Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Tìm hiểu về Ngân hàng thương mại .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.09 KB, 92 trang )

NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
Nha Trang, ngày tháng năm 2006
Giám đốc
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Đà Lạt, ngày tháng năm 2006
Giáo viên hướng dẫn
NHẬN XÉT CỦA KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đà Lạt, ngày tháng năm 2006
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn mới,
hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước, ngành ngân hàng cần phải phát
triển bền vững, ổn đònh, thành công trong cạnh tranh và hội nhập.
Tuy nhiên, hoạt động Ngân hàng nước ta hiện đang gặp nhiều khó khăn
và còn không ít tồn tại nhất là hoạt động tín dụng còn chưa an toàn, có nhiều
rủi ro, chất lượng tín dụng chưa tốt.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên: Điều kiện kinh tế – xã
hội, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, khách hàng vay Ngân hàng; bản thân
các Ngân hàng TMCP, sự kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Nhà Nước và các
cơ quan chức năng…
Ở nước ta, từ 1996 – 1998, nếu theo tiêu chuẩn Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn
khoảng 13%, song theo tiêu chuẩn quốc tế lại không dưới 30% (báo cáo của
IMF, quý IV/2001) nghóa là tương đương với những nước có tỷ lệ nợ quá hạn
đặc biệt cao.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, năm 2002, tổng số nợ xấu
của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là hơn 20.000 tỷ đồng,
chiếm hơn 7,2% tổng dư nợ, chiếm khoảng 7,78% tổng dư nợ (nếu tính cả các
khoản chờ xử lý, nợ phải trả thay, nợ thanh toán…)
Đến năm 2004 tổng số nợ xấu giảm xuống còn trên 13.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
dưới 4%, thấp hơn tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế là 5%. Đến
năm 2005, tổng số nợ xấu lại tăng lên con số 17.500 tỷ đồng, nhưng tỉ lệ chỉ
chiếm 3,18% tổng dư nợ, riêng khối ngân hàng thương mại nhà nước thì tỷ lệ


này trên 5%.
Đến hết tháng 9/2006, thực trạng nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại và
tổ chức tín dụng chưa có con số công bố từ ngân hàng Nhà nước nhưng nhiều
chuyên gia cho rằng, con số tuyệt đối là hơn 20.000 tỷ đồng, tỷ lệ không biến
đổi nhiều, vẫn dưới mức 5% do tổng dư nợ cho vay và đầu tư cũng tăng nhanh
nhưng không phải không đáng quan tâm.
Song một số chuyên gia của một số tổ chức tiền tệ quốc tế và chuyên gia ngân
hàng thương mại trong nước cho rằng, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương
mại thực tế luôn luôn cao gấp khoảng 2 lần số liệu do Ngân hàng Nhà nước
công bố, hiện nay đang ở mức 7-8%, riêng cacù ngân hàng thương mại Nhà nước
đang ở mức trên 10%, thậm chí có chuyên gia cho rằng phải ở mức trên 15%.
Từ đó, chúng ta thấy việc nợ quá hạn phát sinh đã và đang đe dọa tình hình an
ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng. Do đó, xử lý nợ quá hạn trở thành
mục tiêu sống còn của ngành ngân hàng cần được ưu tiên và tập trung chỉ đạo
trong hoạt động của mình.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay
cũng như sự yêu thích của bản thân đối với lónh vực này, nên khi bước vào giai
đoạn thực tập, có điều kiện tiếp xúc thực tế, bản thân không ngần ngại đi vào
tìm hiểu và viết chuyên đề tốt nghiệp về đề tài này dẫu biết rằng đây là vấn
đề lớn và khó khăn. Tất nhiên với tầm hiếu biết còn hạn chế của mình, tôi biết
rằng bài viết sẽ chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Do vậy rất mong nhận được sự
chỉ bảo và đóng góp tận tình của quý thầy cô và mọi người. Nhân đây, kính xin
quý thầy cô trường Đại Học Nha Trang cũng như các anh chò hiện đang công
tác tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Phòng Giao Dòch Chợ Đầm nhận nơi tôi
lòng tri ân sâu sắc, những người đã giúp đỡ tôi trong việc hoàn thành chuyên
đề này.
Trân trọng!
M
1
2

3
4
9
9
9
11
11
12
12
14
15
18
19
20
22
22
24
24
27
30
30
30
30
30
31
31
31
32
33
33

33
34
ục lục Trang
Nhận xét của cơ quan thực tập
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Nhận xét của khoa quản trò kinh doanh
Lời nói đầu
Phần I: Lý luận chung về tín dụng ngân hàng
Tìøm hiểu về Ngân hàng thương mại
1. Sự hình thành và phát triển
2. Đònh nghóa
3. Chức năng của ngân hàng thương mại
Tín dụng ngân hàng
1. Nguồn gốc của tín dụng ngân hàng
2. Khái niệm
3. Phân loại tín dụng
4. Nguyên tắc của tín dụng ngân hàng
5. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
6. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Nợ quá hạn
1. Nợ quá hạn là gì?
2. Bản chất của nợ quá hạn
3. Phân loại nợ quá hạn
4. Tầm quan trọng của việc hạn chế nợ quá hạn
Phần II: Thực trạng nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng tại
ACB – Phòng Giao Dòch Chợ Đầm
I. Giới thiệu về Khánh Hòa và NH ACB – Phòng Giao Dòch Chợ
Đầm
1. Tình hình đặc điểm chung của Tỉnh Khánh Hòa
1.1 Tình hình xã hội

1.2 Tình hình kinh tế
1.3 Tình hình phát triển các hoạt động NH trên đòa bàn tỉnh KH
2. Ngân hàng TMCP ACB - Phòng Giao Dòch Chợ Đầm
2.1 Quá trình hình thành
2.2 Cơ cấu tổ chức và quản lý
2.3 Chức năng các phòng ban
2.3.1 Phòng hành chính
2.3.2 Phòng kinh doanh
2.3.3 Phòng kế toán
2
35
35
39
40
40
40
41
41
42
42
44
44
44
46
48
48
4849
49494950
51525253
555657

585965
71
.3.4 Phòng Giao dòch ngân qũy
II. Tình hình hoạt động tín dụng tại ACB - Phòng Giao Dòch Chợ
Đầm
III. Thực trạng nợ quá hạn
IV. Các nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn
1. Về phía khách hàng
2. Bản thân ngân hàng
3. Nguyên nhân khác
V. Các biện pháp hạn chế nợ quá hạn đã và đang được
áp dụng trong thời gian qua
Phần III: Những đề xuất nhằm quản lý nợ quá hạn trong hoạt động tín
dụng tại ACB Phòng Giao Dòch Chợ Đầm
Nhận đònh và đánh giá thực trạng hoạt động tại ACB Phòng Giao Dòch Chợ
Đầm
Những đề xuất
Các biện pháp thuộc về quản lý vó mô
1. Môi trường pháp lý
1.2.Hoàn thiện và nâng cao quy mô của “TT thông tin TD” (CIC)
2. Những biện pháp thuộc về nghiệp vụ ngân hàng
2.1 Thực hiện quy trình cho vay đầy đủ và chặt chẽ
2.2. Đầu tư phân tán
2.3. Vấn đề bảo hiểm tín dụng
2.4. Vấn đề tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng
3. Giải pháp cho phòng giao dòch
3.1. Đònh kỳ hạn trả nợ chính xác
3.2. Tăng cường thẩm đònh sau khi cho vay
3.3. Nâng cao kỹ năng, giảm tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng
3.4. Tăng cường thu hút nguồn vốn trung dài hạn

4. Giải pháp cho những năm tới
4.1 Cần xác đònh rõ quan điểm
4.2 Quản lý khách hàng bằng tài khoản sec
4.3 Sử dụng nghiệp vụ hoán đổi tín dụng (Credit Swaps)
4.4 Thực hiện quy trình cho vay đầy đủ và chặt chẽ
Kết luận
Phụ lục
Bốn bài học từ vụ án Epco – Minh Phụng
cho hoạt động quản lý rủi ro tín dụng
Tài liệu tham khảo
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
I. Tìøm hiểu về Ngân hàng thương mại
1. Sự hình thành và phát triển
Thuật ngữ “Ngân hàng” đã có từ rất lâu thế nhưng không phải bỗng
dưng ngân hàng đột nhiên xuất hiện trong nền kinh tế, ngân hàng đã đi từ
bước hình thành cực kỳ thô sơ và chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền
kinh tế đã là tác nhân thúc đẩy hoạt động ngân hàng không ngừng được cải
thiện nâng cao cả về thực hành lẫn lý thuyết để có được như ngày hôm nay.
Từ 3500 trước Công nguyên trở về trước, có rất ít tư liệu của một cái gì
mang tính chất giống như ngân hàng. Thời gian này cho đến năm 1800 trước
Công nguyên tư liệu cho biết là đã có một vài hoạt động mang tính chất khá
tương tự như hoạt động của ngân hàng, lòch sử gọi đây là “giai đoạn của các
ngân hàng sơ khai”. Hoạt động của các ngân hàng sơ khai này rất đơn giản:
bảo quản, giữ hộ tiền và đổi tiền hưởng hoa hồng. Cùng với thời gian, hoạt
động và vai trò của ngân hàng cũng liên tục phát thiển theo các điều kiện
kinh tế xã hội. Thế nhưng, từ thế kỷ thứ XVII trở về trước, ngân hàng chưa
phát triển và chưa giữ vai trò quan trọng, nó chỉ là một nghề mua bán và
làm dòch vụ thông thường, một loại hình thương nghiệp giống như các loại
thương nghiệp thuần túy khác. Trong thời gian này, người vay tiền nhiều
nhất của các tổ chức buôn tiền này là các vua chúa để thỏa mãn cuộc sống

xa hoa của mình. Trong khi đó, các nhà tư bản nông, công, thương nghiệp
thông chòu vay vốn của các ngân hàng này vì lãi suất quá cao, nuốt hết toàn
bộ lợi nhuận và một phần vốn tự có của họ. Thay vào đó, họ áp dụng cách
bán chòu hàng hóa cho nhau hoặc cho vay với mức lãi suất thấp hơn lợi
nhuận bình quân. Bên cạnh hai cách thức trên, họ góp vốn với nhau tạo ra
các ngân hàng, hội tín dụng để cho vay vốn với mức lãi suất có thể chấp
nhận được. Loại ngân hàng này đã ra đời ở các thành phố Venise (Ý) vào
năm 1589, Milan (Ý) vào năm 1593, Amsterdam (Hà Lan) vào năm 1600,
Nuremberg (Đức) vào năm 1621. Mãi đến cuối thế kỷ XVII mới xuất hiện
ngân hàng lớn nhất thế giơi, đó là ngân hàng Anh ở Luân Đôn. Ngân hàng
Anh là một công ty cổ phần lớn kinh doanh tín dụng tư bản với mức lãi suất
cho vay là 6%/năm làm cho các ngân hàng cho vay nặng lãi từ thời Trung
cổ bắt buộc phải hạ lãi suất theo và chuyển sang kinh doanh như ngân hàng
tư bản.
Trong suốt những thế kỷ sau đó, các ngân hàng tư bản khác ở khắp lục
đòa Châu u, Bắc u, Bắc Mỹ lần lượt ra đời và cùng với sự bành trướng
của các thế lực đế quốc, thực dân… các ngân hàng ở các nước thuộc đòa
cũng lần lượt ra đời như: ngân hàng Đông Phương của Anh thành lập tại
Trung Quốc, ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập năm 1875 tại Sài
Gòn của Việt Nam….
Thuật ngữ “ngân hàng” đã có từ lâu, tại thành Athene (Hy Lạp) các nhà
đổi tiền được gọi là các Trapezita (xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Trapeza” có
nghóa là cái bàn). Các Trapezita ngồi trước các bàn đổi tiền để nhận tiền
của giai cấp quý tộc, người giàu có… và cho các thương gia vay. Ý các
hoạt động mua bán, trao đổi, vay tiền được tiến hành trên các ghế dài gọi là
Banca. Đây cũng là xuất phát điểm cho các từ Banque (Pháp), Bank (Anh,
Mỹ, Đức), Banco (Ý)… có ý nghóa là ngân hàng cho tới ngày nay.
Trong thời đại ngày nay, việc kinh doanh tiền tệ không còn là loại hình
độc quyền riêng có của ngân hàng. Cùng với ngân hàng còn có những tổ
chức tài chính khác kinh doanh các loại hình tương tự như công ty bảo hiểm,

quỹ tiết kiệm, quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên, dù ở đâu,
NHTM vẫn là tổ chức tài chính lớn nhất, quan trọng nhất của giới kinh
doanh tiền tệ.
Mặc dù có một lòch sử lâu dài và một vai trò cực kỳ quan trọng đối với
nền kinh tế, đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí giữa các nhà nghiên cứu,
nhà kinh doanh trong việc đưa ra một đònh nghóa toàn vẹn nhất về NHTM.
Có tình trạng đó là do hoạt động NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng
nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và các vấn đề này luôn biến động theo sự
thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác, còn do tập quán luật pháp khác
nhau ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ dẫn đến quan niệm khác nhau về
NHTM. Vậy đâu là một đònh nghóa đúng nhất, được chấp nhận rộng rãi
nhất?
2. Đònh nghóa:
Có nhiều đònh nghóa khác nhau về NHTM nhưng về cơ bản thì đều toát
lên nội dung sau: NHTM là loại ngân hàng trực tiếp giao dòch với các công
ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân bằng việc nhận tiền gởi, tiền tiết
kiệm…, cho vay và cung cấp các dòch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói
trên. Có thể liệt kê ra đây một vài đònh nghóa:
Đạo luật ngân hàng của Pháp
“ Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình
thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về
chiết khấu, tín dụng và tài chính.”
Theo khoản 2 điều 20 luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.”
3. Chức năng của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển, NHTM thực hiện các
chức năng sau:
Chức năng trung gian tín dụng

Hoạt động trên lónh vực kinh doanh tiền tệ nên chức năng này là chức
năng cơ bản nhất của NHTM. Là người đi vay, ngoài vốn tự có, NHTM còn
đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để hình thành nguồn
vốn kinh doanh.
Là người cho vay, NHTM sẽ sử dụng nguồn vốn của mình đáp ứng mọi
nhu cầu về vốn ngắn hạn, trung dài hạn cho các doanh nghiệp, cá nhân và
ngay cả ngân sách nhà nước.
Thực hiện chức năng này, ngân hàng vừa huy động triệt để nguồn vốn
trong xã hội vừa kích thích quá trình luân chuyển vốn nhằm tái sản xuất mở
rộng.
Chức năng trung gian thanh toán
Với các dòch vụ về tiền tệ tín dụng, ngân hàng tổ chức công tác thanh
toán không dùng tiền mặt. đẩy, ngân hàng không chỉ là người thủ quỹ,
bảo quản tiền cho khách hàng mà còn thực hiện thanh toán chuyển khoản,
bù trừ giữa các khách hàng theo sự ủy nhiệm của họ, qua đó tạo điều kiện
cho sự ra đời của bút tệ, cùng với các phương tiện thanh toán như séc, L/C,
giấy nhờ thu… đặc biệt, với quá trình thanh toán bằng bút tệ, các NHTM đã
hình thành một khả năng tạo tiền và hủy tiền. Điều này có ý nghóa cực kỳ to
lớn: nền kinh tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép vượt,
nếu tiền cung ứng quá nhanh tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và theo nó sẽ là
hậu quả xấu mà quá trình kinh tế sẽ phải gánh chòu, chính NHNN thông qua
NHTM mà điều chỉnh được số cung cần thiết này. Ngoài ra nó còn góp
phần tiết kiệm chi phí về công tác in ấn, phát hành, bảo quản tiền…
II. Tín dụng ngân hàng
1. Nguồn gốc của tín dụng ngân hàng
Trong thời kỳ tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy, cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động đã được mở rộng thì
quan hệ H – T cũng được hình thành và bước đầu phát triển, tiền tệ ngày
càng thể hiện đầy đủ hơn các chức năng của mình.
Đây chính là tiền đề nảy sinh ra quan hệ tín dụng. Ban đầu người ta cho

vay bằng hiện vật, sau này quan hệ chủ yếu dưới dạng tiền tệ. Cũng trong
thời kỳ này có sự khác nhau ngày càng lớn về mức thu nhập dẫn đến phân
hóa giai cấp trong xã hội kẻ giàu ngừơi nghèo. Với thực trạng đó, để có tiền
đóng thuế, nộp tô, để bù đắp thiếu hụt trong sinh hoạt hàng ngày, những
người nghèo phải đi vay mượn của những người giàu và thế chấp bằng tư
liệu sản xuất. Quan hệ tín dụng ra đời trong giai đoạn này là tín dụng nặng
lãi và đã phát triển từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ phong kiến.
Trong thời kỳ này lãi suất cho vay rất cao nên người đi vay chỉ sử dụng tiền
vay vào mục đích tiêu dùng phi sản xuất. Do đó trong thời kì cho vay nặng
lãi tín dụng không phải là nhân tố kích thích sản xuất.
Cho đến khi chủ nghóa tư bản ra đời, quá trình tái sản xuất giản đơn với
quy mô nhỏ đã được thay thế dần bằng quá trình tái mở rộng với quy mô
lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với thực trạng đó các nhà tư bản
cần bổ sung thêm vốn nhưng không thể sử dụng tiền vay nặng lãi để đáp
ứng. Họ phải nhờ đến sự can thiệp của nhà nước để hạ lãi suất cho vay
xuống thấp nhưng không thành công. Do đó, khi giai cấp tư sản đã phát
triển đủ sức, họ góp vốn lại và cho nhau vay với lãi suất vừa phải, họ đã
thiết lập quan hệ tín dụng cho riêng mình và tước đoạt vai trò độc quyền tín
dụng của những kẻ cho vay nặng lãi. Đây cũng là thời điểm mở đầu cho
chặng đường phát triển mới ngày càng lớn mạnh của hệ thống tín dụng phục
vụ đắc lực cho quá trình phát triển tiến bộ xã hội.
Trong nền kinh tế ngày nay, cùng với yêu cầu khách quan của lónh vực
sản xuất-lưu thông-tiêu dùng…, hệ thống tín dụng cũng mở rộng về phạm vi
hoạt động và đa dạng về hình thức cho vay, từ đó tín dụng đã và đang phát
triển như một bộ phận không thể thiếu được trong quá trình phát triển kinh
tế nói chung.
2. Khái niệm
Tín dụng là một quan hệ giao dòch giữa hai chủ thể, trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất
đònh, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn

đã thỏa thuận.
Tóm lại, tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả,
trong giao dòch thể hiện nội dung sau:
Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trò nhất đònh,
giá trò này có thể dưới hình thức hiện vật hoặc tiền tệ.
Người đi vay sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất đònh, sau khi hết
thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho
vay.
Trong quan hệ tín dụng, người cho vay tin tưởng vào người đi vay hoàn
trả vào một ngày nào đó trong tương lai mà hai bên đã thỏa thuận. Điều này
cũng giúp cho việc lý giải nguồn gốc của chữ “tín dụng” xuất phát gốc từ
tiếng La tinh “creditum” nghóa là sự tin tưởng, tín nhiệm.
Giá trò hoàn trả thường lớn hơn giá trò lúc cho vay, hay nói cách khác là
người đi vay phải trả thêm phần lợi tức cho nhà cho vay.
Quan hệ tín dụng có thể được diễn tả theo mô hình sau:
Giá trò tín dụng T
Người cho vay
(Lender)
Người đi vay
(Borrwer)
Giá trò tín dụng + lãi
3. Phân loại tín dụng
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng: có 3 loại
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn vay dưới 1 năm
+ Mục đích: cung cấp để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho các doanh
nghiệp thuộc đối tượng vốn lưu động hoặc tín dụng tiêu dùng.
+ Nguồn trả nợ: Lấy từ bán sản phẩm nếu là tín dụng sản xuất và nguồn
bán hàng nếu là tín dụng lưu thông hoặc là từ tích lũy cá nhân nếu là tín dụng
tiêu dùng.
 Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm.

+ Mục đích: Chủ yếu được sử dụng để đầu tư, mua sắm tài sản cố đònh,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bò công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Nguồn trả nợ: Lấy từ tích lũy nội bộ trong doanh nghiệp và nguồn
khấu hao cơ bản.
 Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm.
+ Mục đích: Được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn cấp vốn cho xây
dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ
tầng, cải tiến, mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
+ Nguồn trả nợ: Lấy từ tích lũy hàng năm và từ khấu hao cơ bản.
- Căn cứ vào đối tượng tín dụng: có hai loại
 Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành
vốn lưu động của các tổ chức kinh tế. Tín dụng lưu động thường được sử dụng
để cho vay bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Loại tín dụng này
thường được chia ra làm các loại sau: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí
sản xuất và cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ
phiếu.
 Tín dụng cố đònh: Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài
sản cố đònh. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố đònh,
cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công
trình mới, thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
- Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng: có 4 loại
 Tín dụng thương mại: Là quan hệ giữa các doanh nghiệp được biểu
hiện dưới hình thức mua bán chòu hàng hóa. Tín dụng thương mại phát sinh do
sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng, do đặc tính thời vụ trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm khiến các nhà sản xuất phải mua bán chòu hàng hóa. Mua
bán chòu cũng là hình thức tín dụng vì nó chứa đầy đủ các nội dung cơ bản của
khái niệm tín dụng.
Cơ sở pháp lý xác đònh tín dụng thương mại là giấy nợ được thành lập
dưới hình thức: lệnh phiếu và hối phiếu

Vai trò tích cực của tín dụng thương mại:
+ Đáp ứng kòp thời vốn của các nhà doanh nghiệp.
+ Giúp tiêu thụ hàng hóa nhanh chóng và kòp thời.
 Tín dụng ngân hàng: Là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa
các tổ chức với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong mối quan hệ này, tín dụng
đóng vai trung gian nên ngân hàng vừa là người cho vay và là người đi vay.
Tín dụng ngân hàng được thể hiện dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền
mặt và bút tệ, trong đó bút tệ là chủ yếu.
 Tín dụng nhà nước: Là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa
nhà nước với nhân dân và các tổ chức khác. Theo đó, nhà nước chủ động vay
tiền để tăng nguồn thu ngân sách.
+ Tín dụng nhà nước được thể hiện bằng cách phát hành công trái.
+ Tín dụng nhà nước nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách.
 Tín dụng quốc tế: Là hình thức tín dụng thể hiện giữa nhà nước với
các quốc gia hay các tổ chức tiền tệ tín dụng quốc tế.
- Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: có hai loại
 Tín dụng cho vay không đảm bảo (ngày nay gọi là cho vay tín chấp):
Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người
thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với
những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành
mạnh, quản trò có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn nợ thứ hai bổ sung.
 Tín dụng cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay được ngân hàng cung
ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ
ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng khi vay vốn đòi
hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm
một nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả: có ba loại
 Tín dụng cho vay trả góp: là loại tín dụng cho vay mà khách hàng

phải hoàn trả gốc và lãi theo đònh kỳ. Loại cho vay này chủ yếu áp dụng cho
vay bất động sản, nhà ở tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh
nhỏ, cho vay trang bò kỹ thuật trong nông nghiệp.
Thông thường có 4 phương pháp trả góp sau:
+ Phương pháp cộng thêm
+ Phương pháp trả vốn gốc bằng nhau và trả lãi theo số dư vào cuối mỗi
đònh kỳ
+ Phương pháp trả vốn gốc bằng nhau và tính lãi trên mức hoàn trả của
vốn gốc.
+ Phương pháp trả vốn gốc bằng nhau và lãi bằng nhau trong tất cả các
đònh kỳ (phương pháp hiện giá).
 Tín dụng cho vay phi trả góp: Là loại cho vay được thanh toán một
lần theo thời hạn đã thỏa thuận
 Tín dụng cho vay hoàn trả theo yêu cầu (áp dụng kỹ thuật thấu chi)
4. Nguyên tắc của tín dụng ngân hàng
Theo Điều 6 “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”
thì khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo 2 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng.
Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu về
phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các đơn vò
kinh tế tín dụng cũng phải đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn vò hoàn thành nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh của mình.
Nguyên tắc 2: Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc này đề ra nhằm đảm bảo cho các ngân hàng thương mại tồn tại và
hoạt động một cách bình thường bởi vì nguồn vốn cho vay của ngân hàng chủ
yếu là nguồn vốn huy động, đó là một bộ phận tài sản của các sở hữu chủ mà
ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng. Ngân hàng cũng có nghóa vụ đáp ứng

các nhu cầu rút tiền của khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng
không được hoàn trả đúng hạn thì nhất đònh sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng thanh khoản của ngân hàng.
5. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng:

×