Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Bài đọc thêm bài học từ một vụ siêu lừa (india the economist)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.27 KB, 6 trang )

Bài đọc thêm
Bài học từ một vụ siêu lừa
Mô hình “kim tự tháp” giúp giải quyết vấn đề mà người sáng lập tập
đoàn Nissan của Nhật Bản ở thời kỳ trước Chiến tranh Thế giới thứ 2 gọi là
“nỗi khó xử của nhà tư bản”: đó là làm thế nào để huy động vốn của người
ngoài mà không giảm quyền kiểm soát doanh nghiệp.
(KIỀU OANH lược dịch)
Những lợi ích và cái giá phải trả từ mô hình quản lý doanh nghiệp
kiểu “kim tự tháp”. Hẳn nhiều người còn chưa quên vụ gian lận sổ sách kế
toán khổng lồ mới bị phát giác ở tập đoàn dịch vụ thuê ngoài (outsourcing)
Satyam của Ấn Độ. Trong vụ này, người sáng lập Satyam, ông Ramalinga
Raju đã làm giả sổ sách kế toán để thổi phồng doanh thu và lợi nhuận công
ty trong suốt một thời gian dài mà không bị phát giác.
Vụ việc đã khiến hai kiểm toán viên của hãng kiểm toán
PricewaterhouseCoopers bị cảnh sát bắt giữ, các nhà chức trách bang
Bangalore nơi Satyam đặt trụ sở phải hứng chịu những lời chỉ trích nặng
nề. Chính phủ Ấn Độ mới đây đã tiến hành điều tra đối với 325 công ty có
liên đới tới vụ gian lận được xếp vào hàng lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ
này.
Vậy, bài học gì có thể được rút ra từ vụ này? Đó là những lợi ích
và cái giá phải trả từ mô hình quản lý doanh nghiệp kiểu “kim tự tháp”.
Kiểm soát từ đỉnh tới đáy
1/3
Cũng như ở nhiều nền kinh tế đang nổi lên, tại Ấn Độ, các công ty
hiếm khi tồn tại hay sụp đổ một mình. Các chuyên gia Tarun Khanna thuộc
Trường Kinh doanh Harvard và Yishay Yafeh thuộc Đại học Hebrew ở
Jerusalem cho rằng, 1/3 số doanh nghiệp ở Ấn Độ trong thập niên 1990
thuộc về một nhóm kinh doanh lớn hơn do những gia đình giàu có hoặc
“các nhà xúc tiến” doanh nghiệp kiểm soát. Những doanh nghiệp kiểu “câu
lạc bộ” này thường có quy mô lớn gấp 4 lần so với những công ty riêng lẻ.
Tại các khu vực khác của châu Á, mô hình doanh nghiệp kiểu theo


nhóm này cũng rất thịnh hành. Tại Hồng Kông, theo số liệu của năm 2000
của các nhà kinh tế Stijn Claessens thuộc Đại học Amsterdam, Simeon
Djankov thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) và Larry Yang thuộc Đại học
Hồng Kông, 15 gia đình kiểm soát lượng tài sản doanh nghiệp tương đương
với 84% GDP của nền kinh tế. Tại Malaysia, số gia đình tương tự kiểm
soát lượng tài sản doanh nghiệp bằng 76% GDP.
Những gia đình này có quyền lực kiểm soát doanh nghiệp lớn hơn rất
nhiều so với lượng cổ phần mà họ thực sự nắm giữ. Thực tế này đôi khi
xuất phát từ nguyên nhân họ sở hữu những cổ phiếu hạng ưu tiên và được
trao nhiều phiếu bầu hơn những cổ đông nắm giữ cổ phiếu phổ thông.
Trong nhiều trường hợp, những gia đình này chỉ định một người họ
hàng trung thành vào vị trí giám đốc điều hành. Tuy nhiên, chiến lược tham
vọng nhất để thực hiện sự kiểm soát của họ là xây dựng một “kim tự tháp”
doanh nghiệp.
Mô hình này hoạt động như sau: một gia đình nắm cổ phần kiểm soát
(chẳng hạn 51%) trong một công ty nằm trên đỉnh của “kim tự tháp”. Đến
lượt mình, công ty này lại nắm cổ phần tương tự trong một công ty ở tầng
2/3
thứ hai từ trên xuống, và công ty ở tầng thứ hai này là nắm cổ phần tương
tự ở một công ty tầng thứ ba.
Bằng cách này, gia đình ở đỉnh kiểm soát toàn bộ từ đỉnh tới đáy của
“kim tự tháp”, mặc dù mức cổ phần của họ trong công ty ở tầng thứ hai chỉ
là 26% (51% của 51%) và cổ phần của họ trong công ty ở tầng thứ ba chỉ là
13% (51% của 26%)…
Mô hình “kim tự tháp” giúp giải quyết vấn đề mà người sáng lập tập
đoàn Nissan của Nhật Bản ở thời kỳ trước Chiến tranh Thế giới thứ 2 gọi là
“nỗi khó xử của nhà tư bản”: đó là làm thế nào để huy động vốn của người
ngoài mà không giảm quyền kiểm soát doanh nghiệp.
Hai mối nguy
Tuy nhiên, các học giả nghiên cứu mô hình này lại có cách nhìn nhận

khác. Họ cho rằng, “kim tự tháp” mang trong nó cùng lúc hai mối nguy về
vấn đề quản lý và quyền sở hữu.
Trong một doanh nghiệp không theo mô hình “kim tự tháp”, nhà
lãnh đạo khó bị sa thải vì sở hữu phần lớn công ty. Tuy nhiên, ít nhất nhà
lãnh đạo này cũng muốn tìm cách đem lại mức cổ tức cao, vì bản thân ông
ta là người nắm giữ lượng cổ phần lớn nhất.
Ngược lại, trong những công ty áp dụng mô hình “kim tự tháp”, lãnh
đạo công ty dễ bị cho thôi việc, vì phần lớn họ được thuê làm sếp. Mặc dù
vậy, họ lại chẳng quá lo vì bản thân không hề có nhiều quyền lợi trong
doanh nghiệp mà họ lãnh đạo.
3/3
Theo nhận định của các kinh tế gia Randall Morck thuộc Đại học
Alberta, Daniel Wolfenzon và Bernard Yeung Đại học New York (Mỹ), mô
hình “kim tự tháp” là “sự kết hợp tồi tệ nhất”.
Các công ty theo mô hình này bị kiểm soát chặt chẽ bởi những gia
đình chỉ có cổ phần nhỏ bé ở doanh nghiệp dưới đáy của khối “kim tự
tháp”. Khi khoảng cách giữa quyền kiểm soát và sự sở hữu trở nên quá lớn,
vị “pharaoh” sẽ có tham vọng di chuyển các nguồn lực từ doanh nghiệp ở
đáy “kim tự tháp” - nơi gia đình ông ta nắm chỉ 13% cổ phần trong trường
hợp “tháp” có 3 “tầng” - lên doanh nghiệp trên đỉnh - nơi gia đình ông ta
nắm 51% cổ phần.
Trong một nghiên cứu thực hiện đối với 8 nền kinh tế ở khu vực
Đông Á gồm Hồng Kông, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines,
Singapore, Đài Loan và Thái Lan, nhà kinh tế Claessens thuộc Đại học
Amsterdam và cộng sự chỉ ra rằng, quyền kiểm soát của một gia đình trong
một khối “kim tự tháp” doanh nghiệp thường vượt rất xa so với lượng cổ
phần họ sở hữu. Khi khoảng cách này lên tới 35% trở lên, giá trị thị trường
của các công ty trong “kim tự tháp” giảm còn có 80% giá trị sổ sách.
Satyam có thể không phải là một phần của một khối “kim tự tháp”
doanh nghiệp nào đó, nhưng lại là một ví dụ điển hình về việc quyền kiểm

soát vượt quá lượng cổ phần sở hữu. Trước khi Raju thú nhận hành vi gian
lận hôm 7/1 vừa qua, cổ phần của gia đình ông ta trong Satyam đã giảm
xuống còn có 5% hoặc thậm chí thấp hơn.
Sự thật là, Satyam đã lên tới 218.000 cổ đông, nhưng gia đình Raju
vẫn là những người “làm mưa làm gió”. Ngay sau khi những thông tin này
4/3
bị lộ tẩy, giá trị thị trường của Satyam đã gần như rơi tự do. Không ai biết,
giá trị sổ sách của công ty là bao nhiêu.
Vẫn có lợi ích từ hiểm họa
Có người đặt câu hỏi, nếu mô hình doanh nghiệp “kim tự tháp” là
một hiểm họa đối với các cổ đông nhỏ như vậy, tại sao người ta vẫn cứ
mua cổ phiếu của các công ty này?
Câu trả lời có thể nằm ở ngay chính mức giá mà các nhà đầu tư nhỏ
có thể trả để mua cổ phần trong những doanh nghiệp kiểu này. Tại một số
quốc gia, giá cổ phiếu của cổ phần thiểu số có khi thấp hơn 40% so với giá
cổ phiếu của cổ phần kiểm soát.
Một câu trả lời khác cho câu hỏi trên là, mô hình “kim tự tháp” có
thể tạo sự ổn định và tương trợ lẫn nhau rất lớn giữa các doanh nghiệp
trong khối.
Kinh tế gia Khanna thuộc Trường Kinh doanh Harvard chỉ ra rằng,
những công ty có mức độ đa dạng hóa hoạt động cao trong các “kim tự
tháp” doanh nghiệp của Ấn Độ thường hoạt động tốt hơn những đối thủ
hoạt động độc lập. Có lẽ đó là nhờ họ nhận được sự “bảo đảm qua lại” giữa
các doanh nghiệp cùng nhóm, một ưu thế khó có thể mua được trên thị
trường.
Trong một nghiên cứu mới đây, nhà kinh tế Yan-Leung Cheung
thuộc Đại học Hồng Kông và các đồng tác giả đã xem xét hơn 290 giao
dịch giữa các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Trung Quốc và
công ty nắm cổ phần kiểm soát của họ.
5/3

Kết quả cho thấy, 132 giao dịch trong số này đem lại lợi ích cho các
cổ đông thiểu số. Chẳng hạn, vào tháng 8/2001, công ty Luoyang Glass
niêm yết trên sàn Thượng Hải nhận được khoản vay 28 triêu USD từ công
ty mẹ là một công ty quốc doanh không niêm yết. Ngay sau đó, giá cổ
phiếu của Luoyang đã lên giá 8,1%.
Trong lời thú nhận của mình, Raju cho hay cá nhân ông ta đã huy
động 12,3 tỷ Rupee (250 triệu USD) để duy trì hoạt động cho Satyam. Có
thể ông ta nói thật, có thể ông ta đã nỗ lực vì công ty. Nhưng theo tờ Indian
Express của Ấn Độ, hiện Raju đang đòi công ty trả lại ông ta số tiền này.
(Theo Economist)
6/3

×