Website: Email : Tel : 0918.775.368
lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trờng, tiền trở thành một phơng tiện đảm bảo cho
mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thờng. Hoạt động của tiền trong
nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tợng kinh tế nh: lạm phát, chu kỳ kinh
doanh, thâm hụt ngân sách ... Tiền liên quan đến các quyết định của các cá
nhân và ảnh hởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của
các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tơng trợ... ) và
thị trờng tài chính (thị trờng chứng khoán, thị trờng cổ phiếu và hối đoái). Các
thị trờng tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống
hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những
dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nớc.
Nh chúng ta đã biết, nếu vốn đợc coi là một trong những nguồn lực quan
trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính
chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào dể sử dụngmột cách triệt để và
có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nớc và ngoài nớc? Để đạt đợc điều này, trớc
hết cần phải có một hệ thống ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp
nhàng giữa ngân hàng Nhà nớc (NHNN) hay ngân hàng Trung Ương (NHTW)
với các ngân hàng thơng mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế đợc.
Chính vì vậy mà bài viết này có tên là:
Vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị trờng
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên trong bài viết có thể còn nhiều sai
sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
C h ơ n g I
Vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị trờng
I. Khái niệm NHTW
Mọi quốc gia đều có NHTW, nhng tên gọi có thể khác nhau (ngân hàng
trung tâm, ngân hàng Nhà nớc, quỹ dự trữ liên bang
...). Tiền thân của ngân hàng trung ơng là ngân hàng phát hành tiền. Khi ngân
hàng có tên là NHTW thì ngân hàng này đảm nhiệm việc độc quyền phát hành
tiền và quản lý Nhà nớc.
Do tính chất hoạt động của NHTW mà ngân hàng này đã nắm trong tay
công cụ quản lý chủ yếu nhất của Nhà nớc trong quản lý kinh tế vĩ mô là chính
sách tiền tệ. NHTW là một bộ phận trong bộ máy quản lý của Nhà nớc.
NHTW là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền (in tiền) vì thế nó là
ngân hàng duy nhất không có khả năng bị phá sản. Nó đóng vai trò chủ ngân
hàng đối với các ngân hàng thơng mại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt
động không trục trặc và còn đóng vai trò chủ ngân hàng đối với Chính phủ,
gánh trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt
ngân sách của Chính phủ.
ii. Chức năng, nhiệm vụ của NHTW trong nền kinh tế thị tr-
ờng.
Hoạt động của NHNN và sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của nó liên quan
đến các hoạt động tác động đến bảng quyết toán tài sản của nó (tài sản có và tài
sản nợ)
Tài sản có Tài sản nợ
- Chứng khoán của Chính phủ & cơ
quan Chính phủ, hối phiếu đợc ngân
hàng chấp nhận
- Tiền cho vay chiết khấu
- Tiền đúc
- Tiền mặt đang thu
- Những tài khoản khác
- Tiền giấy của NHNN đang lu thông
- Tiền gửi ngân hàng
- Tiền gửi của kho bạc
- Tiền gửi của nớc ngoài và tiền gửi
khác
- Tiền mặt trả sau
- Các khoản nợ khác và tài khoản t
bản
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng quyết toán tài sản của ngân hàng cho thấy các nguồn vốn và cách
sử dụng vốn của ngân hàng. Thông qua bảng quyết toán tài sản, ng ời ta có thể
đánh giá chính xác tình trạng hoạt động của ngân hàng.
+ Tài sản có: gồm những chứng khoán mà NHTW nắm giữ gồm có trớc
hết là chứng khoán kho bạc nhng trớc đây gồm cả hối phiếu đợc ngân hàng
chấp nhận. Tổng kim ngạch chứng khoán do các nghiệp vụ thị tr ờng mở quyết
định. Đây là loại tài sản có quan trọng trong bảng tổng kết và tài sản của
NHTW.
Cho vay chiết khấu: đó là những khoản tiền mà NHTW cho các ngân
hàng vay và kim ngạch vay chịu tác động của lãi suất mà NHTW ânăng suất
định cho những khoản vay đó (lãi suất chiết khấu).
Hai tài sản có trên đóng một vai trò quan trọng trong bảng quyết toán tài
sản của NHTW
Lý do thứ nhất: những thay đổi trong các khoản tài khoản có này sẽ dẫn
đến các thay đổi về tiền dự trữ và tiếp sau đó là những thay đổi về l ợng tiền
cung ứng.
Thứ hai: do các tài sản này (chứng khoán Chính phủ và tiền cho vay chiết
khấu) đem lại lãi suất trong khi các tài sản nợ (đồng tiền l u hành và tiền dự trữ)
không phải thanh toán lãi suất. Nh vậy tài sản có mang lại thu nhập, tài sản nợ
không phải tốn kém gì.
Các chứng khoán Chính phủ gồm các tài khoản chứng khoán của NHTW
do kho bạc phát hành. NHTW cung cấp tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng hoạt
động bằng cách mua chứng khoán do dó làm tăng tài sản có của nó. Một sự
tăng chứng khoán Chính phủ do NHTW nắm giữ dẫn đến một sự tăng l ợng tiền
cung ứng. Ngoài ra, NHTW có thể cung cấp tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng
bằng cách cho các ngân hàng vay chiết khấu. Một sự tăng tiền cho vay chiết
khấu cũng có thể là một nguồn gây ra sự tăng lợng tiền cung ứng. Khi NHTW
cung cấp cho hệ thống ngân hàng thêm một đồng tiền gửi dự trữ thì tiền gửi
tăng một bội số của tiền này. Quá trình này đợc gọi là tạo ra bội số tiền gửi.
+ Tài sản nợ :
- Tiền giấy NHTW đang lu thông : NHTW phát hành đồng tiền giấy.
Đồng tiền đang lu hành là tổng số lợng tiền đang lu thông trong tay dân chúng
(ở bên ngoài ngân hàng). Đây là một thành phần quan trọng của lợng tiền cung
ứng (đồng tiền do các tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ cũng là tài sản nợ của
NHTW nhng đợc nộp vào khoản dự trữ).
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tiền gửi ngân hàng : tất cả ngân hàng đều có một tài khoản ở NHTW, ở
đó bao gồm các khoản tiền gửi của các ngân hàng gửi tại NHTW. Những khoản
tiền này cộng với tiền mặt tại các ngân hàng (đợc coi là tiền két bởi nó đợc để
trong các két ngâng hàng) đợc gọi là các khoản tiền dự trữ.
Các khoản tiền dự trữ là tài sản có của các ngân hàng nh là các tài sản nợ
của NHTW. Một sự tăng các khoản tiền dự trữ dẫn đến một sự tăng mức tiền
gửi và do đó tăng lợng tiền cung ứng.
ở đây, tiền dự trữ có thể đợc chia làm hai loại : tiền dự trữ mà NHTW đòi
hỏi các ngân hàng lu trữ (tiền dự trữ bắt buộc) và tiền dự trữ mà các ngân hàng
lu giữ theo ý muốn (tiền dự trữ quá mức).
Hai tài sản nợ trong bảng quyết toán : đồng tiền lu hành và các khoản
tiền dự trữ, thờng đợc gọi là các tài sản nợ về tiền tệ của NHTW. Chúng là một
phần quan trọng của lợng tiền cung ứng, bởi vì việc tăng một trong hai thứ hoặc
cả hai thứ sẽ dẫn đến một sự tăng lợng tiền cung ứng (mọi thứ khác không đổi).
Tổng tài sản nợ tiền tệ của NHTW và các tài sản nợ tiền tệ của kho bạc
(tiền mặt kho bạc đang lu hành) gọi là cơ số tiền tệ khi nói về cơ số tiền tệ,
chúng ta chỉ tập trung vào tài sản nợ tiền tệ của NHTW bởi tài sản nợ tiền tệ
của kho bạc chỉ tieeu tới không quá 10% của cơ số tiền nói trên.
Cơ số tiền tệ (MB) còn gọi là tiền có quyền lực cao, hình thành từ các tài
sản nợ tiền trong lu thông(C) cộng dự trữ (R).
MB = C + R.
Để có thể hiểu rõ hơn về bảng quyết toán tài sản của NHTW chúng ta sẽ
đi vào nghiên cứu các chức năng và vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị tr-
ờng.
Vai trò đặc trng nhất của NHNN là ngân hàng phát hành ngân hàng của
Nhà nớc và ngân hàng của các ngân hàng.
2.1. Ngân hàng Nhà nớc là ngân hàng phát hành.
Nhiệm vụ bao trùm nhất là hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ theo
cơ chế thị trờng.
Khi Ngân hàng phát hành TW ra đời thì toàn bộ việc phát hành tiền đ ợc
tập trung vào NHTW theo chế độ độc quyền. Đây là chức năng cơ bản và vốn
có của NHTW. Tiền do NHTW phát hành là phơng tiện thanh toán hợp pháp
duy nhất.
Với chức năng phát hành, NHNN không chỉ phát hành tiền mặt mà cả ph-
ơng tiện lu thông nói chung. Trách nhiệm của NHTW là bảo đảm cung ứng đủ,
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không để thiếu phơng tiện thanh toán (kể cả tiền mặt), làm sao cho tổng cung
phù hợp với tổng cầu tiền tệ.
ở đây, một vấn đề có tính nguyên tắc là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với việc
vận hành chính sách tiền tệ là không đợc phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân
sách.
Hoạt động tín dụng không tách riêng mà nằm trong hoạt động tiền tệ.
Phát hành tiền không còn là nguồn vốn tín dụng, mà chỉ là hình thức cung ứng
tiền trung ơng, đáp ứng nhu cầu phơng tiện thanh toán của các ngân hàng và
nền kinh tế. Tiền mặt không phải là tất cả, mà nằm trong lợng tiền cung ứng.
Trớc đây, quản lý tiền mặt đã từng là công cụ quản lý duy nhất, là nhiệm vụ th -
ờng xuyên hàng đầu của NHNN. Giờ đây, tiền mặt chỉ là phơng tiện thanh toán,
xã hội cần bao nhiêu đều đợc đáp ứng đủ. Quản lý tiền mặt đợc thay bằng khái
niệm quản lý lợng tiền cung ứng.
2.2. Ngân hàng của chính phủ.
Ngân hàng Nhà nớc không chỉ đợc phép thay mặt điều hành kiểm soát
hoạt động tiền tệ và toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, mà còn làm các công
việc ngân hàng của Nhà nớc nh in đúc tiền ,quản lý dự trữ ngoại hối của đất n-
ớc, ký kết các hiệp định Nhà nớc về ngân hàng và tín dụng, đại diện cho chính
phủ tại các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, quản lý quỹ của ngân sách nhà n -
ớc ...
Với vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ, ngân hàng TW phải đảm bảo
rằng Chính phủ có khả năng đáp ứng những khoản chi tiêu khi nó đang thâm
hụt.
Nếu không tính đến nguồn vay từ bên ngoài thì có hai cách để tài trợ cho
thâm hụt ngân sách.
Thứ nhất, Chính phủ có thể vay tiền của dân ở trong nớc bằng cách bán
ra những chứng khoán tài chính, kỳ phiếu của Chính phủ và công trái cho dân
chúng.
Chính phủ bán các chứng khoán cho Ngân hàn TW lấy tiền mặt bù đắp
cho khoản thâm hụt. Đến lợt mình, Ngân hàng TW tiến hành một nghiệp vụ thị
trờng mở, bán những chứng khoán này trên thị trờng mở để lấy tiền mặt. Khi
quá trình này kết thúc, những ngời dân giữ trong tay những chứng khoán có lãi
của chính phủ, nhng lợng cung ứng tiền tệ không thay đổi. Qua việc chi dùng
khoản thâm hụt, Chính phủ đã đa trở lại nền kinh tế số tiền mặt mà Chính phủ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã rút ra khi bán các chứng khoán lấy tiền mặt. Và NHTW qua việc án ra các
chứng khoán này, đã thu hồi lại số tiền mặt cho Chính phủ vay lúc đầu.
Thứ hai, Chính phủ có thể tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách in
thêm tiền. Thực ra, Chính phủ bán chứng khoán cho NHTW lấy tiền mặt để
trang trải cho khoản chi tiêu vợt quá khoản thu thuế. Khối lợng các chứng
khoán Chính phủ nằm trong các ngân hàng thơng mại hay ở cá nhân các công
dân không thay đổi nhng cơ số tiền đã tăng lên lợng cung ứng tiền sẽ tăng lên
nhiều hơn do có hệ số tiền.
2.3. Ngân hàng của các ngân hàng.
Thực hiện chức năng này, NHTW đóng vai trò là ngân hàng còn các ngân
hàng thơng mại và các trung gian tài chính (quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm...)
là các khách hàng của NHTW.
NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, đợc thực hiện thông qua nhiều
mối quan hệ :
a. NHNN tiến hành tái cấp vốn, thực hiện vai trò ng ời vay cuối cùng, qua
nghiệp vụ tái chiết khấu đối với các ngân hàng thơng mại. Thực chất, đây là
loại tín dụng có thế chấp giấy tờ có giá ngắn hạn. Qua nghiệp vụ này, NHTW
thực hiện kiểm soát số lợng và chất lợng tín dụng của các ngân hàng thơng mại.
Ta biết rằng, bất kỳ một hệ thống NHTM nào có nguồn dự trữ ít ỏi cũng
sẽ dễ bị ảnh hởng bởi những cơn hoảng loạn tài chính. Hoản loạn ngân hàng
xảy ra khi các ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu rút ra của ng ời
gửi, khi đó ngân hàng buộc phải chấp nhận phá sản. Để tránh đợc những cơn
hoảng loạn tài chính, cần phải có sự đảm bảo rằng các ngân hàng có thể nhận đ -
ợc tiền mặt khi có nhu cầu thực sự. Nguy cơ của những cơn hoảng loạn tài
chính có thể tránh đợc hoặc ít nhất giảm bớt đợc đáng kể khi biết rằng NHTW
sẵn sàng đóng vai trò cứu cánh cho vay cuối cùng khi không còn phơng sách
cứu vãn nào khác. NHNN luôn có đợc khả năng này vì nó là ngân hàng duy
nhất có quyền phát hành tiền. Vai trò của NHTW là cứu cánh cho vay cuối cùng
không chỉ đơn thuần duy trì đợc hệ thống tài chính hiện đại tinh vi và gắn bó
chặt chẽ với nhau, trong đó sự thất bại của một ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ
của nhiều ngân hàng khác. Nó cũng làm giảm tính bất khả đoán lớn trong quá
trình kiểm soát tiền tệ hàng ngày.
b. NHNN thực hiện có hiệu quả hơn nữa chức năng than tra kiểm soát
thông qua hai kênh :
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kiểm soát hệ tiền tệ, bảo đảm tơng quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền
tệ, vừa tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, vừa kiềm chế lạm
phát, giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển.
Kiểm soát các NHTM nhằm gìn giữ và đảm bảo an toàn cho hệ thống các
tổ chức tín dụng, giúp cho hoạt động các ngân hàng thơng mại lành mạnh, ổn
định và có hiệu quả.
Việc kiểm soát các NHTM chủ yếu thông qua hệ thống các công cụ kinh
tế, không can thiệp trực tiếp, quá sân vào hoạt động kinh doanh của họ.
c. NHNN tìm kiếm các hình thức và phơng tiện thanh toán thay tiền mặt,
tổ chức hệ thống thanh toán trong nền kinh tế quốc dân bao gồm hệ thống thanh
toán trong cùng một ngân hàng, thanh toán giữa các ngân hàng, thanh toán bù
trừ trên từng địa bàn từ trung ơng đến địa phơng.
d. NHTW có trách nhiệm và quan tâm trong việc thành lập và phát triển
thị trờng tiền tệ và thị trờng vốn dài hạn để từng bớc chuyển các quan hệ vay
mợn truyền thống, trực tiếp với các NHTM qua quan hệ gián tiếp thông qua các
thị trờng này và cũng tạo điều kiện để NHNN triển khai các nghiệp vụ thị tr ờng
mở.
Qua việc phân tích ở trên chúng ta thấy đợc phần nào chức năng cũng nh
vai trò của NHTW trong nền kinh tế. Nhng để NHTW thực sự trở thành ngân
hàng của Nhà nớc, ngân hàng của các ngân hàng thì nó phải thực hiện tốt chính
sách tiền tệ.
2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nớc. Nó là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nớc trong lĩnh vực tiền tệ do NHTW
khởi thảo và thực hiện mục tiêu cao nhất là ổn định giá trị đồng tiền để từ đó ổn
định và tăng truởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trờng, NHTW không chỉ độc quyền phát hành tiền
mà còn điều tiết lợng tiền cung ứng tức là NHTW phải thực hiện chính sách
tiền tệ không gây ra lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính vì vậy, sự ổn
định tiền tệ là nhệm vụ thờng trực của NHTW, là định hớng chỉ đạo toàn bộ
hoạt động của NHTW.
a. Chính sách tiền tệ là một phơng thức theo đó NHTW kiểm soát và điều
tiết khối lợng tiền tệ cung ứng.
Sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của NHTW tác động đến việc tăng giảm l -
ợng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Các biến chuyển trong lợng tiền cung ứng
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tác động đến sức khoẻ của nền kinh tế và do đó ảnh hởng đến đời sống của mọi
ngời chúng ta. Điều đó nó lên tầm quan trọng của chính sách tiền tệ.
NHTW thực hiện chính sách tiền tệ tức là quá trình NHTW kiểm soát
tiền tệ sao cho khối lợng tiền tệ cân đối với mức tăng tôngr sản phẩm quốc dân
danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền. Một chính sách tiền tệ
đúng đắn phải hớng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm lợng
tiền cung ứng, làm tăng hoặc giảm khối lợng tiền tệ nói chung chứ không phải
chỉ khống chế tiền mặt.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể đợc xác định theo hai hớng:
Chính sách thắt chặt tiền tệ đợc dùng trong những thời kỳ có lạm phát
cao; với mục đích là làm giảm lợng tiền cung ứng. Từ đó dẫn tới việc lãi suất
tăng, tiêu dùng và đầu t giảm, xuất khẩu vòng giảm, GNP giảm, việc làm giảm
thất nghiệp tăng, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách mở rộng tiền tệ đợc dùng khi nền kinh tế suy thoái. Mục đích
là tăng lợng tiền cung ứng, lãi suất giảm. Và từ đó tiêu dùng và đầu t tăng, xuất
khẩu vòng tăng, GNP tăng, việc làm tăng, thất nghiệp giảm.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Do chính sách tiền tệ là một phần của chính sách kinh tế vĩ mô nên
những mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là mục tiêu của chính sách kinh tế
vĩ mô.
NHTW thờng đề ra 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ của mình.
Đó là việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trờng tài chính và ổn định thị
trờng ngoại hối. Đây là những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Nếu nền kinh tế đang diễn ra những vấn đề đó thì chính sách tiền tệ
nhằm làm cho mọi hoạt động kinh tế không tách rời những mục tiêu đó. Nếu
những vấn đề đó cha có thì chính sách tiền tệ phải luôn hớng tới chung.
Thử thách lớn nhất trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ
thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô chính là xử lý hài hoà hàng loạt mối quan
hệ vốn mâu thuẫn với nhau trên tất cả các công cụ đó: Giữa mục tiêu kiềm chế
lạm phát và mục tiêu tăng trởng kinh tế; giữa lợi ích chung (kiềm chế lạm phát
và tăng trởng kinh tế) với lợi ích của các NHTM và tổ chức tín dụng giữa lợi
ích ngời gửi tiền với nhà kinh doanh tiền tệ và ngời vay vốn. Chính vì vậy cần
tìm đến những điểm dung hoà khi tìm ra những mục tiêu trung gian, những mục
tiêu đợc coi là cấp bách nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việc lựa chọn các mục tiêu trung gian phải xuất phát từ việc thiết lập
càng chặt chẽ, càng tốt mối quan hệ qua lại thật hoàn hảo giữa mục tiêu trung
gian với mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian phải là mục tiêu mà NHTM
bằng việc sử dụng những phơng tiện hiện có, có thể kiểm soát đợc, giải quyết
đợc.
Vậy những mục tiêu chính là mục tiêu về tỷ suất lợi tức và mục tiêu về số
lợng cung tiền, số lọng có số tiền.
Tuy nhiên, NHTM không thẻ thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu ổn định
lãi suất và ổn định mức cung ứng tiền tệ.
Nếu đảm bảo mức cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận thay đối lãi suất
(hình a). Nếu muốn ổn định lái suất, thì buộc phải thay đổi l ợng cung ứng tiền
tệ một khi lợng cầu tiền thay đổi (hình b). Trên thực tế, NHTM thờng muốn
điều chỉnh lãi suất để đảm bảo mức cung ứng tiền.
Từ việc xác định đợc mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM chỉ đạo
chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng các công cụ để tác động vào thái độ của
ngân hàng, nhờ đó tác động đến lợng tiền cung ứng.
c. Ba công cụ chính mà NHTM sử dụng để tác động đến l ợng cung ứng
tiền tệ, đó là:
+ Nghiệp vụ thị trờng mở: là nghiệp vụ đợc tiến hành khi NHTW thay
đổi cơ số tiền bằng cách mua vào (nếu muốn làm tăng cơ số tiền) hoặc bán ra
các chứng khoán (nếu muốn làm giảm cơ số tiền) trên thị trờng.
Ta cũng thấy rằng có rất ít khác biệt khi NHTW giao dịch trực tiếp với
các ngân hàng khác hoặc với các tổ chức công cộng phi ngân hàng. Các ngân
hàng luôn có tiền dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc để đề phòng sự bất định về
lãi suất trên thị trờng tiền tệ. Mặt khác, các ngân hàng phải có một lợng chứng
khoán đáng kể khi cần vốn khả dụng, họ buộc phải bán ngay một phần đó đi.
9
(hình a)
Lượng tiềnM
M
S
Md
1
Md
2
i
1
i
2
i
(hình b)
Lượng tiềnM
1
M
2
M
S1
M
S2
Md
1
Md
2
2
1
i
i
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nếu NHTW bán chứng khoán cho trực tiếp chứng khoán cho hệ thống chứng
khoán cho hệ thống ngân hàng, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng sẽ giảm ngay
lập tức. Nếu NHTW bán chứng khoán cho công chúng, các cá nhân sẽ trả lại
bằng séc theo tài khoản của họ ở ngân hàng, làm cho dự trữ tiền mặt của ngân
hàng lại bị giảm sút. Nh vậy là, cả hai trờng hợp bằng nghiệp vụ thị trờng mở
trong lĩnh vực chứng khoán tài chính NHTW làm biến đổi cơ số tiền, dự trữ tiền
mặt của các ngân hàng khoản cho vay tiền ký gửi và lợng cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trờng mở có hai loại:
Nghiệp vụ thị trờng mở năng động: NHTW chủ động tiến hành các việc
mua bán chứng khoán để thay đổi mức dự trữ của NHTW, do đó làm thay đổi
cơ số tiền và thay đổi lợng cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trờng mở thụ động đợc tiến hành khi cần thiết phải đối phó
lại những tác động của các nhân tố khác làm ảnh hởng đến cơ số tiền.
NHTW nhờ có nghiệp vụ này đã kiểm soát đợc hoàn toàn thị trờng tự do.
Nghiệp vụ thị trờng tự do linh hoạt và chính xác có thể đợc sử dụng ở bất cứ
mức độ nào. Nghiệp vụ thị trờng tự do dễ dàng đợc đảo ngợc lại khi có một sai
lầm sẩy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trờng tự do, NHTW có thể lập tức
đảo ngợc lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ
tăng quá nhanh do nó mua trên thị trờng tự do quá nhiều thì nó có thể sửa chữa
ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trờng tự do.
Nghiệp vụ thị trờng tự do có thể đợc hoàn thành nhanh chóng không gây
nên những chậm trễ về mặt hành chính. Và tác dụng của nghiệp vụ thị tr ờng tự
do đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dụng đó đối với
cơ số tiền tệ.
+ Chính sách chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW tính với NHTM khi họ muốn
vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu NHTW tác động đến l ợng dự trữ của
NHTM. Các NHTM phải cân đối lãi suất họ sẽ thu đợc một khoản cho vay biên
(có tính đến cả những nguy cơ và chi phí có kiên quan nếu có dòng tiền mặt rút
ra bất thình lình và lớn) với lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu cao hơn
làm tăng phí vay từ NHTW, nh vậy các NHTM sẽ vay chiết khấu ít hơn, và từ
đó làm giảm bớt có số tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi suất chiết
khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân hàng và khối l -
ợng vay sẽ tăng lên, làm tăng cơ số tiền và tăngcung ứng tiền tệ.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những điều kiện dễ dàng của NHTW mà theo đó những khoản cho vay
chiết khấu đợc cung cáp cho các ngân hàng đợc gọi là cửa sổ chiết khấu.
NHTW có thể tác động đến khối lợng vay chiết khấu bằng hai cách: bằng
cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết khấu) nh phần trên đã
trình bày hoặc bằng cách tác động đến số lợng vay thông qua việc NHTW quản
lý cửa sổ chiết khấu.
Các khoản vay chiết khấu mà NHTW cấp cho các NHTM có ba loại: tín
dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ, và tín dụng mở rộng.
Tín dụng điều chỉnh, đây là loại tín dụng thông dụng nhất, nhằm giúp cho
các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị
tạm thời rút ra.
Tín dụng thời vụ đợc cấp để đáp những ứng nhu cầu thời vụ của một số ít
ngân hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời
vụ.
Tín dụng mở rộng đợc cấp cho các NHTM bị khó khăn nghiêm trọng về khả
năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra; thì không yêu cầu hoàn trả nhanh chóng
ngay. Những ngân hàng đợc cấp loại tín dụng này phải nộp một bản đề nghị
trình bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại
khả năng hoàn trả của ngân hàng.
Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hởng đến cơ số tiền tệ và
cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn
sụp đổ tài chính. Vai trò quan trọng nhất của NHTW là trở thành ngời cho vay
cuói cùng, nó phải cung cấp dự trữ cho ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ
phá sản, do đó ngăn chặn những cn sụp đổ ngân hàng và tài chính. Sử dụng
công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai
trò ngời cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính
sách tiền tệ thành công.
Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là nếu một ngân hàng biết đợc NHTW sẽ
cấp cho mình tín dụng chiết khấu khi ngân hàng gặp khó khan thì nó dám mạo
hiểm chấp nhận nhiều rủi ro hơn vì tin rằng NHTW sẽ đến giải quyết khó khăn
cho nó. Vai trò ngời cho vay cuối cùng của NHTW tạo ra nh một vấn đề may
rủi về tinh thần.
So với công cụ nghiệp vụ thị trờng tự do, việc sử dụng chính sách chiết
khấu để kiểm soát cung ứng tiền tệ hình nh không có hiệu quả bằng các nghiệp
vụ thị trờng tự do hoàn toàn là sự tự do hành động của NHTW trong khi khối l -
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ợng cho vay chiêtài sản khấu lại không nh vậy. NHTW có thể thay đổi lãi suất
chiết khấu nhng không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa các nghiệp
vụ thị trờng tự do dễ dàng đợc đảo ngợc lại hơn là đảo ngợc những thay đổi
trong chính sách chiết khấu, việc can thiệp vào thị tr ờng mở sẽ đợc a chuộng
hơn kỹ thuật tái chiết khấu vì nó mềm dẻo hơn.
Đối với các nghiệp vụ tái chiết khấu, chính các NHTW đóng vai trò bị
động, do phải đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NHTW. Trong hệ thống thị tr ờng
mở, NHTW đóng vai trò chủ động bởi vì chính NHTW yêu cầu vốn khả dụng
cho thị trờng tiền tệ. Phơng thức thị trờng mở không chỉ cung cấp vốn khả dụng
cho các NHTM trên thị trờng tiền tệ mà còn rút vốn khả dụng ra khỏi thị trờng
tiền tệ. Điều đó giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lợng vốn khả dụng ngân hàng và
lãi suất trên thị trờng.
Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy hai công cụ trên đều có những mặt u
nhợc điểm riêng nhng chúng đều có mục đích là đảm bảo tái cấp vốn của
NHTW cho NHTM.
Ngoài hai công cụ trên, NHTW còn sử dụng công cụ là quy định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc (Rd)
+ Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với các khoản
ký gửi mà NHTW yêu cầu NHTM phải duy trì.
Khoản dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ cần thiết để NHTM có thể ứng
phó với những luồng tiền mặt rút ra bất ngờ.
Nếu một khoản dự trữ bất buộc đang có hiệu lực, các NHTM có thể giữ l -
ợng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu nhng không đợc giữ ít hơn.
Nếu lợng tiền mặt của họ giảm xuống xuống thấp hơn l ợng bắt buộc, họ phải
vay tiền mặt ngay, thờng là vay của NHTW để khôi phục lại tỷ lệ dự trữ bắt
buộc
Khi NHTW quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà
các ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình hình nào thì hậu quả của
nó là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các ngân hàng, làm giảm giá
trị của thừa số tiền và giảm lợng cung tiền đối với bất kỳ cơ số tiền bất định
nào.
Một khoản dự trữ bắt buộc có tác dụng nh một khoản thuế đánh vào các
ngân hàng bằng cách bắt buộc họ phải duy trì một khoản dự trữ cao hơn trong
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tổng số các khoản có dới dạng dự trữ ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các
khoản cho vay có lãi suất cao.
Hệ thống dự trữ bắt buộc tạo nên một mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền
do NHTM thực hiện (bằng việc làm xuất hiện tiền gửi) và nhu câù tái cấp vốn
tại NHTW. Hệ thống này rất mềm dẻo vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền
tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng ngân hàng, NHTW có thể điều chỉnh tỷ lệ dự
trữ bắt buộc. Đặc biệt, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể điều hoà vốn khả
dụng ngân hàng khi có nguồn thu ngoại tệ lớn. Hệ thống này có sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng bởi vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong
toàn hệ thống.
Ba công cụ kể trên đây có tác dụng tổng quát là kiểm soát khối l ợng cho
vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối lợng tiền tệ nói chung. Nhng ngân
hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ cho ai vay tuỳ sự xét đoán của mình, điều
đó có nghĩa là ba công cụ nên cha ảnh hởng đến cơ cấu tín dụng mà ngân hàng
trung gian cấp cho khách hàng. Nếu NHTW không áp dụng chính sách kiểm
soát tín dụng, ngân hàng trung gian sẽ chỉ hớng vào những nơi có thể thu đợc
lợi nhuận cao ít chú trọng tới những ngành có hoạt động lợi ích xã hội nhiều
hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng sẽ giới hạn mức tối đa cấp cho những ngành
hoạt động nào đợc xem nh u tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Chính sách
kiểm soát tín dụng gồm hai nội dung chính là hạn mức tài sản và quản lý lãi
suất.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chơng II
ngân hàng nhà nớc Việt Nam trong sự chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà nớc
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền
kinh tế chuyển tiếp
Qua qua trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trờng là hết sức khó khăn và phức tạp. Kinh tế trong giai đoạn
chuyển tiếp có khu vực kinh tế t nhân nhỏ nhng phát triển rất nhanh và nhanh
chóng và khu vực kinh tế Nhà nớc ngày càng co lại. Tuy nhiên, phần lớn các tr-
ờng hợp kinh tế t nhân không xuất hiện ngay lập tức mà dần theo thời gian và
khu vực kinh tế Nhà nớc cũng không hề có biểu hiện mất ngay.
Với sự phát triển của khu vực kinh tế t nhân, xây dựng đợc một hệ thống
tài chính vững chắc, lấy thị trờng làm có sở để đảm bảo cho các thành phần
kinh tế hoạt độngtốt là một việc làm hết sức cần thiết.
Trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trờng các nhà ra quyết
định phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa các mục tiêu đã đề ra; mặc dù sự
chuyển đổi hớng tới nền kinh tế thị trờng hàm ý rằng Chính phủ cần phải rút
khỏi vị trí thống trị của mình trong nền kinh tế nhng mặt khác cũng cần phải có
hoạt động của Chính phủ để giải quyết những nhiệm vụ mới suất hiện. Một
trong số những nhiệm vụ đó là xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc hữu
hiệu, lấy thị trờng làm cơ sở, thực thi một chính sách tiền tệ có hiệu quả.
Những nền kinh tế này thiếu hầu hết những tổ chức quan trọng của kinh
tế thị trờng, thị trờng cạnh tranh cho các nhân tố, các hàng hoá và dịch vụ, một
hệ thống tài chính cạnh tranh và đợc đầu t vốn đầy đủ, một cơ cấu pháp luật và
điều chỉnh nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính.
Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trớc đây, hệ thống tài chính
đều ở trạng thái tồi tệ. Tài chính hầu nh chỉ đóng vai trò ghi chép, lu giữ thụ
động, trong khi việc phân bố các nguồn lực do chính kế hoạch tập trung kiểm
soát
Các quyết định tín dụng đều đã đợc lên kế hoạch trớc. Hệ thống ngân
hàng bị suy kiệt vì nguồn vốn thấp, một số lợng lớn các khoản nợ không hoạt
động của các quốc doanh, các khoản cho vay gián tiếp tập trung theo khu vực
địa lý và khu vực ngành, ngân hàng tiết kiệm có mạng l ới chi nhánh nhỏ bé.
14