LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài:
Trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường mở, thương mại quốc tế trở thành phổ
biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của nước này hay
nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ nước này sang nước khác, các quốc gia
phải dựa vào tỷ giá hối đoái (hối suất). Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ giữa giá trị đồng tiền
nước này với giá trị đồng tiền nước khác. Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ
yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước. Bởi
vì tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập khẩu tư bản
(vốn), giá cả hàng hóa trong nước, do đó nó có cũng tác động không nhỏ đến nền kinh tế
quốc dân của một nước.
Qua nhiều thập kỷ, chính sách quản lý ngoại hối được xem là một trong những thử
thách khó khăn nhất cho những nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trước đây trong điều
kiện của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tác dụng điều tiết của tỷ giá hối đoái bị hạn
chế rất nhiều và hầu như không phát huy tác dụng, trong một thời gian dài ở nước ta tỷ giá
hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị
trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng giá trị của đồng tiền nội tệ. Tuy nhiên, trong
xu thế cải cách từ một nền kinh tế kế hoạch đóng cửa sang một nền kinh tế thị trường mở,
thể chế kinh tế mới ngày càng được xác lập và phát triển. Để thích ứng với nền kinh tế thị
trường, đòi hỏi trong kinh tế đối ngoại cần triệt để phát huy tác dụng điều tiết của tỷ giá
hối đoái đối với xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập khẩu tư bản.
Chỉ sau một năm khi ra nhập WTO, nước ta đã phải đối mặt với khủng hoảng tài chính
toàn cầu năm 2008-2009 là sự phát triển và lan tỏa của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ
năm 2007. Vậy trong khủng hoảng, Việt Nam đã có những cách ứng phó gì? Kết quả thực
hiện như thế nào? Bằng những chính sách tỷ giá như vậy chúng ta đã có thể vượt qua
khủng hoảng hay chưa? Những vẫn đề ấy được giải quyết trong đề tài “Tỷ giá hối đoái
của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1
Trên cơ sở lý luận về tỷ giá, đề tài tập trung nghiên cứu diễn biến tỷ giá ở nước ta trong
thời kỳ khủng hoảng. Bên cạnh đó, nêu ra và phân tích những động thái của ngân hàng
trung ương về việc điều chỉnh tỷ giá trong thời kỳ đó để rút ra kết luận xác thực về những
giải pháp mà ngân hàng trung ương đã tiến hành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài lấy tỷ giá hối đoái giữa VND với các ngoại tệ khác làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là những nội dung cơ chế chính sách của Nhà nước đối với TGHĐ.
Bên cạnh đó, phân tích mục tiêu mà ngân hàng trung ương đã đạt được trong việc điều
chỉnh tỷ giá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê phân tích, phân tích tổng hợp, quy nạp, diễn dịch,
phương pháp nghiên cứu trường hợp. Đồng thời kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phân
tích, tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam, cũng như dựa trên quy luật tất yếu khách
quan của một vấn đề kinh tế xã hội để hình thành nên chuyên đề.
5. Kết cấu đề tài
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
3. Phân loại tỷ giá:
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ GIÁ:
1. Quan hệ cung – cầu về ngoại hối trên thị trường
2. Mức chênh lệch lãi suất
3. Mức chênh lệch lạm phát
4. Sự can thiệp điều chỉnh của nhà nước
5. Các yếu tố khác
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG
I. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái
3. Thời kỳ 1992-2/1999
4. Giai đoạn 1999 đến 2008: Thả nổi có điều tiết
II. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG (2008-đầu 2010)
1. Năm 2008
2. Năm 2009
3. Đầu năm 2010
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM
1. Các giải pháp điều hành chính sách tỉ giá trong khủng hoảng.
2. Giải pháp điều hành chính sách tỉ giá hối đoái sau khủng hoảng:
3. Phương hướng điều hành chính sách tỷ giá
hối
đoái ở Việt Nam hiện
nay
3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
• Định nghĩa tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ
nước này sang thành những đơn vị tiền tệ nước khác.
• Các hình thức biểu hiện:
- Biểu hiện trực tiếp: là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng bao nhiêu đơn
vị tiền tệ của nước mình.
+ Đặc điểm: Ngoại tệ là đồng yết giá, còn tiền trong nước là đồng định giá.
Đây là phương pháp phổ biến trên thế giới hiện nay.
- Biểu hiện gián tiếp: Là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng
bao nhiêu đơn vị tiền tệ.
+ Đặc điểm: Tiền trong nước là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng định giá.
Hình thức này phổ biến ở nước Anh và một số nước thuộc liên hiệp Anh.
• Vai trò của tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tác động đến giá cả tương
đối của hàng hóa trong nước và hàng hóa nước ngoài. Qua đó tác động đến tình hình xuất
nhập khẩu hàng hóa và sự cạnh tranh hàng hóa giữa các nước với nhau trên thị trường quốc
tế.
+ Khi đồng tiền của một nước tăng giá, hàng hóa của nước đó tại nước ngoài đắt hơn
và hàng hóa nước ngoài tại nước đó rẻ hơn. Điều này dẫn đến những nhà sản xuất trong
nước đó gặp khó khăn hơn trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài.
+ Khi đồng tiền rẻ của mỗi nước sụt giá thì hàng hóa của nước đó tại nước ngoài rẻ hơn
trong khi hàng hóa nước ngoài tại nước đó đắt hơn.
Những nhà sản xuất trong nước có ưu thế cạnh tranh trong việc bán hàng ở thị
trường nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu.
2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
a. Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
4
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước khác mua
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu
đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trường ngoại hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó dốc xuống phía bên phải,
điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hóa càng trở nên đắt hơn đối với
những người nước ngoài và ít hàng hóa xuất khẩu hơn.
b, Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ phải mua một
lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượng tiền này của nước
A khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên trên ở phia phải. Tỷ
giá hối đoái càng cao thì hàng hóa nước ngoài càng rẻ và hàng hóa ngoại được nhập khẩu
ngày càng nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng thị trường của cung
và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền hoặc làm giảm cung của nó đều có xu
hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên.
3. Phân loại tỷ giá:
Trong thực tế tùy từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào đó của tỷ giá
hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ
giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau:
a. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai loại:
- Tỷ giá điện hối là tỷ giá ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối
bằng điện (telegraphic transfer – T/T)
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển
ngoại hối bằng thư (mail transfer – M/T)
b. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà nước công bố được hình thành trên cơ sở ngang giá
hàng.
5
- Tỷ giá tự do: là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu quy
định.
- Tỷ giá thả nổi: là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không can
thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định: là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
c. Căn cứ trong phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại trái phiếu có kỳ hạn bằng
ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản ngoại
hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng tiền
mặt.
d. Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá váo cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhân ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ
được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối
sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng (có thể là 1, 2, 3 tháng sau).
e. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá chia ra làm hai
loại:
- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ GIÁ
1. Quan hệ cung – cầu về ngoại hối trên thị trường
6
Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động
của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau
trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn
đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân
thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân
thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và
dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng
lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh
doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu
cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ
đẩy tỷ giá lên cao.
2. Mức chênh lệch lãi suất
Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối
đoái trên thị trường, điều chỉnh tỷ giá đối ngoại của nội tệ. Nước nào có lãi suất ngắn hạn
cao hơn nước khác thì vốn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó
sẽ làm cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, tỷ gái hối đoái sẽ giảm xuống.
Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ. Tuy nhiên, đồng nội tệ lên
giá tạo cho gái cả hàng hóa nhập khẩu trở nên rẻ hơn và do đó tạo ra áp lực giảm giá hàng
nội địa, làm kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
3. Mức chênh lệch lạm phát
Lạm phát là nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến tỉ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội
tệ. Lạm phát cao làm gia tăng lãi suất tương đối của tiền gửi bằng ngoại tệ so với đồng nội
tệ, kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ, tức là tỷ giá hối đoái tăng. Nói cách khác, lạm
phát có tác động ngược chiều với giá trị của đồng nội tệ. Lạm phát cao hơn tương đối so
với nước ngoài dẫn đến tỷ giá tăng lên, sức mua của nội tệ giảm giá so với ngoại tệ. Theo
điều kiện ngang giá sức mua, đồng nội tệ sẽ giảm giá và ngược lại, giá trị nội tệ sẽ gia tăng
nếu lạm phát của quốc gia thấp hơn tỷ lệ lạm phát của nước có đồng tiền đối ứng. Tóm lại,
trong một cặp hai đồng tiền, đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lam phát cao hơn sẽ bị giảm
giá so với đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, và ngược lại.
7
Lạm phát tác động trực tiếp đến giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu, làm ảnh hưởng đến
tính cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới, qua đó làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Nếu tốc độ lạm phát của một quốc gia cao hơn nước khác, hàng xuất khẩu tính bằng ngoại
tệ của quốc gia này sẽ trở nên đắt hơn, khả năng cạnh tranh trơng thương mại quốc tế giảm
xuống. Điều này đồng nghĩa với cung ngoại tệ giảm. Còn đối với nhập khẩu, giá trị nhập
khẩu tăng nhẹ (do yếu tố lạm phát ở nước ngoài) nhưng mức tăng giá của hàng nhập khẩu
thấp hơn so với mức tăng giá của hàng hóa trong nước (do tỷ lệ lạm phát trong nước cao
hơn nước ngoài) nên cầu hàng nhập không giảm. Mặt khác, trong ngắn hạn, người tiêu
dùng trong nước chưa kịp thay đổi thói quen tiêu dùng, các doanh nghiệp nội địa chua kịp
sản xuất hàng thay thế hàng nhập, do đó nền kinh tế buộc phải trả một lượng ngoại tệ nhiều
hơn để nhập hàng. Hậu quả là cầu ngoại tệ gia tăng, cung ngoại tệ giảm, tạo áp lực đẩy giá
ngoại tệ lên, kéo nội tệ giảm giá.
Do đó muốn quản lý được thị trường ngoại hối và điều tiết tỷ giá theo mục tiêu nhất
định, cần kiểm soát lạm phát ở tỷ lệ hợp lý.
4. Sự can thiệp điều chỉnh của nhà nước
Vì tỷ giá có liên quan chặt chẽ tới ngoại thương cũng như các biến động kinh tế vĩ mô,
cho nên tất cả các ngân hàng trung ương đều phải can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết.
Các biện pháp hành chính: nhà nước ban hành các chính sách, chế độ, quy định, qui
chế, điều lệ… Áp dụng đối với hoạt động mua bán ngoại hối và các đối tượng tham gia
mua bán ngoại hối. Phương pháp này có hiệu lực tức thời, nhanh chóng lập lại trật tự trên
thị trường hối đoái, tăng chi phí lưu thông, xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài,
có thể gây ra những phản ứng từ phía các đối tác.
Chính sách chiết khấu: là những chính sách thay đổi lãi suất chiết khấu của ngân hàng
trung ương, điều chỉnh lãi suất trên thị trường tiền tệ, làm thay đổi tỷ giá. Chính sách chiết
khấu là chính sách điển hình của các nước kinh tế thị trường phát triển, những nước mà
đồng tiền của họ có vị trí quan trọng trong thương mại và tài chính quốc tế, thường được
mua bán trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, chính sách chiết khấu chỉ có ảnh hưởng nhất
định và có hạn đối với tỷ giá, vì lãi suất không phải là nhân tố duy nhất tác động tới những
biến động tỷ giá.
8
Chính sách hối đoái: còn gọi là chính sách thị trường mở (open market policy): nhà
nước thông qua ngân hàng trung ương trực tiếp mua bán ngoại hối trên thị trường để điều
chỉnh tỷ giá. Chính sách này trên thực tế cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, vì muốn can
thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả, nha nước phải có một lượng dự trữ ngoại tệ rất
lớn.
Nâng giá hoặc phá giá tiền tệ: Nâng giá thường chỉ xảy ra khi đồng tiền nước đó bị
định giá thấp quá so với giá trị thực hoặc dưới sực ép của các nước khác do xuất siêu lớn,
hay do nước đó muốn tăng nhập khẩu để tạo cân bằng trong cán cân thương mại, hạn chế
lạm phát. Ngoài ra, nâng giá đồng tiền còn được xem là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa
các đồng tiền bị mất giá chạy vào nước mình. Phá giá tiền tệ thường được tiến hành khi
đồng tiền của nước đó bị mất giá trầm trọng. Phá giá là một trong những biện pháp nhằm
đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện tình trạng cán cân thương mại và cán
cân thanh toán quốc tế.
5. Các yếu tố khác
Trên thực tế, tỷ giá còn chịu sự tác động của các yếu tố khác như những cú sốc kinh tế,
chính trị, xã hội, hoạt động đầu cơ, hoặc các yếu tố tâm lý. Hành vi của các thành viên chủ
yếu trên thị trường hối đoái cũng có thể có tác động tạm thời lên tỷ giá, bất chấp ảnh
hưởng của những nhân tố cơ bản mang tính lâu dài. Chỉ cần sự kiện một nhà kinh doanh
trên thị trường mua hoặc bán một lượng ngoại tệ lớn mà không rõ lý do, cũng có thể làm
cho người khác hành động giống như vậy.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG
I. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội. Đây
là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN
trong hội đồng tương trợ kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng
giữa các nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay
đa phương.
9
Về giá cả, qua nhiều lần điều chỉnh, tổng điều chỉnh năm 1981-1982 và năm 1985, đến
cuối năm 1987, đã điều chỉnh sát giá thị trường nhiều loại vật tư cơ bản và giá mua các loại
nông sản. Cũng từ tháng 3-1989, bãi bỏ chế độ tỷ giá quyết toán nội bộ (khác xa với giá
thực tế), đưa tỷ giá đồng Việt Nam/đô la Mỹ lên sát giá thị trường quốc tế.
Có thể nói, trước năm 1987, toàn bộ chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Namthời kỳ
này tập trung vào việc ấn định trực tiếp tỷ giá hối đoái theo chế độ tỷ giá hốiđoái cố định.
Việc điều chỉnh tỷ giá giai đoạn này chủ yếu là do sự thay đổi bên ngoàinhư: việc mệnh giá
đồng tiền, sự thay đổi hàm lượng vàng của các đồng ngoại tệ cóliên quan…Từ năm 1987
đến 3/1989, có một số sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái như sau:
+ Tại Quyết định số 290-CT ngày 10/10/1987, E(SUR/VND) = 150 thay cho5,64 từ
năm 1959 (SUR mậu dịch); E(USD/VND) = 225 thay cho 18 từ năm 1985.Các tỷ giá này
áp dụng để quyết toán nội bộ giữa đồng VND với SUR và USD. Cònđối với các đồng tiền
của các nước khác XHCN, Ngân hàng Nhà nước căn cứ vào tỷgiá kết toán nội bộ trên và
mối tương quan với USD trên thị trường quốc tế để quyđịnh tỷ giá kết toán nội vụ cụ thể
cho từng đồng tiền.
+ Tại Quyết định số 326-CT ngày 30/11/1987, đã xác định thêm tỷ giá phi mậudịch đối
với đồng SUR là 204; tỷ giá chính thức E(USD/VND) = 638 thay cho 225như trên.Có thể
nói, trong vòng 1,5 tháng Nhà nước đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá chínhthức với USD lên
gần gấp 3 lần và đưa thêm một loại tỷ giá mới vào thị trường, đó làtỷ giá phi mậu dịch.
+ Tại Quyết định số 43-CT ngày 3/3/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết địnhkhông áp
dụng tỷ giá kết toán nội bộ đồng SUR và USD trong việc hạch toán, thanhtoán và quyết
toán tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nước và xuất nhậpkhẩu mà sử dụng tỷ
giá do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Trong giai đoạn 1985 - 1988, tỷ giá trên thị trường là E(SUR/VND) =
1500,E(USD/VND) = 3000. Rõ ràng, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ số tiền là
1.350đồng và 1 Đôla phải bù lỗ 2.775 đồng (năm 1987) và 2.362 đồng từ đầu
tháng12/1987. Tổng số tiền phải bù lỗ cho kim ngạch năm 1987 lên đến 900 tỷ VND.
Tìnhhình này dẫn đến một thực trạng là những địa phương, những ngành nghề nào đó
càngxuất khẩu thì ngân sách càng phải bù lỗ nhiều. nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ
10
dẫnđến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và tiếu vốn kinh doanh. Do tỷ giá chính thức
Equy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ tìm cách không bán cho
ngânhàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế
việcchuyển tiền vào tài khoản để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay
sửdụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường
2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái
Trong giai đoạn này trên thế giới diển ra tình trạng sụp đổ của các nước Đông Âu, Liên
Xô. Quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống bị gián đoạn,
khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989.
Năm
Tỷ giá USD/VND Lạm phát
Giá chính thức của
nhà nước
Giá thị
trường tự do
Tăng giảm
%
1989 4.200 4.570 +8.80 +34.070
1990 6.650 7.550 +13.50 +67.50
1991 12.720 12.550 -0.02 +68.00
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên
xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có
khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này
chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy
đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi đã:
- Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
- Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc
USD làm mất ổn định nền kinh tế.
- Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
11
- Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng
Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ đồng Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được
dùng cho các hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức
trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có
những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã mất hiệu lực ngay khi vừa mới
công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
3. Thời kỳ 1992-2/1999
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả của sự can thiệp của ngân hàng nhà nước vào
thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các
doanh nghiệp được giải tỏa khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập
khẩu. Đồng thời, ngoại tệ từ bên ngoài vào nhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo
ngược so với cùng kì mọi năm, giá Đôla giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư
nhân Hà Nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh
hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại
phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm
1993, hệ thống ngân hàng phải mua Đôla vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của
đồng tiền này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách
ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tháng 10/1994, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng
ra đời, thay thế hoạt động của 2 trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên ngân hàng có tính
quy mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ
chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn. Ngân hàng nhà
nước đã thông qua thị trường liên ngân hàng để năm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử
dụng tỷ giá chính thức công bố hàng ngày và biên độ quy định tỷ giá giao dịch cho các
ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hòa tỷ giá thị trường theo mục
tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á,
đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình
trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998,
12