Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

những khó khăn và thuận lợi trong công tác huy động và tiếp nhận oda ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.69 KB, 29 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định cho quá trình
sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là để
đạt tăng trưởng kinh tế cao, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng nó một cách có
hiệu quả càng trở nên cần thiết đối với tất cả các quốc gia muốn trở thành
nước công nghiệp hoá với thời gian ngắn nhất.
Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã qua một chặng đường hơn
10 năm. Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ
tăng trưởng nhanh, lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì
tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó
nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo nàn, lạc hậu nên nguồn
vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu tư đó. Vì vậy,
nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng.
Nguồn vốn ODA đã góp phần đáng kể vào việc đạt được những thành
tựu kinh tế xã hội của đất nước. Để có thể thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn ODA trong phát triển kinh tế - xã hội cần có những biện pháp
cụ thể và toàn diện.
Em xin trình bày một số hiểu biết của em về ODA trong bài này.
1
1
Chương I
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH
THỨC (ODA).
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ODA.
1. Khái niệm.
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn
lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các
Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính
phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB ) giành cho các
nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các


nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời
hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì
yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao
một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một
nguồn lực từ bên ngoài.
ODA có các hình thức sau:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền
tệ. Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng
hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân
thanh toán hoặc có thể chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả
dài) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt
được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA
cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một
cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường, các
dự án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê
2
2
chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để
soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng
cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi
đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ
nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống
kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội.
2. Phân loại ODA:
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODAđược xem có mấy loại:
a. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.

- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên
nhận không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo
sự thoả thuận trước giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật.
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
- Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền
(tuỳ theo một quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian
trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA
không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ
chức Hợp tác kinh tế và phát triển.
b. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại:
- ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến
nước kia thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
3
3
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF,
WB
1
) hay tổ chức khu vực (ADB, EU, ) hoặc của một Chính phủ của một
nước dành cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện
thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc) có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).

+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
c. Phân loại theo mục tiêu sử dụng, ODA có 4 loại:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân
sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao
trực tiếp cho nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá).
Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm
theo điều kiện ràng buộc.
Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận
viện trợ kế hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính
chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA.
Điều kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các
hạng mục sẽ sử dụng ODA".
3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu:
* Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn
tại 3 nguồn ODA chủ yếu:
- Liên xô cũ, Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
* Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa
phương, và các tổ chức viện trợ song phương.
4
4
* Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
+ Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP).
+ Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
+ Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO)
+ Chương trình lương thực thế giới (WFP)

+ Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)
+ Tổ chức y tế thế giới (WHO)
+ Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO)
+ Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).
- Các tổ chức tài chính quốc tế:
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)
+ Ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
- Liên minh Châu Âu (EU).
- Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
- Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC)
- Quĩ Cô - Oét.
* Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD).
- Các nước đang phát triển.
4. Quy trình thực hiện dự án ODA.
Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều
hành nguồn vốn này. Dưới đây là một số nội dung về quy định của pháp luật
Việt Nam liên quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu hút và sử
dụng nguồn vốn ODA.
5
5
1. Quy hoạch ODA.
Bộ kế hoạch - Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội;
quy hoạch tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ,
các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để nghiên
cứu chủ trương và phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy hoạch ODA
và lập các danh mục chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODa trình Chính
phủ phê duyệt.

2. Vận động ODA.
Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên
sử dụng ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với
các cơ quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA
thông qua:
- Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm.
- Các hội nghị điều phối viện trợ ngành.
- Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ.
Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan
cần phải trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng
và thế mạnh của các nhà tài trợ liên quan.
3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA.
Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các
chương trình, dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối
tác tiến hành chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA bao gồm lập đề
án, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi
4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA.
Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của
Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các
văn bản hướng dẫn thuộc lĩnh vực này).
6
6
- Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế Bộ
Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan
tiến hành thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trong quá trình
thẩm định có đề cập tới ý kiến tham gia của các bên cung cấp ODA.
- Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số
80/CT ngày 28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng
Chính phủ).

5. Đàm phán ký kết.
Sau khi nội dung đàm phán với bên nước ngoài được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phòng
Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và
các cơ quan liên quan tiến hành đàm phán với bên nước ngoài.
Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủ
trì đàm phán với các bên nước ngoài thì cơ quan này phải thống nhất ý kiến
với Bộ Kế hoạch - Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài chính về hạn
mức và điều kiện vay trả (nếu là ODA hoàn lại).
Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thoả thuận với bên nước ngoài thì
cơ quan chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về nội dung làm
việc, kết quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan.
Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định
hoặc văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ tướng
Chính phủ chỉ định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung
văn bản dự định ký kết và các đề xuất người thay mặt Chính phủ ký các văn
bản đó. Văn bản trình Thủ tướng Chính phủ phải kèm theo ý kiến chính thức
bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trường hợp cơ quan khác trình Thủ
tướng Chính phủ), Bộ ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính.
Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác về
ODA yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà nước Công hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Bộ Kế hoạch - Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ chỉ
định đàm phán) phải báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt
đầu đàm phán với bên nước ngoài về nội dung các văn kiện dự định ký kết,
7
7
đồng thời thực hiện các thủ tục Quy định tại điều 6 khoản 3, điều 7 và điều 8
của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992 của Chính phủ.
6. Quản lý thực hiện.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân
sách nhà nước và thực hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước Quốc
tế về ODA đã ký và các quyết định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử
dụng vốn ODA. Đồng thời có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực
hiện, xử lý những vấn đề liên quan thuộc thẩm quyền trong quá trình thực
hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định các biện pháp
xử lý, báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng
vốn ODA.
Bộ Tài chính được xác định là đại diện chính thức cho "người vay" hoặc
là Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
các điều ước quốc tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm phối hợp với các
cơ quan liên quan xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp phát, cho vay lại,
thu hồi vốn ) đối với các chương trình, dự án ODA.
Trong quá trình thực hiện, Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm phối hợp
với Bộ Tài chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ quyền thực hiện
việc cho vay lại từ vốn ODA như đã nêu tại điểm điều khoản 3 điều 14 của
Quy chế về quản lý và sử dụng ODA ban hành kèm theo Nghị định 87/CP
ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng thời tổng
hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài chính và cơ quan liên quan tình hình
thực tế về rút vốn, thanh toán thông qua hệ thống tài khoản được mở tại
ngân hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.
Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA tùy theo quy định
và thoả thuận với bên nước ngoài, các chủ trương, dự án chịu trách nhiệm tổ
chức các cuộc kiểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện của Bộ Kế hoạch - Đầu
tư, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, văn phòng
Chính phủ là đại diện của Chính phủ tại các cuộc kiểm điểm này.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung
ương và các chủ chương trình, dự án lập báo cáo 6 tháng và hàng năm về tình
8
8

hình thực hiện các chương trình và dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư,
Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn phòng
Chính phủ.
7. Đánh giá.
Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo
về tình hình thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác
nhận của cơ quan chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ODA.
1. Đặc điểm của ODA.
Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương
có xu thế giảm đi. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế
hội nhập đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị giữa các quốc
gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức
đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp
cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên sự chuyển dịch, tỉ
trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu hướng
giảm đi. Điều đó đã được chứng minh trên thực tế là trong các năm 1980 -
1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng ODA song phương từ 67% tăng
lên 69% trong khi đó tỉ trọng ODA đa phương giảm từ 33% xuống 31%.
(Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
Thứ hai, sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA.
Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ
các nhà nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số
nước công hoà thuộc Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề
trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung
Quốc, các nước Đông Dương, Myanmar cũng đang cần đến nguồn ODA lớn
để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là
rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các vấn

9
9
đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các
nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát
triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khác như: Nhãn quan
chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa trên sự quan tâm nhân đạo và
hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế - xã hội quốc tế. Cùng
mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba của các nước phát
triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách là bạn
hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách
đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt
cũng là nhân tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng.
Ngoài ra còn có thêm lý do đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về
thủ tục, quy chế, chiến lược, viện trợ khác nhau của các nhà tài trợ trên thế
giới cũng tạo nên sự chênh lệch trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa
các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên
sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển. Kể từ năm
1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể cả Ai
Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện trợ tăng lên
chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam Á
(đặc biệt là Ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá
1983/1984 đến 1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng
Sahara đã tăng từ 29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại
Dương từ 20,3% lên 22,9%; Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê từ 12% lên
14% (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
Thứ ba, sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng
đều.
Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải
khác nhau, có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như
mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó

phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan
tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước láng giềng của mình,
nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các nước khác
trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi buôn bán hay đầu tư mà việc đầu
tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ ODA. Mặt khác chính
10
10
những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những khác biệt lớn
trong quá trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các nước phát triển,
hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có thể là do nhu cầu
hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai
Thứ tư, triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan.
Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của
các nước phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có
khối lượng ODA lớn như Nhật Bản, Mỹ thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên
dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy,
Phần Lan, Đan Mạch đã có tỷ lệ ODA chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng
ODA tuyệt đối của các nước này không lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế
phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát triển cũng là một trở ngại gia tăng
ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung cấp ODA dựa vào kết quả hoạt
động của nền kinh tế của mình để xem xét khối lượng ODA có thể cung cấp
được. Nhưng hiện nay các nước phát triển đang có những dấu hiệu đáng lo
ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các
vấn đề xã hội trong nước, chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập
trung giải quyết các vấn đề trong nước.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong
các năm 1991 - 1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang
được cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn
chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm
tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang

phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn nhất định, có những
xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động hiện nay hàm chứa
cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang phát triển như
nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu
tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được
lại tuỳ thuộc voà chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn
nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được
những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các nguồn vốn khác.
2. Vai trò của ODA.
11
11
ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên cung cấp và bên tiếp
nhận. Tuy vậy, đối với mỗi bên nó sẽ mang một ý nghĩa khác nhau.
a. Đối với nước xuất khẩu vốn.
Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp
hoạt động thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng
với sự gia tăng của vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng
tăng theo với những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về
buôn bán giữa hai quốc gia. Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục
đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về mặt kinh tế - văn hoá đối với nước
nhận cũng sẽ tăng lên.
Nguồn ODA đa phương mặc dù cũng có ưu điểm giúp các nước tiếp
nhận khôi phục và phát triển kinh tế, nhưng nó cũng có mặt tiêu cực ở chỗ dễ
tạo ra nạn tham nhũng trong các quan chức Chính phủ hoặc phân phối giàu
nghèo trong các tầng lớp dân chúng nếu không có những chính sách kiểm soát
và quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn này trong nước.
Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ ODA là các nước cung
cấp không nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà
nhằm vào các mục đích quân sự.
b. Đối với các nước tiếp nhận:

Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là
điều không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công
mà các nước tiếp nhận ODA đã đạt được.
Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng
thiếu vốn trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục
vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất
nước.
Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang
phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà
ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá
trình tự duy trì và phát triển.
12
12
Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức
quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội
tệ có thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn
của các tổ chức tài chính quốc tế mang lại.
ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền
móng cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là
nâng cấp cơ sở hạ tầng về kinh tế.
ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương
và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp
giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi
trường. Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển
cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo
ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô
doanh nghiệp.
Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu

máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, từ các nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện
trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới,
đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này.
Bên cạnh những mặt tích cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn
chế. Hạn chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu
muốn nhận được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện
trợ. Mức độ đáp ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều.
Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào các thành phố
trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc
gia đó, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên
cách biệt.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục
tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với
13
13
trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ
kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế
giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt
khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn
vào
III. TÌNH HÌNH CUNG CẤP VÀ TIẾP NHẬN ODA TRÊN THẾ GIỚI:
1. Tình hình chung:
Nguồn ODA song phương được phân bố rộng khắp trên thế giới do các
nhà tài trợ một mặt phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế như qui định bắt buộc của
Liên Hiệp Quốc, mặt khác bản thân các nhà tài trợ cũng muốn nâng cao vị thế
của mình, vươn rộng tầm ảnh hưởng ra các khu vực khác. Hơn nữa, trật tự an
ninh mà các nhà tài trợ chủ trương thiết lập tại nước nhận viện trợ dựa trên
mong muốn một nền kinh tế phụ thuộc vào nền kinh tế của họ.
Ở Châu Á: Nhật là nước đầu tư lớn nhất. Trung Quốc và Đông Nam á là

khu vực thu hút nhiều ODA nhất.
Châu Phi: Là khu vực tập trung hầu hết các nước nghèo, kém phát triển
nên nguồn viện trợ chủ yếu là viện trợ không hoàn lại và thường chiếm tỉ lệ
cao.
2. Nhà tài trợ lớn nhất:
a. ODA song phương:
Mục đích của các nước cung cấp viện trợ đều là xác lập vị trí toàn diện
và áp đặt vai trò của mình ở khu vực muốn thôn tính. Do đó việc phân bổ
ODA diễn ra khác nhau giữa các khu vực.
Trong số các nước cung cấp ODA song phương, Hoa Kỳ và Nhật Bản là
những nước dẫn đầu thế giới.
Cụ thể:
- Ở Châu Á : Nhật Bản với mục tiêu là phải thiết lập được mối quan hệ
tốt đẹp giữa các nước trong khu vực, sao cho Nhật sẽ là nước đóng vai trò chủ
đạo về kinh tế nên đứng đầu trong danh sách các nhà tài trợ ở Châu á là Nhật
Bản.
14
14
- Châu Phi: Nước cung cấp ODA chiếm tỉ lệ cao nhất là Pháp.
- Châu Mỹ La Tinh: Mỹ là nước có tỉ lệ viện trợ lớn nhất.
- Châu Đại Dương: Pháp đứng đầu với tỉ lệ viện trợ 46,9%.
- Trung Đông: Mỹ có tỉ lệ viện trợ ODA cao nhất.
b. ODA song phương:
Các tổ chức tài chính quốc tế thường là những nhà tài trợ lớn với lượng
vốn cung cấp lớn hơn nhiêù lần so với các quỹ của Liên hiệp quốc.
Một số tổ chức đa phương cung cấp ODA
Nhiều nhất trong năm 1996.
(Nguồn: Bộ kế hoạch - Đầu tư - tháng 7/1997).
15
15

MỘT SỐ TỔ CHỨC ĐA PHƯƠNG CUNG CẤP ODA NHIỀU NHẤT TRONG
NĂM 1996
Đơn vị tính: tỉ USD
Tổ chức đa phương Tổng ODA tài trợ
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 61,5
Ngân hàng thế giới (WB) Bình quân 28,6 tỉ/năm
Công ty tài chính quốc tế (IFC) 17,9
(từ tháng 7/1996 - 6/1997)
Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB)
5,8
Chương trình phát triển của Liên
hợp quốc (UNDP)
2,186
Chương trình lương thực thế giới
(WFP)
Bình quân 1,5 tỉ /năm
Cao uỷ LHQ về người tị nạn
(UNHCR)
1,3
(Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư - tháng 7/1997)
3. Khu vực tiếp nhận nhiều nhất:
Trước đây, khi Liên xô và Đông âu chưa tan rã, viện trợ phát triển chính
thức ODA được phân bố theo chế độ chính trị của từng nước. Thế giới lúc bấy
giờ chia làm 2 cực do Liên xô và Mỹ đứng đầu luôn có sự cạnh tranh và thù
địch. Khối SEV (hội đồng tương trợ kinh tế) , đứng đầu là Liên xô, tập trung
viện trợ giúp đỡ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa còn khối tư bản
chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu cũng ra sức dùng các khoản viện trợ để mua chuộc
sử trung thành của các nước thuộc thế giới thứ ba theo những quan điểm của
Mỹ.

Từ đầu thập niên 90 với sự kết thúc chiến tranh lạnh, nguồn vốn ODA
được mở rộng ra khắp các nước trên thế giới không kể thuộc hệ thống chính
trị nào. Các nước nhận được nguồn hỗ trợ nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào vị
thế kinh tế của từng khu vực, từng nước. Những năm gần đây, vốn ODA trên
thế 0giới có chiều hướng tập trung vào Châu á, đặc biệt là khu vực Đông Nam
á. Trung quốc là nước thu hút nhều ODA nhất trong khu vực này.
16
16
17
17
Chương II
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI
VIỆT NAM
I. TÌNH HÌNH THU HÚT ODA:
1. Giai đoạn trước tháng 10/1993.
Trước đây, nước ta nhận được hai nguồn ODA song phương chủ yếu.
Một từ các nước thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế) trong đó chủ
yếu là Liên xô (cũ). Hai là từ các nước thuộc tổ chức DAC (Uỷ ban hỗ trợ
phát triển) và một số nước khác, trong đó chủ yếu là Thuỵ điển, Phần Lan,
Đan mạch, Nauy, Pháp, ấn độ
Các khoản ODA trên giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng
nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế nước ta. Sau cuộc khủng
hoảng chính trị ở Liên xô cũ và Đông âu, SEV giải thể đã làm cho nguồn viện
trợ từ các nước này chấm dứt dẫn tới rất nhiều khó khăn cho nước ta, nhiều kế
hoạch không có vốn để hoàn thành.
3/2/1994 Hoa Kỳ xoá bỏ cấm vận với Việt Nam. Cùng vói các chính
sách đối ngoại mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực tạo điều kiện cho
Việt Nam nhận được một số lượng viện trợ lớn từ các nước phát triển và các
tổ chức quốc tế.
2. Giai đoạn phát triển hợp tác mới từ tháng 10/1993:

Báo hiệu đáng mừng cho giai đoạn này được bắt đầu bằng sự kiện rất
quan trọng vào tháng 10/1993, quan hệ của ta với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân Hàng thế giới (WB), Ngân hàng Châu á (ADB) được khai thông. Tháng
11/1993 Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam họp tại Pari mở ra giai đoạn
hợp tác phát triển mới giữa nước ta và cộng đồng các nhà tài trợ, tạo ra các cơ
hội quan trọng để hỗ trợ Việt Nam tiến hành công cuộc phát triển nhanh và
bền vững thành công của hội nghị thể hiện ở chỗ Việt Nam đã tranh thủ được
sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế vào công cuộc đổi
mới phát triển của Việt Nam thông qua đối ngoại, bằng cách cam kết dành
ODA cho Việt Nam .
18
18
Thu hút ODA qua các năm 1993 - 1999.
(Đơn vị tính tỷ USD)
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số
Tổng mức cam
kết ODA
1,18 1,94 2,26 2,43 2,4 2,2 2,7 15,14
Nguồn: Bộ kế hoạch - Đầu tư
Những con số trên là tương đối khả quan. Tuy nhiên, trong những năm
tới, nguồn vốn ODA của các nước cung cấp cho Việt Nam có thể sẽ giảm
xuống. Sở dĩ có nhận định như vậy là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ ở khu vực Châu á, vừa qua làm cho nền kinh tế của một số nước
cung cấp viện trợ gặp khó khăn dẫn đến việc các nước có thể cắt giảm lượng
viện trợ ODA hàng năm. Đồng thời, do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của
các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc thu hút ODA.
Việc hình thức hoá các chương trình , dự án ODA bao gồm nhiều tác
nghiệp khác nhau như thẩm định và phê duyệt dự án, Chính phủ Việt Nam và
các nhà tài trợ kí kết các điều ước quốc tế (Bản ghi nhớ (MOU), Hiệp định,
chương trình, Nghị định thư, ) các chương trình, dự án đã được ký kết đạt

hơn 10 tỷ USD, chiếm gần 70% tổng số vốn ODA đã cam kết.
Việt Nam dành được sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng tài trợ quốc tế
và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không quan tâm tới Việt Nam nếu như họ
không tin tưởng vào triển vọng phát triển tốt đẹp ở đất nước ta. Điều quan
trọng chính là sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về những gì mà Việt
Nam đã làm trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế, trong kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (đây là kế hoạch hoàn thành quá trình cải tổ và đầu
tư vào nhưngx ngành trọng điểm của nền kinh tế nhằm xây dựng một nền
kinh tế có hiệu quả để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, thì cần
phải có nhiều sự trợ giúp hơn nữa). Tiếp theo đó là những kết quả đáng mừng
trong giai đoạn này.
II. TÌNH HÌNH GIẢI NGÂN (SỬ DỤNG ) ODA:
19
19
Tình hình giải ngân là biểu hiện bước đầu hiệu quả của nguồn vốn ODA.
Tổng mức giải ngân đã tăng đều từ 0,413 tỷ USD năm 1993 đến 1,452 tỷ
USD năm 1999.
Trong thời gian qua đã có 1 số chương trình, dự án ODA đã thực hiện
xong và hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội Việt Nam như nhà máy điện tử dụng khí thiên thiên phú Mỹ 2 - giai
đoạn 1, nhiều bệnh viện ở các thành phố, các trường học đã được cải tạo và
nâng cấp.
Nguồn ODA cũng đã hỗ trợ tăng cường năng lực phát triển thể chế cho
nhiều lĩnh vực quan trọng như tài chính, ngân hàng
Đối với nhiều chương trình, dự án ODA đã thực hiện phương thức đấu
thầu cạnh tranh quốc tế, do đó cơ quan hưởng thụ Việt Nam đã lựa chọn được
các công ty thực hiện dự án vừa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật và công nghệ,
vừa tiết kiệm được vốn vay.
III. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG
VÀ TIẾP NHẬN ODA Ở VIỆT NAM.

1. Trong công tác huy động:
a. Thuận lợi:
- Bối cảnh quốc tế tạo ra những quan điểm mới tích cực hơn về việc
nước giàu hỗ trợ vốn cho phát triển của các nước nghèo.
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nước diễn biến theo chiều
hướng khả quan khiến các nhà tài trợ tin tưởng vào sự đổi mới của Việt Nam,
đó là một trong những điều kiện tiên quyết để giúp chúng ta huy động vốn
thuận lợi hơn.
b. Khó khăn.
- Diễn biến nền kinh tế toàn cầu có những tác động xấu đến nguồn hỗ trợ
mà các nhà tài trợ dành cho các nước nghèo.
- Quá trình lập kế hoạch để xin hỗ trợ ở Việt Nam đôi khi soạn thảo thiếu
chi tiết, tính thuyết phục chưa cao nên mức độ huy động không phù hợp với
yêu cầu thực hiện nay ở Việt Nam.
20
20
- Cạnh tranh với các nước trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày
càng mạnh mẽ trong khi Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xin
hỗ trợ nguồn vốn ODA.
2. Trong công tác tiếp nhận:
a. Thuận lợi:
Quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế
giới và cả ở Việt Nam từ nhiều năm trước, giúp các nhà hoạch định chiến lược
có thêm điều kiện nghiên cứu, rút ra những bài học kinh nghiệm về thành
công và vướng mắc khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA, từ đó kịp thời
điều chỉnh để có kế hoạch tiếp nhận sát thực và hữu hiệu hơn.
b. Khó khăn:
- Mặc dù Việt Nam đã được nhận ODA từ những năm 50, nhưng chỉ bắt
đầu từ năm 1993 nó mới thực sự phát huy tác dụng, vì vậy chúng ta còn phải
từng bước vừa làm vừa tự tìm ra lối đi thích hợp cho mình, nền thời gian rút

vốn thường bị kéo dài, tốc độ giải ngân chậm so với các nước khác trên thế
giới.
- Khó khăn trong việc tiếp nhận ODA một phần xuất phát từ bên cung
cấp viện trợ:
+ Đôi khi nhà tài trợ đặt ra những yêu cầu rất chi tiết và chuẩn mực trong
khi Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm tiếp nhận và kĩ thuật cần thiết để đáp
ứng những nhu cầu đó.
+ Thủ tục giải ngân do các nhà tài trợ đề ra khá phức tạp.
+ Một số dự án do các nhà tài trợ thiết kế không sát với tình hình thực
tiễn ở Việt Nam nên phía Việt Nam lại mất thời gian để điều chỉnh cho phù
hợp hơn.
IV. NHỮNG TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG VỐN ODA:
- Cơ chế quản lí và sử dụng các nguồn viện trợ còn nhiều điểm chồng
chéo, rườm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm trễ trong việc thành lập các
ban quản lý dự án.
21
21
- Sự thống nhất giữa các cơ quan liên quan với cấp bộ và ban quản lý dự
án chưa được chú trọng.
- Các thủ tục xem xét và trình tự duyệt dự án còn phức tạp, phải qua
nhiều cấp , nhất là khâu đấu thầu và chấm thầu khiến cho thời gian dự án bị
chậm lại.
- Nhiều người coi viện trợ là của “cho” nên việc sử dụng và quản lí các
nguồn viện trợ thường không được đảm bảo đúng chế độ tài chính, thậm chí
hết sức lãng phí và tuỳ tiện dẫn đến góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng
nguồn vốn ODA.
- Nhân sự và kĩ năng nhân sự trong công tác điều hành sử dụng vốn
ODA ở những cấp khác nhau hiện đang thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng dẫn đến làm cho hiệu quả sử dụng vốn ODA giảm
22

22
Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ODA Ở VIỆT NAM.
5 năm không phải là thời gian quá ngắn nhưng cũng chưa đủ để chúng ta
có thể rút ra đầy đủ những kinh nghiệm cũng như hoàn chỉnh các biện pháp
thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hoàn hảo, mà Chính phủ còn
phải tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp cải cách hơn nữa nhằm tranh thủ nhiều
hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Trong tình hình cả 2 bên - các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam - cùng
tiến hành nhiều biện pháp nhằm phối hợp chặt chẽ để đưa ra những thủ tục
hợp lí, thoả mãn yêu cầu của bên cung cấp và bên tiếp nhận. Sau đây em xin
nêu một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA như sau:
1. Về thu hút vốn:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí và điều hành công tác tiếp nhận
ODA.
- Tăng cường công tác cán bộ, đầu tư đào tạo để nâng cao năng lực cho
những cán bộ thuộc bộ phận liên quan đến việc xác định nhu cầu đàm phán,
kí kết những hiệp định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa cả về
số luợng và chất lượng của nguồn vốn thu hút được.
- Mở lớp đào tạo ngắn về những kiến thức có liên quan đến ODA, tập
huấn về những quy định và thủ tục, điều kiện cung cấp ODA của các nhà tài
trợ.
- Những ngành và địa phương có nhu cầu về cung cấp vốn ODA cần
nghiên cứu kĩ những chính sách ưu tiên của các đối tác nước ngoài cũng như
quy chế quản lí và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam để tranh thủ sự
giúp đỡ của Chính phủ và các cơ quan có liên quan trong việc lập hồ sơ dự án
và các thủ tục xin viện trợ phù hợp với đối tượng ưu tiên.
23
23

2. Về sử dụng vốn:
Việt Nam là một nước đang phát triển do đó nguồn vốn ODA có vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đây sẽ là
nguồn tài nguyên chủ yếu để Chính phủ đầu tư tái thiết cơ sở hạ tầng đang
trên đà xuống cấp, lạc hậu nghiêm trọng và cần được khẩn trương nâng cấp,
đổi mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung và mở rộng
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. ODA cũng là nguồn tài trợ
cần thiết cho các hoạt động nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tiềm năng của các
nguồn tài nguyên, thực trạng kinh tế xã hội, tình hình của các ngành, lãnh vực
trong nền kinh tế quốc dân, những thông tin thu thập, được sẽ là căn cứ xác
đáng cho quản lý vĩ mô.
Nhận thức được vai trò của nguồn vốn ODA đối với công cuộc phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, chúng ta đã có một số thành công lớn trong công
tác vận động đầu tư và là dấu hiệu chứng tỏ sự ủng hộ của quốc tế đối với
công cuộc cải cách kinh tế xã hội đang được thực hiện có kết quả tại Việt
Nam. Tuy nhiên có được nguồn vốn mới chỉ là tiền đề, điều quan trọng hơn
hết là làm thế nào để hấp thụ, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nói trên. Để góp
phần xử lí vấn đề này cần phải thực hiện cho được những biện pháp sau:
Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức về vai trò và bản chất của viện trợ nước
ngoài. Tính chất ưu đãi của nguồn vốn ODA (thời gian, lãi suất ) thường làm
cho các cơ quan trong nước (quản lí tiếp nhận) có quan niệm hết sức dễ dãi và
chủ quan về sự phân phối và sử dụng nguồn vốn này. Họ không chú ý đến yêu
cầu hiệu quả, bỏ qua yếu tố chi phí thời cơ trong thẩm định, đánh giá dự án,
chưa quan tâm đầy đủ đến việc xác định các ưu tiên đầu tư, vẫn còn dựa dẫm
chủ yếu vào nguồn vốn nước ngoài và xem nhẹ sự đối ứng của nguồn vốn
trong nước, triển khai dự án chậm có khi còn lãng phí. Những quan niệm sai
lầm trên cần sớm được chấn chỉnh, luôn luôn lưu ý rằng đây là nguồn vốn
phải hoàn trả vốn gốc và lãi vì vậy nếu sử dụng kém hiệu qủa vẫn có thể rơi
vào khủng hoảng nợ nần như đã xảy ra ở nhiều nước.
- Thứ hai, thiết lập các định hướng ưu tiên đầu tư và tiến hành nghiên

cứu khả thi từng dự án chặt chẽ.
24
24
Cần tránh xu hướng dàn trải viện trợ nước ngoài trên một diện rộng bao
quát nhiều lãnh vực, ngành hay địa phương. Trong điều kiện nguồn vốn hạn
chế, để nguồn vốn phát huy hiệu quả nhanh và rộng, nên tập trung đầu tư vào
một số lĩnh vực, vùng lãnh thổ có lợi thế tương đối và có khả năng gây tác
động phát triển lớn.
- Thứ ba: tăng cường nguồn lực đối ứng trong nước.
Khả năng hấp thụ viện trợ tuỳ thuộc vào mức độ đáp ứng của nguồn lực
trong nước. Nếu các nguồn lực trong nước quá yếu kém (được thể hiện qua
nguồn vốn trong nước nhỏ bé, năng lực cán bộ hạn chế, các yếu tố đầu vào
thiếu thốn, hệ thống pháp lý không rõ ràng, chặt chẽ ) thì sẽ phát sinh hiện
tượng viện trợ nước ngoài quá tải và không được sử dụng một cách có hiệu
quả. Để hấp thụ hoàn toàn và có hiệu quả nguồn ODA mà cộng đồng quốc tế
đã cam kết cần sớm khắc phục và cải thiện những vấn đề còn tồn tại nêu trên.
- Thứ tư: Cải tiến cơ chế quản lý và điều phối viện trợ.
Viện trợ nước ngoài có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng ở trong
nước kể từ lúc vận động kinh tài trợ cho đến khi hoàn tất cam kết hoàn trả cho
nên thiết lập một cơ chế nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng , thông suốt
của cả một hệ thống tổ chức có liên quan đến việc trợ là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng.
Ngoài ra còn phải xác định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai
để xây dựng kế hoạch trả nợ, cập nhật các thông tin trong và ngoài nước về sự
biến động của các nhân tố có khả năng tác động đến nguồn vốn vay để xử lý
kịp thời và có những quyết định đúng đắn tránh tình trạng lỗ do những tác
động của những nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào hoạt động.
25
25

×