển nhanh được nếu thực hiện chính sách “đóng cửa”, tự cấp tự túc.
Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều là những nước biết dựa
vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, biết sử dụng những
thành tựu của cuộc sống, của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ để hiện đại hoá
nền sản xuất, biết khai thác các nguồn lực bên ngoài để phát huy nguồn lực trong
nước. Hoạt động đối ngoại trong đó là hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng có vị trí
quan trọng hơn trong nền kinh tế.
Đặc biệt, nước ta hiện vẫn đang là một nước đang phát triển, nền kinh tế thị
trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế trên thế
giới như APEC, AFTA, và gần đây nhất là tham gia vào tổ chức thương mại thế giới
WTO - một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của kinh tế Việt Nam, đã thúc đẩy
hoạt động ngoại thương trong đó có hoạt động nhập khẩu phát triển mạnh mẽ với
những chuyển biến to lớn.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong quá trình đổi mới tập trung vào
giai đoạn 1996 – 2004 đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhập khẩu đã đảm bảo
được nhu cầu thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu tiêu dùng thiết yếu cho phát triển
kinh tế. Hàng hoá phong phú đa dạng, giá cả ổn định đáp ứng mọi yêu cầu cảu sản
xuất và tiêu dùng. Những kết quả chủ yếu mà hoạt động nhập khẩu đạt được trong
những năm gần đây:
+ Máy móc thiết bị tăng tương đối (năm 1991 tỷ trọng nhập máy móc thiết bị
chiếm 21,8% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 1999 lên 28%, năm 2001 lên 30,5% và
năm 2004 là 32,2%)
+ Hàng tiêu dùng giảm tương đối (năm 1991 tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu

dùng chiếm 13,9% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 1997 xuống khoảng 9%, năm
1998 xuống còn khoảng 6% và năm 2004 là 6,3%)
+ Nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất luôn luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, hàng
năm đều ở mức tren 60,5% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Nhập siêu năm 1998 ở mức 23,1% kim ngạch xuất khẩu, năm 1999 cán cân
thương mại đã cân bằng, năm 2001 nhập siêu khoảng 1135 triệu USD, chiếm khoảng
7,5% kim ngạch xuất khẩu và năm 2004 nhập siêu là 5520 triệu USD.
Sự thay đổi cơ cấu hàng nhập khẩu như trên cho thấy việc quản lý và chỉ đạo
hoạt động nhập khẩu đã và đang đi đúng hướng, tăng nhập khẩu máy móc, thiết bị,
công nghệ nhằm thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá; giữ tỷ trọng
nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu cao để phát triển sản xuất và giảm dần tỷ trọng nhập
khẩu hàng tiêu dùng, hạn chế dần mức nhập siêu góp phần lành mạnh hoá cán cân
thương mại, mặt khác cũng cho thấy khả năng tự đáp ứng hàng tiêu dùng công
nghiệp sản xuất từ trong nước có tiến bộ.
Về thị trường nhập khẩu: gần 80% kim ngạch nhập khẩu từ các nước Châu Á
(trong đó 28 -30% từ các nước ASEAN). Trong khối ASEAN, thị trường nhập khẩu
chính là Singapore (năm 2001 tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu là 15,42%).
Trong các nước Châu Á ngoài khối ASEAN, các thị trường nhập khẩu chính là Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc (với tỷ trọng từ 10 – 13%). Thị trường các
nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Đại Dương có tỷ trọng thấp, các nước có kim ngạch
cao cũng chỉ ở mức trên dưới 2%. Tỷ trọng về thị trường nhập khẩu này đã hạn chế
việc nhập khẩu các thiết bị công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp có nền công
nghệ nguồn, phần nào ảnh hưởng tới việc thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
(Theo Tạp chí khoa học thương mại - Trường ĐH Thương Mại)
Cơ chế chính sách nhập khẩu : Cơ chế chính sách nhập khẩu trong những năm
qua đã cá nhiều cải tiến thông thoáng hơn. Nhà nước đã cải cách ban hành nhiều
chính sách, giảm thiểu nhiều thủ tục khi tham gia nhập khẩu.
- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP quy định chi tiết việc thi hành luật thương mại
về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài.

- Nghị định số 33/CP ngày 19-4-1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động
xuất nhập khẩu.
- Các đơn vị tham gia nhập khẩu: hoạt động nhập khẩu trước đây chỉ tập trung
vào một số doanh nghiệp nhà nước. Tất cả các mặt hàng nhập khẩu đều phải có giấy
phép của Bộ Thương Mại. Hiện nay hoạt động này đã mở rộng dần cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thương nhân được chủ động nhập khẩu hầu hết
các loại hàng hoá, phải làm thủ tục hải quan khi nhập khẩu trừ một số mặt hàng thuộc
danh mục hàng cấm nhập khẩu hoặc nhập khẩu có điều kiện.
Một số tồn tại trong hoạt động nhập khẩu: Mặc dù chính phủ đã có nhiều cải
cách nhằm tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu thuận lợi, thúc đẩy nhanh tiến trình
gia nhập WTO nhưng hoạt động nhập khẩu vẫn còn một số hạn chế:
- Thuế nhập khẩu một số mặt hàng quá cao làm cho giá cả một số loại hàng
hoá trong nước tăng vọt, ví dụ thuế nhập khẩu ô tô cũ là 150%.
- Nhiều chính sách thủ tục nhập khẩu còn rườm rà phức tạp, hạn chế các doanh
nghiệp đầu tư vốn và công nghệ.
Tóm lại, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng
trong nền kinh tế thị trường có nhiều thông thoáng hơn và ngày càng chiếm một vị trí
quan trọng. Tuy nhiên, đây là một hoạt động phức tạp liên quan đến kinh tế - văn hoá
- chính trị giữa các quốc gia nên phải thường xuyên chịu sự quản lý chi phối của
chính sách pháp luật nhà nước để đảm bảo cho nền kinh tế cũng như văn hoá xã
chính trị trong nước phát triển ổn định.

Đặc điểm nghiệp vụ nhập khẩu trong doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu
Đặc điểm chung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh tế tương đối tổng hợp, phức tạp về quy
trình và đa dạng về hình thức. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu
được nhà nước cho phép kinh doanh mua bán hàng hoá với nước ngoài dựa trên cơ sở
các hợp đồng kinh tế, các hiệp định, các hiệp định thư mà chính phủ đã ký với nước
ngoài, giao cho doanh nghiệp thực hiện. Việc thanh toán mua bán hàng hoá với các

đối tác nước ngoài dựa trên các điều kiện thanh toán quốc tế đã được các bên thoả
thuận trong hợp đồng kinh tế hoặc nghị định thư.
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường như hiện nay, các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá phải chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố như: chế độ quản lý của Nhà nước về nhập khẩu, chế độ hạch toán kinh doanh,
chính sách ngoại thương cũng như quan hệ ngoại giao trong mỗi thời kỳ. Do đó cũng
có những thuận lợi và bất lợi trong hoạt động nhập khẩu mà doanh nghiệp phải chấp
nhận.
Hoạt động nhập khẩu có hai giai đoạn chính là giai đoạn mua hàng nhập khẩu
và giai đoạn bán hàng nhập khẩu. Hai giai đoạn này có liên quan mật thiết đến nhau,
nếu việc nhập hàng được thực hiện đầy đủ, kịp thời thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiêu thụ hàng nhập khẩu nhanh chóng, và mang lại kết quả kinh doanh cao nhất.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu phải có giấy phép xuất nhập khẩu, phải thông
qua các hợp đồng kinh tế, hoặc các hiệp định, các nghị định thư.
*Đối tượng nhập khẩu:
Đối tượng nhập khẩu là các loại hàng hoá phù hợp với ngành nghề ghi trong
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trừ những mặt hàng thuộc danh mục hàng hoá
cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng nhập khẩu. Hàng hoá nhập khẩu là những hàng hoá
mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng lẫn
chất lượng, đặc biệt là các trang thiết bị, máy móc, vật tư kỹ thuật, công nghệ hiện đại
còn nhiều yếu kém.
Bên cạnh những mặt hàng doanh nghiệp được tự do nhập khẩu còn có những
mặt hàng nhập khẩu có điều kiện hoặc tạm ngừng nhập khẩu. Hàng hoá nhập khẩu có
điều kiện là những hàng hoá nhập khẩu theo hạn ngạch hoặc theo giấy phép của Bộ
thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành.
*Những đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu
- Lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu theo một chu kỳ khép kín bao gồm hai
giai đoạn:
+ Thu mua hàng hoá nhập khẩu.
+ Tiêu thụ hàng nhập khẩu.

Từ đặc điểm đó làm cho thời gian thực hiện các giai đoạn lưu chuyển hàng hoá
trong các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu thường dài hơn các đơn vị kinh doanh
hàng hoá trong nước.
- Kinh doanh nhập khẩu có thị trường đầu vào rộng lớn không hạn chế, chịu sự
ảnh hưởng của sản xuất trong nước cũng như của khu vực và quốc tế.
- Do người mua và người bán ở các quốc gia khác nhau nên có những phong
tục tập quán khác nhau, ngôn ngữ khác nhau và chính sách ngoại thương khác nhau.
- Đồng tiền trong thanh toán kinh doanh xuất nhập khẩu là đồng ngoại tệ do
thoả thuận của hai bên đối tác, thường là các ngoại tệ mạnh như USD, Yên Nhật,
EUR…Giá nhập khẩu được tính chủ yếu theo giá CIF hoặc giá FOB.
- Do cách biệt về địa lý, phương tiện chuyên chở, điều kiện giao hàng, điều
kiện thanh toán, thời gian giao hàng và thời gian thanh toán không trùng nhau… làm
ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình kinh doanh nhập khẩu.
Tất cả những đặc điểm trên đã tạo ra những nét đặc thù và sự phức tạp trong
quản lý cũng như kế toán nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu.
Các phương thức và hình thức nhập khẩu
Phương thức và hình thức nhập khẩu là các nhân tố quan trọng, khi các đơn vị
tiến hành nhập khẩu phải nghiên cứu kỹ các vấn đề này nhằm đảm bảo lợi ích tối đa
và phù hợp với chính sách Nhà nước ban hành.
*Các phương thức nhập khẩu
Theo quy định hiện nay, có 2 phương thức nhập khẩu:
- Nhập khẩu theo Nghị định thư: Đây là phương thức nhập khẩu quy định cụ
thể mặt hàng nhập khẩu, số lượng bao nhiêu, giá cả thế nào, nhập khẩu của nước nào.
Các doanh nghiệp khi tham gia nhập khẩu theo phương thức này không có quyền
đàm phán ký kết mà chỉ tiến hành nhập theo chỉ tiêu của Nhà nước.
Hiện nay phương thức này hầu như không được sử dụng vì trong cơ chế thị
trường, các doanh nghiệp tự hạch toán và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh
doanh của mình.
- Nhập khẩu ngoài Nghị định thư: Theo phương thức nhập khẩu này, các đơn
vị nhập khẩu được tự do đàm phán ký kết hợp đồng. Được lựa chọn bạn hàng, mặt

hàng, giá cả, khối lượng… tuỳ thuộc vào khả năng của đơn vị. Tất nhiên các mặt
hàng nhập khẩu cũng phải thuộc danh mục các mặt hàng được phép nhập khẩu. Như
vậy theo phương thức này các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động và chịu trách nhiệm
về hoạt động nhập khẩu của mình.
Hiện nay ở nước ta hầu hết là nhập khẩu theo phương thức này. Tất cả các cá
nhân, đơn vị, doanh nghiệp có giấy phép nhập khẩu đều có thể tiến hành hoạt động
nhập khẩu.
*Các hình thức nhập khẩu: cả hai phương thức nhập khẩu trên đều có thể tiến
hành theo một trong hai hình thức nhập khẩu sau:
- Nhập khẩu trực tiếp
Là hình thức mà các doanh nghiệp khi có giấy phép nhập khẩu của Bộ Thương
mại sẽ trực tiếp tiến hành hoạt động nhập khẩu của mình. Doanh nghiệp sẽ tham gia
đàm phán ký kết, thoả thuận giá cả mẫu mã, lựa chọn bạn hàng nhập khẩu sao cho có
lợi nhất.
Nhập khẩu trực tiếp giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt thông tin thị trường một
cách nhanh chóng, chính xác và kịp thời, có cơ hội cho doanh nghiệp tham gia thị
trường thế giới. Khi đó doanh nghiệp không phải uỷ thác nên lợi nhuận không bị san
sẻ.
Các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp thường là các doanh nghiệp Nhà nước,
doanh nghiệp lớn có đủ trình độ chuyên môn về thị trường nước ngoài cũng như
những kinh nghiệm về hoạt động nhập khẩu.
- Nhập khẩu uỷ thác
Là hình thức mà các doanh nghiệp có giấy phép nhập khẩu hàng hóa nhưng
chưa có đủ năng lực và kinh nghiệm để tự nhập khẩu mà phải nhờ một đơn vị khác
nhập khẩu hộ trên cơ sở các điều kiện ràng buộc liên quan đến hàng nhập khẩu và sẽ
phải trả cho đơn vị nhập khẩu hộ đó một khoản phí nhất định.
Những doanh nghiệp nhập khẩu uỷ thác thường là những doanh nghiệp nhỏ,
trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm nhập khẩu chưa cao, cũng có khi là khối lượng hàng
nhập ít.
Nhìn chung, việc lựa chọn hình thức nhập khẩu nào là phụ thuộc vào từng

doanh nghiệp, từng mặt hàng hay thị trường nhập khẩu. Trường hợp nhập khẩu nào
có lợi nhất cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ thực hiện theo hình thức đó.
Các điều kiện giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế
Điều kiện cơ sở giao hàng và giá mua hàng nhập khẩu
Điều kiện cơ sở giao hàng
Trong thương mại quốc tế, nghĩa vụ cơ bản của bên bán là giao hàng và chứng
từ phù hợp, nghĩa vụ tương ứng của bên mua là nhận hàng và thanh toán tiền hàng.
Trong quá trình giao nhận hàng hoá, việc vạch ra những gì liên quan tới rủi ro, trách
nhiệm và chi phí cũng là một nội dung quan trọng mà 2 bên cần phải làm rõ khi đàm
phán và ký kết hợp đồng, vì đó là những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến giá cả
hàng hoá. Những vấn đề đó chính là nội dung của điều kiện cơ sở giao hàng, trong đó
quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hoá giữa bên bán
với bên mua. Những cơ sở đó là:
- Sự phân chia giữa bên bán và bên mua các trách nhiệm tiến hành việc giao
nhận hàng hoá như: thuê phương tiện vận tải, bốc xếp hàng, mua bảo hiểm, khai hải
quan, nộp thuế xuất - nhập khẩu.
- Sự phân chia giữa hai bên các chi phí về giao hàng như: chi phí chuyên chở
hàng, bốc và dỡ hàng hoá, chi phí bảo hiểm, tiền thuế…
- Sự di chuyển từ người bán sang người mua những rủi ro về tổn thất hàng hoá.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng ngoại thương, có rất nhiều các điều
kiện giao dịch để tiến hành xuất - nhập khẩu hàng hoá mà 2 bên đối tác có thể thoả
thuận cùng nhau. Với các điều kiện pháp lý cũng như điều kiện nền kinh tế Việt Nam
hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước thường áp dụng 2
điều kiện chủ yếu là CIF và FOB trong các hợp đồng ngoại thương.
 Theo điều kiện FOB(Free On Board – Giao lên tàu)
Người bán phải:
Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu (nếu cần)
tức là làm thủ tục thông quan xuất khẩu.
Giao hàng qua hẳn lan can tàu tại cảng bốc hàng quy định.
Cung cấp chứng từ vận tải hoàn hảo chứng minh hàng đã được

bốc lên tàTK.
Chịu chi phí bốc hàng lên tàu theo tập quán của cảng nếu nó chưa
nằm trong tiền cước.
Người mua phải:
Ký kết hợp đồng chuyên chở và trả trước.
Lấy vận đơn.
Trả chi phí bốc hàng nếu chi phí này được tính trong tiền cước.
Chi trả chi phí dỡ hàng.
Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hoá kể từ khi hàng đã qua hẳn
lan can tàu ở cảng bốc hàng.
Điều kiện này chỉ sử dụng cho vận tải đường biển hay đường thuỷ nội địa.
 Theo điều kiện CIF (Cost Insurance Freight)
Người bán phải:
Ký kết hợp đồng chuyên chở đường biển để chở hàng tới cảng
đích.
Lấy giấy phép XK, nộp thuế và lệ phí XK (nếu cần), tức là làm
thủ tục thông quan XK
Giao hàng qua hẳn lan can tàu tại cảng bốc hàng quy định.
Ký kết hợp đồng bảo hiểm cho hàng hoá theo mức bảo hiểm “tối
thiểu” với trị giá bảo hiểm bằng giá CIF + 10%CIF. Nếu người mua muốn được bảo
hiểm với phạm vi rộng hơn, người mua cần thoả thuận rõ ràng với người bán hoặc tự
mình mua bảo hiểm thêm.
Cung cấp cho người mua hoá đơn, vận đơn hoàn hảo và đơn (giấy
chứng nhận) bảo hiểm.
Chi trả chi phí bốc hàng lên tàu.
Chi trả chi phí dỡ hàng nếu đã nằm trong tiền cước.
Người mua phải:
Nhận hàng khi hoá đơn, đơn (giấy chứng nhận) bảo hiểm, vận đơn
được giao cho mình.
Chi trả chi phí dỡ hàng nếu chưa nằm trong tiền cước.

Chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hoá kể từ khi đã qua hẳn lan
can tàu ở cảng bốc hàng.
Điều kiện này chỉ áp dụng cho vận tải đường biển và đường thuỷ nội địa.
Điều kiện giá cả hàng nhập khẩu
Xuất phát từ điều kiện cơ sở giao hàng khác nhau, giá mua hàng nhập khẩu
cũng được xác định thưo các loại giá khác nhau:
Giá cố định (Fixed Price): là giá cả được quy định vào lúc ký kết hợp đồng và
không được sửa đổi nếu không có sự thoả thuận khác (phổ biến nhất).
Giá quy định sau: là giá cả không được quy định ngay khi ký kết hợp đồng
mua bán mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp đồng
người ta chỉ thoả thuận với nhau một thời điểm nào đó và những nguyên tắc nào đó
để dựa vào đó 2 bên sẽ gặp nhau xác định giá cả.
Giá linh hoạt (Flexible Price): là giá cả đã được xác định tại thời điểm kí kết
hợp đồng và có thể được xem xét lại sau này nếu tại thời điểm giao hàng và thanh
toán tiền hàng, giá cả hàng hoá biến động tới một mức nhất định.
Giá cả di động (Sliding Scale Price): là giá cả có thể được xác định tại thời
điểm ký kết hợp đồng, và được gọi là giá tạm tính ban đầu. Nhưng giá thanh toán
cuối cùng của lô hàng phải là giá được xác định dựa trên giá tạm tính ban đầu kết hợp
với sự biến động của các yếu tố cấu thành nên giá.
Điều kiện về tiền tệ
Điều kiện tiền tệ thường được hiểu là sự thoả thuận của các bên xuất nhập
khẩu việc sử dụng loại tiền nào để tính toán và thanh toán. Đồng thời quy định cách
xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động. Có nhiều loại tiền tệ trong thanh toán quốc tế
mà tuỳ theo từng tiêu thức phân loại tiền tệ mà ta có những loại khác nhau như:
Căn cứ vào phạm vi sử dụng có: tiền tệ thế giới (vàng), tiền tệ quốc tế (đồng
SDR, hay đồng EUR) và tiền tệ quốc gia (đồng USD của Mỹ, Đồng Bảng Anh GBP,
VND của Việt Nam…).
- Căn cứ vào tính chất mạnh yếu có: đồng tiền mạnh (có khả năng chuyển đổi
cao trong các giao dịch quốc tế) và đồng tiền yếu (khả năng chuyển đổi kém).
Căn cứ vào hình thức tồn tại có: tiền mặt (tiền giấy hay tiền kim loại), tiền tín

dụng (tài khoản hay tiền ghi sổ, tồn tại dưới hình thức hối phiếu, séc, T/T…)
Căn cứ vào mục đích sử dụng có: tiền tính toán và tiền thanh toán
Trong các giao dịch ngoại thương, do sự khác biệt về nền kinh tế và tài chính
tiền tệ, nên các bên thường thoả thuận và sử dụng các tiền tính dụng là các đồng tiền
mạnh để thuận lợi trong các giao dịch.
Trong điều kiện lạm phát và chính sách thả nổi tiền tệ phổ biến như hiện nay,
sự biến động sức mua của các đồng tiền sẽ không còn là hiện tượng cá biệt. Do vậy,
sự xuất hiện rủi ro đối với các khoản thu chi bằng ngoại tệ từ các hoạt động buôn bán
quốc tế là không thể tránh khỏi. Từ thực tiễn đó, các chủ thể tham gia hoạt động
ngoại thương thường tìm kiếm, thoả thuận các cách thức khác nhau để hạn chế, giảm
thiểu rủi ro do những biến động về giá trị tiền tệ xảy ra đối với các khoản thu chi
quốc tế của họ. Đó là những điều kiện đảm bảo hối đoái.
Điều kiện đảm bảo hối đoái là các quy định về cách thức xử lý khi sức mua
của tiền tệ thay đổi nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi kinh tế giữa các bên
tham gia trong hợp đồng ngoại thương, bảo đảm giá trị thực tế của các khoản thu chi
quốc tế. Có thể kể đến một số hình thức đảm bảo hối đoái sau:
Điều kiện đảm bảo theo vàng: vàng được dùng làm cơ sở đảm bảo cho các
khoản thu chi quốc tế.
Điều kiện đảm bảo ngoại hối: là điều kiện đảm bảo cho giá trị của đồng tiền
thanh toán bằng một đồng tiền khác có sức mua ổn định hơn.
 Điều kiện đảm bảo theo “Rổ tiền tệ”: hai bên xuất nhập khẩu thoả thuận dùng
một số đồng tiền tập hợp lại tạo thành một “rổ tiền”. Dùng giá trị của rổ tiền để đảm
bảo cho giá trị của hợp đồng mua bán. Như vậy, khi giá trị của những đồng tiền tham
gia “rổ tiền” thay đổi, sẽ làm cho cả rổ thay đổi và do vậy phải điều chỉnh lại toàn bộ
giá trị của hợp đồng.
 Điều kiện đảm bảo căn cứ vào tiền tệ quốc tế: các bên xuất nhập khẩu thoả
thuận tổng giá trị hợp đồng được tính toán và thanh toán bằng một loại ngoại tệ nào
đó, đồng thời chọn SDR (hay đồng EUR) làm tiền tệ bảo đảm đồng tiền của hợp
đồng. Tổng giá trị của hợp đồng sẽ được điều chỉnh căn cứ vào mức chênh lệch giữa
tỷ giá của đồng SDR (hay EUR) với đồng tiền hợp đồng vào ngày thanh toán so với

ngày ký hợp đồng.
 Điều kiện đảm bảo căn cứ vào sự biến động của giá cả: Điều kiện đảm bảo
bằng vàng và ngoại hối không thể đảm bảo giá trị thực tế của đồng tiền thu về trong
tình hình tỷ giá và hàm lượng vàng quy định một cách giả tạo. Vì vậy để đảm bảo giá
trị thực tế của đồng tiền thanh toán, trong hợp đồng còn có thể dùng hai cách quy
định điều kiện đảm bảo sau đây:
 Số tiền phải trả căn cứ vào tình hình biến động của chỉ số giá cả mà thay đổi
một cách tương ứng. Trong ngoại thương ít dùng cách này bởi chỉ số giá cả
thay đổi không bao giờ phản ánh đầy đủ và chính xác sự biến động tiền tệ, do
đó có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của giá cả, trong đó tiền chỉ là
một.
 Số tiền phải trả căn cứ vào sự biến động giá của chính hàng hoá đó trên thị
trường, hay giá thành sản xuất loại hàng hoá đó. Trong tình hình lạm phát tiền
tệ thường xuyên và phổ biến, điều kiện này là điều kiện đảm bảo quyền lợi của
người xuất khẩu, đặc biệt trong việc ký kết hợp đồng dài hạn, nhưng không có
lợi cho nhà nhập khẩu.
Điều kiện về thời gian thanh toán
Trong kinh doanh, vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần quyết định
uy tín, vị thế và hiệu quả kinh doanh. Chu chuyển vốn nhanh đồng nghĩa với việc
tránh được ứ đọng vốn, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy, trong thanh
toán nội thương cũng như ngoại thương, điều kiện về thời gian thanh toán được các
bên rất coi trọng.
Thường có hai thái cực đối nhau trong kinh doanh: người xuất khẩu muốn tìm
kiếm những phương thức chi trả sao cho thu tiền càng nhanh càng tốt, còn đối với
người nhập khẩu thì ngược lại, thời gian chi trả càng kéo dài, chậm trả… thời gian
chiếm dụng vốn càng lớn thì càng có lợi cho nhà nhập khẩu. Do đó, thời gian thanh
toán không tách rời với cách trả tiền. Trong thương mại quốc tế, thường có 3 hình
thức thanh toán sau:
 Trả tiền trước – Advanced Payment
Trả tiền trước là sau khi ký hợp đồng, hoặc sau khi bên xuất khẩu chấp nhận

đơn đặt hàng của bên nhập khẩu, nhưng trước khi giao hàng thì bên nhập khẩu đã trả
cho bên xuất khẩu toàn bộ, hay một phần số tiền hàng.
Trả tiền trước thực chất là nhà nhập khẩu đã cấp tín dụng ngắn hạn chi nhà
xuất khẩu. Nếu việc trả trước được thực hiện với mục đích hỗ trợ về mặt tài chính
cho nhà xuất khẩu, để nhà xuất khẩu có điều kiện chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu thì
thời gian trả trước này tương đối dài và số tiền trả trước tương đối lớn. Còn nếu việc
trả trước với mục đích nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu thì
thời gian trả trước thường ngắn hơn và số tiền trả trước nhỏ hơn.
 Trả tiền ngay
Trong buôn bán quốc tế, có nhiều cách giao hàng khác nhau, vì vậy trả tiền
ngay được chia ra thành các loại sau:
Người mua trả tiền cho người bán ngay sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng cho người vận tải tại nơi giao hàng chỉ định (Cash on Delivery – COD)
 Người mua trả tiền cho người bán ngay sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng trên phương tiện phận tải tại nơi giao hàng quy định.
 Sau khi hoàn thành việc giao hàng, người bán hoàn tất bộ chứng từ thanh toán
và chuyển đến cho người mua, người mua trả tiền ngay sau khi nhận bộ chứng từ.
Người mua trả tiền cho người bán ngay sau khi nhận xong hàng hoá tại nơi quy
định hoặc cảng đến (Cash on Receipt – COR)
 Trả tiền sau – Deferred Payment
Với cách trả tiền này thì sau một thời gian nào đó kể từ khi người xuất khẩu
hoàn thành nghĩa vị giao hàng (như 2 bên đã thoả thuận), người nhập khẩu sẽ tiến
hành thanh toán. Đây thực chất là hình thức cấp tín dụng của người xuất khẩu cho
người nhập khẩu. Vì vậy, giá cả hàng hoá trong trường hợp này thường lớn hơn giá
cả hàng hoá trong trường hợp trả tiền ngay. Đây chính là số tiền lãi mà người mua trả
cho người bán do được thanh toán chậm.
Điều kiện về phương thức thanh toán.
Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng và có tính tổng hợp nhất trong
các điều kiện thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế trong ngoại thương
lại càng quan trọng và phức tạp. Trong buôn bán, người ta có thể chọn lựa nhiều

phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về, hoặc để trả tiền, nhưng xét cho
cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là
thu tiền nhanh, đúng, đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng,
chất lượng và đúng hạn. Có thể kể tới một số phương thức thanh toán sau:
 Phương thức chuyển tiền (Remittance transfer)
Là phương thức trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của
mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm
nhất định, bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Quy trình thanh toán:
Giao dịch thương mại

Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với uỷ nhiệm chi
(nếu có tài khoản mở tại ngân hàng)
Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi.
NGÂN HÀNG
CHUYỂN TIỀN
NGÂN HÀNG
ĐẠI LÝ
NGƯỜI CHUYỂN
TIỀN
NGƯỜI
HƯỞNG LỢI
(3)
(1)
(2) (4)
Trong phương thức chuyển tiền, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian, việc
chuyển tiền hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí, sự chủ động và khả năng của người
chuyển tiền, nên quyền lợi cảu bên thụ hưởng không được đảm bảo.
Trường hợp áp dụng:
Thanh toán các chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá.

Ứng trước tiền hàn, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng.
Chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư, hoặc chi tiêu phi mậu dịch.
Chuyển kiều hối.
 Phương thức ghi sổ - Open Account
Là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng thì mở tài khoản (sổ) để theo dõi nợ đối với người mua. Đến định kỳ thanh
toán mà hai bên thoả thuận, người mua phát hành séc hoặc giấy đề nghị chuyển tiền
để chuyển trả người bán.
Trong phương thức này không có sự tham gia của ngân hàng trong từng lần
giao hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán.
Quy trình thanh toán
Người bán giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá cho bên
mua.
Người bán báo nợ trực tiếp cho người mua.

Đến định kỳ thanh toán, người mua phát hành séc hoặc giấy chứng nhận
chuyển tiền để trả tiền người bán thông qua ngân hàng.
Trường hợp áp dụng:
Hai bên mua bán phải thực sự tin cậy lẫn nhau.
NGÂN HÀNG
BEN BÁN
NGÂN HÀNG
BÊN MUA
BÊN BÁN BÊN MUA
(3)
(3)
(1)
(2)
(3)
Thanh toán tiền hàng trong trường hợp là đại lý bán, mua bán hàng đổi hàng,

nhiều lần, thường xuyên trong một thời kỳ nhất định.
Thanh toán phi mậu dịch như: chi phí vận tải, phí bảo hểm, tiền hoa hồng trong
nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, lãi cho vay và đầu tư…
 Phương thức nhờ thu – Collection of payment
Là một phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó chi khách hàng thì uỷ thác chi
ngân hàng của mình, thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán
lập ra.
Phương thức này thường được sử dụng ở một mức độ đáng kể trong thanh toán
quốc tê, gồm hai loại: nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
 Nhờ thu phiêu trơn – Clean collection (thu không kèm chứng từ)
Là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền
ở người mua chỉ căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ hàng hoá thì gửi
thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
Quy trình thanh toán:
Người bán gửi hàng và chứng từ hàng hoá cho người mua.
Người bán ký phát hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng
nước mình đòi tiền họ theo hối phiếu.
Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu sang ngân hàng đại lý của mình
ở nước người mua.
Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là hối phiếu trả
tiền ngay), hoặc chấp nhận hối phiếu (nếu mua chịu).
Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán.



Trường hợp áp dụng:
Người bán và người mua phải tin cậy lẫn nhau, hoặc có quan hệ liên doanh với
nhau, hoặc thanh toán giữa công ty mẹ với công ty con, hoặc là chi nhánh của nhau.
Thanh toán các dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá.

Thanh toán hàng xuất khẩu có giá trị nhỏ, hàng ứ đọng khó tiêu thụ.
 Nhờ thu kèm chứng từ - Document collection
Là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác chi ngân hàng thu hộ tiền
ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu, mà còn căn cứ vào bộ chứng từ
hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền, hoặc chấp nhận hối
phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng hoá cho người mua để nhận hàng.
Quy trình thanh toán:








(1) Căn cứ vào hợp đồng xuất khẩu, bên bán gửi toàn bộ hàng hoá cho bên mua.
(2) Người bán lập thư uỷ thác nhờ thu cùng với hối phiếu và bộ chứng từ hàng hoá
gửi tới ngân hàng phục vụ người bán.
BÊN BÁN
BÊN MUA
(1)
(2) (5)
NH PHỤC VỤ
BÊN BÁN
(5
(3
NGÂN HÀNG
ĐẠI LÝ
(4) (5)
NH PHỤC VỤ

BÊN BÁN
NGƯỜI MUA
NH PHỤC VỤ
BÊN MUA
(5)
NGƯỜI BÁN
(3)
(1)
(5) (4) (5) (2)
(3) Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu và chứng từ hàng hoá cho ngân
hàng phục vụ bên mua.
(4) Ngân hàng phục vụ bên mua thông báo chứng từ đã đến, chi khi bên mua thanh
toán hoặc chấp nhận thanh toán thì ngân hàng mới chuyển bộ chứng từ cho
bên mua để đi nhận hàng.
(5) Bên mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho bên bán thông qua ngân
hàng bên mua và ngân hàng phục vụ bên bán.
 Phương thức tín dụng chứng từ - Document credit
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng – L/C) theo yêu cầu của một khách hàng (người đề nghị
mở thư tín dụng), sẽ trả một số tiền nhất định chi một người khác (người hưởng lợi số
tiền của thư tín dụng), hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi
số tiền đó, khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù
hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Đây là phương thức thanh toán
được áp dụng phổ biến nhất hiện nay.
Quy trình thanh toán:

Căn cứ vào hợp đồng XNK, người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi tới ngân
hàng mở L/C, yêu cầu ngân hàng này mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng.
Căn cứ vào giấy xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và chuyển chi
ngân hàng thông báo L/C.

Ngân hàng thông báo L/C thông báo cho người xuất khẩu biết về L/C.
NGÂN HÀNG
MỞ L/C
NGÂN HÀNG
THÔNG BÁO L/C
NGƯÒI XUẤT
KHẨU
NGƯỜI NHẬP
KHẨU
(1) (7) (8)
(2)
(5)
(6)
(6) (5) (3)
(4)
Người xuất khẩu kiểm tra L/C, nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng cho
bên nhập khẩu, nếu không chấp nhận thì thông báo ngay cho bên nhập khẩu lý do
không chấp nhận, đề nghị sửa đổi, bổ sung.
Sau khi giao hàng, bên bán phải hoàn tất bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu
của L/C xuất trình cho ngân hàng mở L/C, thông qua ngân hàng thông báo xin thanh
toán.
Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp thì tiến
hành trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc chấp nhận hối phiếu (đối với hói phiếu có kỳ
hạn); nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán (từ chối chấp nhận) và
gửi trả bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
Qua quy trình thanh toán ta có thể thấy đây là một phương thức thanh toán rất chặt
chẽ về mặt thủ tục và đảm bảo chắc chắn quyền lợi của người xuất khẩu, tuy vậy nó
lại đem lại nhiều bất lợi cho người nhập khẩu (ứ đọng vốn trong quá trình ký quỹ mở
L/C)
YÊU CẦU QUẢN LÝ VÀ NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ

NHẬP KHẨU
Yêu cầu quản lý của kế toán nghiệp vụ nhập khẩu
Kế toán là một trong những công cụ quản lý kinh tế. Nó phản ánh và kiểm tra
toàn bộ tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện kế hoạch đề ra của doanh
nghiệp. Thông tin do kế toán đem lại phản ánh đầy đủ, chính xác kịp thời và nhờ
thông tin này người quản lý sẽ có những biện pháp đúng đắn để chỉ đạo công việc
một cách tốt nhất cũng như vạch ra kế hoạch sản xuất kinh doanh cho kỳ tới.
Trong hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng,
các hoạt động kế toán giúp cho nhà quản lý quản lý tốt nhất quá trình nhập khẩu từ
khâu mua vào, bán ra và thu tiền hàng. Kế toán cung cấp các thông tin xác định và
đánh giá được kết quả kinh doanh của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng
hoá ở doanh nghiệp. Kế toán không chỉ giúp các nhà quản lý nắm bắt được toàn bộ
quá trình nhập khẩu mà còn giúp họ quản lý được từng nghiệp vụ nhập khẩu; đồng
thời kế toán góp phần quản lý nguồn tài chính của doanh nghiệp, xác định tình hình
thanh toán công nợ cũng như quản lý kiểm soát được nguồn ngoại tệ của doanh
nghiệp.
Qua một số yêu cầu cơ bản của việc quản lý hoạt động nhập khẩu như:
- Người kinh doanh nhập khẩu cần phải trả lời các câu hỏi: nhập cái gì? số
lượng bao nhiêu? Dung lượng thị trường của hàng hoá đó? Sự biến động cung cầu
hàng hoá đó trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới? Trả lời chính xác
các câu hỏi đó giúp cho người kinh doanh nhập khẩu có được phương án kinh doanh
hiệu quả nhất.
- Người kinh doanh nhập khẩu phải am hiểu về luật pháp và các thông lệ quốc
tế cũng như nắm vững những nghiệp vụ về kinh doanh nhập khẩu để tránh những
thiệt hại trong kinh doanh nhập khẩu.
- Một điểm mà hoạt động kinh doanh này khác với các hoạt động kinh doanh
trong nước là nghiệp vụ nhập khẩu có quan hệ thanh toán với đối tác bằng ngoại tệ.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế này khá phức tạp và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự
biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại tệ. Vì lý do đó người kinh doanh
nhập khẩu cần phải am hiểu về thị trường ngoại hối để tránh thua thiệt trong quan hệ

thanh toán với bạn hàng.
Như vậy, nhập khẩu là một hoạt động rất phức tạp về quy trình, đa dạng về
hình thức. Do đó các nhà quản lý phải sử dụng tốt công cụ kế toán nhằm đưa ra quyết
định đúng đắn, phù hợp để từ đó góp phần giúp cho toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp đúng hướng và có hiệu quả cao. Vì vậy kế toán hoạt động nhập khẩu phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
Thu thập, kiểm tra, xử lý một cách chính xác theo từng thương vụ nhập khẩu,
từng lần thanh toán, từng khoản mục chi phí và sự biến động của tỷ giá đồng ngoại
tệ.
Kiểm tra, kiểm soát được việc sử dụng tài sản trong kinh doanh nói chung và
trong nhập khẩu nói riêng đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả
nhưng đúng chính sách, chế độ quy định.
Kế toán phải nắm chắc thời điểm, phạm vi xác định hàng mua để ghi chép vào
sổ có liên quan và tính giá trị thực tế làm cơ sở chính xác cho việc tính giá hàng trong
nước.
Áp dụng đúng đắn hình thức kế toán thích hợp với đơn vị để quản lý công việc
một cách có hiệu quả và phản ánh tốt tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị.

×