Sáng kiến kinh nghiệm
chương i: Đặt vấn đề:
Để bắt nhịp với thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thế kỉ 21, đáp
ứng được mục tiêu giáo dục đào tạo của nước ta là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức sức khỏe thẩm mĩ… hơn lúc nào hết
người thầy cần phải kích thích ham muốn học tập của học sinh. Horaceman đã
từng nói: “Một ông thầy mà không dạy cho học sinh được ham muốn học tập
thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Muốn vậy người giáo viên cần phải
đào sâu suy nghĩ, tìm tòi để tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả nhất.
Tập làm văn là một môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở trường
tiểu học. Thông qua môn học này, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của
con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Các em có dịp
hướng tới cái chân, thiện, mĩ từ đó làm nảy nở tình yêu thiên nhiên, gắn bó với
thiên nhiên, với người và việc xung quanh mình. Tâm hồn , tình cảm càng thêm
phong phú. Đó là những nhân tố góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của trẻ.
Tuy nhiên đây là môn khó dạy, đặc biệt đối với những tiết trả bài. Theo quy
trình dạy học Tập làm văn thì tiết trả bài nằm ở giai đoạn cuối, nghĩa là giai
đoạn “ tổng kết đánh giá sản phẩm” vì thế, tiết học này luôn luôn đòi hỏi ở
người thầy sự nỗ lực không ngừng để tìm ra cách dạy sao cho người học cảm
thấy sự lý thú, ham muốn.
Bản thân tôi, khi dạy tiết Tập làm văn trả bài gặp nhiều khó khăn. Trong
tiết học, các em chỉ thích biết điểm số của mình, còn đến phần sửa các lỗi đã
mắc các em thường tỏ ra lúng túng và rất “ngại” sửa lỗi. Tôi thường phải đặt các
câu hỏi gợi ý, giảng giải cách sửa để từ đó các em biết được cách sửa lỗi đã mắc
trong bài viết của mình. Với phương pháp đó, học sinh được hoạt động một cách
độc lập nhưng không phát huy được trí lực của học sinh. Học sinh thường không
suy nghĩ xem sửa lỗi đã mắc thì phải làm như thế nào? Các em thường thụ động
chỉ sửa theo cách cô giáo đã gợi ý. Một số em làm bài sai chỉ biết là sai rồi chữa
bằng cách chép bài của bạn đã sửa trên bảng (phần sửa lỗi chung). Vì vậy, giờ
Tập làm văn trả bài trở nên rất khô khan, đôi khi trở thành nặng nề. Khi cần diễn
Sáng kiến kinh nghiệm
đạt một vấn đề gì thì học sinh lúng túng, trình bày không mạch lạc. Một số học
sinh thì mắc một lỗi đến vài lần chưa sửa được. Vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu
đưa ra một số biện pháp dạy học và đổi mới phương pháp trong giờ dạy Tập làm
văn trả bài để các em yêu thích, hứng thú trong học tập và viết được bài văn hay
hơn.
Việc học tốt phân môn này sẽ giúp các em học tốt rất nhiều các môn khác
như toán( có suy nghĩ, suy luận lôgíc, trả lời ngắn ngọn, đủ ý trong toán có lời
văn), như môn kể chuyện( biết cách diễn đạt của mình để kể lại đúng nội dung
mà không y hệt từng chữ trong sách giáo khoa). Đồng thời giúp các em tự tin
tham gia các hoạt động như sinh hoạt Đội, tham gia các câu lạc bộ phóng viên
nhỏ…Việc học tốt phân môn Tập làm văn trả bài giúp các em có thể tự soạn văn
bản và diễn đạt điều mình nêu.
Từ những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài:
“ Một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh lớp 5 học tốt tiết Tập
làm văn trả bài”.
Tôi hy vọng đề tài này sẽ nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp,
ngành giáo dục đào tạo để giúp giáo viên chúng tôi có vốn tri thức trong giảng
dạy, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Sáng kiến kinh nghiệm
chương II: GIảI QUYếT VấN Đề
i: cơ sở lý luận
Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là: Hình thành và phát triển ở học
sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao
tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng
Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy,
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam
và nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam
trong xã hội chủ nghĩa.
Trong chương trình tiếng Việt lớp 3, phân môn Tập làm văn tiếp tục trang bị
kiến thức và rèn luyện các kĩ năng làm văn cho học sinh, góp phần cùng các
môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic hình thành nhân cách
cho học sinh.
II. PHÂN TíCH thực trạng học sinh khi học tiết tập làm văn trả bài:
Ngay từ đầu năm học, khi mới nhận lớp tôi đã có kế hoạch khảo sát chất
lượng học môn tập làm văn của lớp mình.
Tôi ra đề kiểm tra:
Đề bài: Tả con vật mà em yêu quý nhất.
Kết quả bài viết của học sinh như sau: Học sinh viết bài tỏ ra hiểu đề,
song diễn đạt còn lộn xộn, viết câu sai nhiều, dùng từ chưa chính xác, chưa biết
viết những câu gợi tả, gợi cảm. Một vài học sinh đã biết sử dụng biện pháp tu từ
song chưa biết chọn chính xác để diễn đạt.
Kết quả cụ thể là:
Tổng số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu
Sáng kiến kinh nghiệm
32 3 5 16 8
- Khi dạy tiết Tập làm văn trả bài, tôi nhận thấy các em hoạt động không
sôi nổi. Phần sửa lỗi chung các em chữa bài rất thụ động, giáo viên phải gợi ý
nhiều. Phần tự sửa lỗi, học sinh chữa các lỗi đã mắc trong bài viết của mình rất
lúng túng. Khi tôi gọi học sinh nhận xét phần sửa lỗi đã mắc trong bài viết của
bạn thì chẳng có học sinh nào biết nhận xét. Học sinh nêu các ý kiến của mình
ấp úng, chưa biết cách sửa từ, sửa câu. Tiết học rất nặng nề, không hiệu quả.
- Sau tiết học, tôi yêu cầu học sinh viết lại bài viết của mình sau khi đã sửa
lỗi để nộp cho cô giáo. Học sinh viết lại bài song một số lỗi vẫn chưa được sửa.
Sau khi tìm hiểu qua điều tra thực tế, tôi có nhận xét như sau:
- Đa số học sinh chưa ý thức tốt trong học tập chữa bài.
- Học sinh chưa thực sự hứng thú học môn văn, chưa hiểu được các lỗi đã
mắc trong bài viết để mình viết bài văn hay hơn mà chỉ quan tâm đến việc nhận
bài để biết mình được mấy điểm.
- Học sinh chưa biết cách sửa từ, sửa câu…
- Sau khi được cô giáo trả bài viết học sinh chưa có thói quen viết lại bài văn
sau khi đã sửa các lỗi đã mắc để tự luyện viết văn.
- Học sinh chưa độc lập suy nghĩ nói ra cách hiểu của mình.
- Tiết học còn gò ép trong khuôn mẫu sáo rỗng, không đạt hiệu quả. Thấy
được thực tế việc học tiết Tập làm văn trả bài của lớp mình như vậy, tôi đã
nghiên cứu, tìm ra các biện pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh học đạt hiệu quả
tốt như sau:
ii. một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh học tốt tiết tập làm văn trả
bài:
1. Chấm bài viết của học sinh, định hướng tổ chức giờ dạy:
- Mục đích của tiết Tập làm văn trả bài nhằm thông báo trả lại cho học sinh
kết quả học tập, đánh giá kết quả lao động, học tập về mặt tư tưởng, kiến thức,
kỹ năng viết văn bản, từ đó giúp học sinh rút kinh nghiệm bài làm, học sinh sửa
chữa những thiếu sót hay hạn chế trong bài làm của mình. Học sinh phát huy ưu
Sáng kiến kinh nghiệm
điểm của bản thân, học tập những thành công của bạn, đồng thời biết khắc phục
sai sót và tham gia nhận xét, giúp bạn sửa lỗi để bài viết của mình hay hơn.
- Chính vì nắm được mục đích, yêu cầu của tiết Tập làm văn trả bài như vậy,
tôi rất coi trọng việc chấm bài viết của học sinh, từ đó định hướng cách tổ chức
giờ dạy của mình.
- Chấm bài viết của các em thường khó hơn đánh giá kết quả học của các
môn khoa học khác (ví dụ: môn Toán) vì không thể có một đáp số, một lời giải
như nhau cho một đề văn, cách nghĩ, cách cảm, cách viết của mỗi em bao giờ
cũng riêng biệt, bài viết bao giờ cũng phong phú và muôn màu muôn vẻ.
- Khi chấm bài, tôi luôn tâm niệm rằng phải làm việc một cách nghiêm túc,
kỹ càng, chính xác bởi vì bài văn là kết quả lao động sáng tạo của các em.
Người giáo viên cần phải chắt lọc thành công của học sinh dù là nhỏ nhất.
Không được qua loa, tắc trách hoặc giận dữ, bực bội, có những lời phê phán để
lại trên bài làm ảnh hưởng đến hứng thú, niềm tin của học sinh.
- Đối với mỗi bài kiểm tra viết, sách giáo khoa Tiếng Việt 5 thường đưa ra
nhiều đề để học sinh lựa chọn. Chính vì vậy, trước khi chấm bài, tôi thường
chọn và xếp riêng các bài của từng đề, sau đó, xác định yêu cầu của đề bài, xây
dựng dàn bài của mỗi đề. Tuy nhiên, tôi không xem suy nghĩ cảm thụ của mình
là khuôn mẫu, chuẩn mực để áp đặt việc đánh giá học sinh mà tôn trọng, khuyến
khích cái riêng, cái mới, cái độc đáo trong mỗi bài viết của các em.
- Tôi tiến hành việc chấm bài theo 2 bước:
+ Bước 1: Phát hiện, đánh dấu những ưu, khuyết điểm trong bài viết của học
sinh: gạch dưới và ghi nhận xét ra ngoài lề bên trái. Ví dụ: lỗi chính tả ghi c.t,
thiếu chủ ngữ ghi c.n…
Đối với những học sinh yếu, kém, tôi chỉ ra sai sót trầm trọng nhất, không
bao giờ gạch nát cả bài, tránh gây cho em đó tâm lý thất vọng, chán nản. Tìm và
phát hiện cái hay, sự tiến bộ trong mỗi bài viết của các em một cách kịp thời.
“Phải biết khen các em bằng những nhận xét lạc quan, dù đó là một cố gắng
nhỏ nhất” đó là lời của những đồng nghiệp đi trước truyền lại mà tôi thật sự tâm
Sáng kiến kinh nghiệm
đắc và áp dụng triệt để khi chấm bài Tập làm văn. Tôi không bao giờ tiết kiệm
lời khen khi bình giá bài làm của các em, trăn trở với mỗi lời phê vào bài. Phát
hiện được một câu văn hay, một ý nghĩ độc đáo, sáng tạo, tôi đều đưa ra lời bình
(viết vào phần bài chữa được trình bày ở vở Tập làm văn), VD: “Một ý kiến thú
vị”, “Câu văn có hình ảnh”, “Bài viết thật độc đáo” …Tôi nhớ một lần, khi
chấm bài viết của một học sinh tả mẹ rất hay và xúc động, tôi đã phê như sau:
“Hiểu đề, bài viết có cảm xúc tốt. Chắc mẹ vui lắm khi đọc bài làm của em!”.
Tôi nhớ mãi ánh mắt tràn đầy niềm vui của em khi nhận được lời phê của tôi.
Em đã phát huy được những ưu điểm của mình trong các bài viết sau.
+ Bước 2: Chấm bài – ghi các ưu, khuyết điểm của học sinh vào sổ chấm chữa
của giáo viên.
Sau khi chỉ rõ ưu khuyết điểm của từng bài, tôi cho điểm dựa trên biểu điểm
đã được xây dựng trước. Điểm số ghi ngay ngắn, rõ ràng, đẹp bằng mực đỏ.
Tôi chuẩn bị một sổ chấm chữa rất công phu, ghi chép cẩn thận những điểm
đạt được, các lỗi đã mắc trong bài viết của học sinh và dự kiến cách sửa lỗi theo
mẫu sau:
Họ và tên Ưu điểm Lỗi đã mắc – dự kiến cách sửa Ghi chú
Chính tả Từ Câu Các lỗi khác
Nhìn vào sổ chấm chữa, tôi có thể nhận ra những lỗi sai điển hình của các
em, làm cơ sở cho việc chữa bài và có thể chọn được một số bài văn tiêu biểu để
đọc trước lớp.
Sau khi đã chấm xong toàn bài của học sinh, ghi tất cả ưu và khuyết điểm
trong bài viết của học sinh vào “ Sổ chấm chữa”, tôi thiết kế giờ dạy thật chi tiết
cụ thể.
- Tôi xác định rõ, cần rèn luyện kỹ năng nào để chọn ra các lỗi cho học sinh
sửa trong lớp trong tiết trả bài.
- Tôi rất chú ý, các lỗi chọn cho lớp sửa phải thật tiêu biểu cho kỹ năng trọng
tâm cần rèn luyện trong bài làm này. Mặt khác, các câu chọn cho cả lớp sửa phải
tiêu biểu cho mọi mặt thành công hoặc hạn chế trong bài làm chung của cả lớp.
Sáng kiến kinh nghiệm
Chỉ có khi sửa từng câu, tôi mới có thể giúp các em không chỉ nhận ra cái sai
của câu, nguyên nhân dẫn đến việc sai câu đó, cách khắc phục lỗi này, mà quan
trọng hơn nữa là học sinh nhận ra đó chính là thiếu sót trong bài làm chung của
cả lớp, trong đó có bản thân của từng em.
- Khi thiết kế bài dạy, tôi phải chọn ra một số vấn đề ( có thể về cách dùng
từ, cách diễn đạt ý, cách dùng các kiểu câu…) thích hợp với trình độ của từng
em để yêu cầu mỗi học sinh sửa lại.
Ví dụ: Một học sinh đã viết được đoạn mở bài, theo kiểu trực tiếp. Cô giáo
có thể yêu cầu các em viết phần mở bài theo cách gián tiếp…
Nói một cách khác là: ở mỗi bài viết của từng học sinh, tôi đều có một yêu
cầu mang rõ tính chất rèn luyện kỹ thuật viết câu cho các em luyện tập. Việc làm
này sẽ làm cho học sinh giỏi cũng như học sinh kém đều được chăm sóc rất chu
đáo.
2. Hoạt động của cô trò trong một tiết Tập làm văn trả bài:
2.1 Hoạt động 1: Tôi giới thiệu tiết học, học sinh nêu lại đề bài văn đã viết
ở tiết trước, giáo viên viết đề bài lên bảng.
Giới thiệu tiết học là hoạt động tưởng như rất nhỏ nhưng lại vô cùng quan
trọng. Một tiết học có thành công hay không bên cạnh việc chuẩn bị công phu,
kĩ lưỡng của giáo viên còn phụ thuộc rất lớn vào học sinh. Chính vì vậy, việc
kích thích hứng thú học tập ban đầu cho các em là vô cùng cần thiết. Cổ nhân có
câu “Vạn sự khởi đầu nan”, việc làm này sẽ giúp các em tạo được hứng khởi
trong các hoạt động tiếp theo.
- Trước đây tôi rất ít khi để ý đến hoạt động này. Tôi thường giới thiệu bài
bằng phương pháp thuyết trình. Tiết nào cũng như tiết nào, bản thân tôi cũng
thấy nó khô cứng, nhàm chán, còn học sinh thì bị động, căng thẳng, thậm chí
không khí căng thẳng còn lan tràn đến hết tiết học. Giờ dạy không đạt hiệu quả.
Chính vì vậy tôi đã suy nghĩ cách tổ chức để tạo ra một không khí vui gây hứng
thú cho các em trong tiết học.
Tôi đã tìm ra được khá nhiều cách mở bài thú vị như:
Sáng kiến kinh nghiệm
Cách 1: Cho các em hát một bài hát gắn với một đề gần gũi nhất trong tiết trả
bài, sau đó gợi mở cho các em nhớ và nhắc lại đề đó rồi nối tiếp nêu các đề còn
lại.
Ví dụ: Khi dạy tiết Tập làm văn trả bài “Tả người”, trong đó có đề: “Tả một
người thân (ông, bà, cha, mẹ…) của em”, tôi cho các em hát bài “Tổ ấm gia
đình” rất sôi nổi, rất hay. Tôi khen ngợi và gợi lại cho các em: Ai cũng có một tổ
ấm gia đình. Đó là nơi ta được sống trong tình yêu thương vô bờ bến của mỗi
người thân. Tiết trước, các em cũng viết một bài văn về người thân. Đó là đề
nào?”
Sau khi học sinh nêu đề: “ Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ…) của em”,
tôi yêu cầu một vài em khác nối tiếp nêu những đề còn lại.
Cách 2: Cho học sinh xem một số hình ảnh liên quan đến các vấn đề có trong
tiết trả bài và yêu cầu học sinh nhớ lại từng đề. Khi dạy bài Tập làm văn tả bài
“Tả cảnh”, tôi cho học sinh xem một số hình ảnh về một buổi sáng ở công viên,
một cơn mưa, một ngôi nhà và hỏi: “Những hình ảnh này gợi cho em nhớđến
những đề văn nào trong tiết kiểm tra viết trước?”.
Cách 3: Cũng có thể mở đầu tiết học bằng một trò chơi để tạo hứng thú cho
học sinh học tập. VD: Trong tiết trả bài “Tả con vật” tôi cho học sinh giải đáp
một số câu hỏi về con vật có trong các bài làm của các em như: lợn, gà trống,
mèo, chó…Sau đó tôi giải thích: “Chó, mèo, lợn, gà… là những con vật rất gần
gũi với chúng ta. Các con hãy nhớ lại và nêu cho cô đề bài trong tiết tả con vật
viết trước.”
Với những cách giới thiệu khác nhau, không tiết nào giống tiết nào, các em
không bị nhàm chán, rất thích thú, hào hứng phát biểu, tạo không khí học vui,
nhẹ nhàng ngay từ hoạt động đầu tiên.
ở phần viết đề bài, tôi cũng tiến hành theo nhiều cách khác nhau sao cho phù
hợp và hiệu quả nhất. Với những tiết chỉ có một đề bài như tiết trả bài “Tả con
vật” chỉ có một đề: “Hãy tả một con vật mà em yêu thích” tôi chọn hình thức
viết bảng, nhưng với những tiết như tiết trả bài: “Tả người”; “Tả cảnh” có từ 3
Sáng kiến kinh nghiệm
đến 4 đề, tôi có thể dùng bảng phụ, băng giấy hoặc thiết kế 1 slide trên
Powerpoint.
2.2Hoạt động 2: Dạy học sinh tìm hiểu đề văn:
- Tôi cho học sinh đọc lại đề văn và phân tích yêu cầu của đề bài.
- Việc cho học sinh phân tích yêu cầu của đề bài, thoạt nghĩ có vẻ thừa (vì
hôm làm bài, các em buộc phải phân tích rồi), nhưng thật ra đó là hành động
định hướng cho việc phân tích, sửa chữa câu văn, bài văn…Khi sửa lỗi học sinh
sẽ phải đối chiếu giữa yêu cầu của đề được cô giáo ghi lên bảng (ý tưởng cần
biểu đạt) với câu văn, đoạn văn (câu văn được phô diễn). Hoạt động của cả lớp
nhờ đó có mục đích rất rõ ràng. Chính vì vậy mà không thể xem nhẹ được. Hơn
nữa, bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể cho nên viết cho đúng
đề bài phải là yêu cầu hàng đầu. Phải giúp học sinh đối chiếu được bài viết với
yêu cầu của đề bài. Muốn vậy cần xác định rõ yêu cầu của đề để làm chỗ dựa
đánh giá bài viết của học sinh.
- Một đề bài đưa ra cho học sinh viết ẩn chứa đến 3 yêu cầu: Yêu cầu về thể
loại bài (hay kiểu bài); yêu cầu về nội dung; yêu cầu về trọng tâm. Ví dụ bài viết
1 ở tuần lễ 4 lớp 5:
Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy)
Yêu cầu thể loại của đề là: Miêu tả, thể hiện ở từ “tả” trong đề bài.
Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều).
Yêu cầu trọng tâm là: ở trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường
phố, trên cánh đồng, nương rẫy) thể hiện ở cụm từ nằm cuối đề bài.
Nhưng trên thực tế không phải đề văn nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu trên.
Ví dụ như ngay tuần 4 lớp 5, sách tiếng Việt 5 đưa ra đến 3 đề cho chọn. Đề nói
trên là đề 1. Đề 2 lại chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung: Tả một cơn mưa.
Trong trường hợp này, người làm bài nhất thiết phải tự xác định thêm yêu cầu
về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn phải là “Tả một cơn mưa ở quê hương
em”, hay “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học về”. Việc xác định
Sáng kiến kinh nghiệm
đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên em có được ý cụ
thể, chính xác, tránh được việc viết tràn lan, chung chung.
Quan trọng hơn nữa là phải giúp học sinh nhận rõ ý nghĩa của việc xác định
các yêu cầu này trong việc viết bài. Giáo viên phải làm sao giúp học sinh nhận
rõ các yêu cầu của đề bài quyết định nội dung bài viết. Các yêu cầu này một khi
xác định đúng sẽ là hướng tìm ý cho bài viết.
VD: Thể loại miêu tả sẽ hướng dẫn cho các em phải quan sát đối tượng để
tìm cho ra những nét đặc sắc, những nét nổi bật của đối tượng. Không thể cứ liệt
kê tràn lan các chi tiết của đối tượng.
Nội dung buổi sáng đòi hỏi người quan sát phải tìm được nét đặc trưng giúp
người đọc nhận ngay ra cảnh đương tả không phải buổi trưa, buổi chiều. Cũng
vậy, buổi sáng ở vườn cây có gì khác buổi sáng ở công viên, đường phố, cánh
đồng, nương rẫy. Phải nêu cho được những nét tiêu biểu đó mới đáp ứng đúng
yêu cầu của đề bài.
Đây chính là chỗ yếu của học sinh. Nhiều học sinh dễ dàng tìm ra yêu cầu
của đề bài, nhưng lại không biết từ các yêu cầu đó để tìm ra nội dung cần nói
trong bài viết.
Chính vì những lí do nêu trên, tôi rất coi trọng hoạt động này.
Đối với những tiết trả bài chỉ có một đề bài VD: Tiết trả bài văn tả con vật
chỉ có 1 đề: “Tả một con vật mà em yêu thích”, tôi tiến hành như sau:
+ Tôi cho học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề
chính của đề bài:
Đề bài thuộc thể loại gì? Kiểu bài nào? Nội dung? Trọng tâm của đề bài là
gì? ( học sinh nêu đến đâu giáo viên gạch chân đến đấy)
+ Tôi yêu cầu học sinh nêu tình cảm, cảm xúc của bản thân khi tả con vật
mình yêu thích.
+ Tôi gợi ý để học sinh hiểu và phát biểu được “bài văn miêu tả con vật đòi
hỏi người viết phải tìm ra và nêu bật được các nét nổi bật của con vật mà ta định
tả”.
Sáng kiến kinh nghiệm
Khi xác định rõ trọng tâm của đề bài là tả hình dáng và hoạt động của một
con vật mà em yêu quý nhất, học sinh hiểu và nêu rõ được bài viết phải làm nổi
bật những nét riêng về hình dáng và hoạt động của con vật được tả so với các
con vật khác. Muốn vậy cần quan sát trực tiếp, quan sát bằng nhiều giác quan,
chọn lọc những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Tôi thường xuyên nhắc nhở các em phải đọc kĩ đề bài, chỉ lơ đãng một chút
trong việc đọc đề bài là chúng ta sẽ không thể viết đúng trọng tâm yêu cầu của
đề bài và bài viết tất sẽ không đáp ứng đúng trọng tâm.
VD: “Tả cảnh một buổi sáng trên đường phố” và “Tả cảnh đường phố vào
một buổi sáng”
Tả cảnh một buổi sáng trên đường phố
Thể loại: miêu tả
Nội dung: cảnh một buổi sáng
Trọng tâm: trên đường phố
Tả cảnh đường phố vào một buổi sáng
Thể loại: miêu tả
Nội dung: cảnh đường phố
Trọng tâm: vào một buổi sáng
Chỉ thay đổi 2 cụm từ cuối bài không làm thay đổi yêu cầu thể loại (vẫn là
miêu tả) nhưng làm thay đổi đối tượng miêu tả (1đề là cảnh buổi sáng, 1 đề là
cảnh trên đường phố) và cũng làm thay đổi phạm vi miêu tả (1 đề là cảnh buổi
sáng trên đường phố, 1 đề là cảnh đường phố vào buổi sáng)
Đối với những tiết trả bài có nhiều đề, ví dụ: tiết “Trả bài văn tả cảnh” có 3
đề, “trả bài văn tả người” có 3 đề…tôi cũng tiến hành tương tự như trên. Tuy
nhiên để tiết kiệm thời gian, tôi sử dụng phần mềm Powerpoint để hỗ trợ. Việc
dạy học sinh tìm hiểu đề văn sẽ giúp học sinh có những hiểu biết để vạch hướng
làm bài cũng như sửa bài cho bản thân.
2.3 Hoạt động 3: Nhận xét chung về bài viết của học sinh trong lớp:
Những năm trước, khi tổ chức hoạt động này, tôi dùng phương pháp giảng
giải và thuyết trình. Tôi thường nêu những nhận xét về bài viết của mình (đã viết
sẵn) về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh (về nội dung và hình thức) và
kết thúc là tổng kết điểm và biểu dương một số học sinh có bài viết hay, sáng
Sáng kiến kinh nghiệm
tạo. Học sinh ngồi nghe. Tôi thấy việc tổ chức hoạt động trên không hiệu quả.
Tôi đã mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy và thấy rõ hiệu quả cao hơn. Tôi tiến
hành như sau:
Khi nhận xét chung về bài viết của học sinh, tôi đã tổ chức cho học sinh tham
gia hoạt động nhận xét đánh giá, chứ không chỉ là việc làm riêng của cô giáo.
Các em được trực tiếp tham gia tập bình giá. Do đó học sinh hiểu và dễ dàng
chấp nhận việc đánh giá của cô giáo.
Tôi thường nhận xét ưu điểm (nội dung và hình thức) trước. Khi chấm bài
viết của học sinh, tôi đã thống kê được những ưu điểm chung của bài viết. Trong
các ưu điểm, tôi chú ý đến những suy nghĩ riêng, những cảm xúc hồn nhiên, tế
nhị sâu sắc. Những cách vận dụng kiến thức khéo léo, những nhận xét mới mẻ,
những đoạn văn hay, bài làm có bố cục sáng tạo, những cách đặt câu, dùng từ
hay. Khi nhận xét những ưu điểm có dẫn chứng cụ thể, nêu tên và biểu dương
học sinh.
- Tôi gọi học sinh lên đọc những câu văn, đoạn văn hay trong bài viết của
mình. Cả lớp nhận xét, bình giá bài của học sinh có ưu điểm gì? Để viết được
câu văn hay như thế, em cần chú ý điều gì?
Các em rất thích thú với hoạt động này. Qua đó, các em phát huy được những
ưu điểm mà mình đạt được trong bài viết, đồng thời học tập được những thành
công trong bài viết của bạn và khuyến khích các em viết được những câu văn
hay, đoạn văn sinh động để được cô giáo và các bạn khen ngợi.
* Phần nhận xét những ưu điểm chung trong bài viết tôi thường nêu những
dẫn chứng cụ thể để học sinh tự đánh giá những điểm không chính xác, những
hiểu biết lệch lạc trong cách miêu tả chi tiết. Phân tích cụ thể để học sinh rút
kinh nghiệm. Khi nhận xét phần nhược điểm, tôi thường không nêu tên học sinh
đã mắc lỗi trong bài viết.
Ví dụ: Khi trả bài viết “Tả người” trong đó có đề “Tả cô giáo (thầy giáo) đã
từng dạy dỗ em và để lại cho em những ấn tượng tình cảm tốt đẹp.”
Sáng kiến kinh nghiệm
Để các em tự đánh giá các lỗi chung thường mắc phải trong phần mở bài, tôi
đã tiến hành như sau:
Tôi nói: Các em hãy đối chiếu các yêu cầu của đề bài với bài viết của các bạn
trong lớp. Em hãy lắng nghe và suy nghĩ xem bài viết đã thực hiện được nhiệm
vụ mà đề bài yêu cầu chưa?
- Tôi đọc phần mở bài của học sinh “Trong các thầy cô giáo ở trường, em
thích nhất là cô Nga. Tuy cô không dạy em nhưng ngày nào cô cũng đèo em đến
trường vì nhà cô ở gần nhà em.”
- Tôi nêu câu hỏi cho học sinh nhận xét:
Bài của bạn giới thiệu với chúng ta cô giáo nào? Đã đúng với yêu cầu của đề
bài chưa?
Học sinh nhận xét bạn giới thiệu cô giáo ở trường nhưng không dạy mình
trong khi đề bài yêu cầu giới thiệu cô giáo dạy mình trong năm học trước đã để
lại cho em những ấn tượng và tình cảm tốt đẹp nhất. Như vậy, mở bài không sát
với yêu cầu của đề, phải sửa lại.
- Tôi đọc một mở bài khác “Cô giáo Lan Phương ở trường Tứ Hiệp ai cũng
biết. Cô là giáo viên dạy giỏi, là chiến sĩ thi đua của trường, hết lòng tận tụy với
học sinh.”
- Học sinh thảo luận theo câu hỏi “Bạn giới thiệu cô giáo dạy ai? dạy lúc
nào?
- Học sinh nhận xét: mở bài của bạn không nói rõ cô giáo đã dạy bạn không.
Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu của đề bài. Tôi nêu nhận xét chung về phần
mở bài còn mắc các lỗi nào?
- Đối với các lỗi khác thường mắc trong bài viết, tôi tổ chức cho các em tập
nhận xét, đánh giá như trên.
- Sau khi nhận xét chung xong, tôi tổng kết điểm của cả lớp với mục đích
các em tự nhận thấy kết quả chung của bài biết của cả lớp so với đề bài trước có
tiến bộ không…
2.4 Hoạt động 4: Học sinh sửa lỗi chung:
Sáng kiến kinh nghiệm
Tôi tổ chức cho học sinh thực sự làm việc và làm việc có trí tuệ. Đặc biệt
quan tâm đến vấn đề dạy học phân hóa đối tượng.
- Tôi chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm tương ứng với một đối tượng: Khá -
Giỏi, Trung bình, Yếu. (Tất nhiên học sinh không nhận biết được điều đó mà
chỉ hiểu đơn thuần là học tập theo nhóm)
Căn cứ vào sổ chấm chữa tôi chọn ra những lỗi điển hình mà học sinh thường
mắc như lỗi chính tả, lỗi dùng từ, diễn đạt…thiết kế một phiếu học tập chung
cho cả lớp. Tuy nhiên có những yêu cầu riêng cho từng đối tượng.
Ví dụ: ở phần lỗi chính tả, đối với học sinh trung bình, yếu tôi chỉ yêu cầu
học sinh sửa lại cho đúng còn đối với học sinh khá giỏi, tôi yêu cầu các em giải
thích cách sửa.
Tôi tổ chức cho học sinh sửa lỗi như sau:
a) Lỗi chính tả:
Cách sửa: Kẻ bảng thành 2 cột (1 bên ghi lỗi chính tả, 1 bên ghi cách viết
chính tả), học sinh trong mỗi nhóm bàn cách sửa lỗi,gọi một nhóm yếu, trung
bình trình bày cách sửa trước lớp. Các nhóm khá, giỏi nhận xét, bổ sung (nếu
có).
Ví dụ: Khi chấm bài viết của học sinh tiết kiểm tra viết “Tả cảnh”, thống kê
các lỗi chính tả, các em thường mắc những lỗi sau:
Lỗi đã mắc
Chú mưa
Dội rửa
Gồ gề
Sửa lại
Trú mưa
Giội rửa
Gồ ghề
Tôi tiến hành chữa như sau:
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
- Cô mời đại diện một nhóm lên bảng
ghi lại cách sửa
- Yêu cầu học sinh nhận xét cách sửa
của nhóm bạn
- Đại diện một nhóm yếu lên bảng sửa
- Học sinh khá - giỏi nhận xét, bổ sung
(nếu cần)
Sáng kiến kinh nghiệm
- Giáo viên chốt cách sửa đúng, yêu
cầu các nhóm đối chiếu, tự soát bài
- Tại sao con lại sửa “gồ gề” thành “gồ
ghề”
- Vì sao viết là “Trú mưa” thì đúng còn
“chú mưa” lại sai?
Chốt: Ngoài việc nhớ các quy tắc viết
VD khi ghép âm “gờ”, “ngờ” với “i”,
“e”, “ê” các con cần phải dựa vào
nghĩa của từ tạo nên nó. Có như vậy
khi viết văn các em mới không mắc
phải lỗi chính tả.
- Các nhóm soát bài
- Học sinh trung bình – khá trả lời: Vì
âm “gờ” khi ghép với “i”, “e”, “ê” phải
viết thành “gh”. Như vậy phải sửa “gồ
gề” thành “gồ ghề”.
- Học sinh giỏi: Vì xét về nghĩa “chú”:
danh từ chỉ người. “Trú”: động từ chỉ
hành động. Vậy “chú mưa” phải sửa
thành “trú mưa”
b) Chữa các lỗi dùng từ:
Sau khi cho học sinh làm bài tập trong phiếu, tôi tiến hành chữa bài. Đối với
học sinh yếu, trung bình, tôi cho các em phát hiện từ dùng sai trong câu và tìm
từ thích hợp thay thế hay hơn, giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm bằng cách đặt
những câu hỏi gợi mở để các em trả lời.
VD: Khi chữa lỗi dùng từ trong câu “Một làn gió nhẹ thoảng qua làm cho
mặt hồ cử động.”
Tôi yêu cầu học sinh yếu, trung bình chỉ ra lỗi sai và tìm từ thay thế. Học
sinh tìm được từ dùng sai là từ “cử động” và thay bằng từ “xao động”
Đối với học sinh khá-giỏi, tôi khuyến khích các em tìm những từ khác hay
hơn, sinh động hơn.
Sáng kiến kinh nghiệm
VD: - Ngoài từ “xao động” ta còn có thể thay thế bằng những từ nào để câu
văn hay hơn?
Hoặc:
-Khi có làm gió nhẹ thoảng qua những gợn sóng trên mặt hồ như thế
nào? Vậy ta có thể thay từ “xao động” bằng từ nào?
Bằng những câu hỏi gợi mở đó học sinh tìm được những từ khác hay hơn
diễn tả mặt hồ khi có gió nhẹ thoảng qua như: lay động, lăn tăn gợn sóng…
Sau đó tôi yêu cầu học sinh so sánh các câu văn xem cách dùng từ nào hay
hơn để học tập.
Cuối cùng tôi chốt lại: Khi viết văn các con cần cố gắng lựa chọn những từ
ngữ thích hợp, gợi tả, gợi cảm để bài viết thêm sinh động, hấp dẫn hơn và cho
điểm để động viên, khích lệ các em đào sâu suy nghĩ tìm được những từ thay thế
hay hơn, sáng tạo hơn, góp phần làm cho tiết học sôi nổi hơn.
c) Chữa các lỗi về câu:
Đây là phần trọng tâm trong phần chữa lỗi chung của tiết Tập làm văn trả
bài. Tôi tập trung nhiều vào việc chữa lỗi nếu học sinh sai nhiều lỗi về câu. Còn
nếu học sinh mắc ít lỗi tôi tập trung vào việc hướng dẫn học sinh cách viết văn
hay dùng những biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa… để câu văn hay hơn,
sinh động hơn.
Thực tế cho thấy, những câu sai như thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, câu què, câu
chỉ có thành phần phụ chỉ địa điểm hoặc thời gian…thường tập trung vào những
học sinh yếu, còn học sinh khá-giỏi thì lại hay mắc phải lỗi diễn đạt.
* Đối với học sinh trung bình-yếu, tôi tập trung giúp các em nhận ra các lỗi
sai và sửa câu đúng sao cho diễn đạt đủ ý, đủ nghĩa. Khuyến khích các em tìm
câu hay hơn (nếu thấy các em có tiến bộ).
Sửa câu thiếu chủ ngữ:
VD: Trong lớp, em chơi thân với Hòa. Là bạn tốt của em.
Sáng kiến kinh nghiệm
Tôi yêu cầu học sinh chỉ ra câu sai ( Là bạn tốt của em), nhận xét lỗi sai (sai
về cấu trúc câu, thiếu chủ ngữ: C?/ là bạn tốt của em?), sửa lại: Hòa là bạn tốt
của em.
Sửa câu chỉ có trạng ngữ, thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ:
VD: Khi mặt trời ló rạng.
Cách sửa: Bỏ từ “khi” hoặc thay dấu chấm bằng dấu phẩy rồi thêm một vế
câu.
vd: “Khi mặt trời vừa ló rạng, các bác nông dân đã vác cuốc ra đồng.” (bài
làm của học sinh)
* Đối với học sinh khá-giỏi, tôi hướng dẫn các em kĩ phần chữa lỗi diễn đạt và
biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật, những từ ngữ gợi tả, gợi cảm để viết
lại câu văn hay hơn.
VD: Một học sinh có óc quan sát tinh tế nhưng diễn đạt còn chưa thoát ý. Khi
tả ông mình đang tưới cây (đề 4, tiết 1, tuần 16: “Tả một người lao động (công
nhân, nông dân, thợ thủ công,…) đang làm việc”) đã viết:
“Đọng lại trên những chiếc lá xanh thẫm, trên vầng trán đã nổi nhiều vết
nhăn của ông là những giọt mồ hôi như muốn tưới cây giúp ông.”
Tôi sửa bằng cách cho học sinh có câu sai nêu rõ ý muốn trình bày và nêu rõ
trực tiếp trước lớp điều muốn viết.
Học sinh: Mồ hôi của ông rơi trên lá, lẫn trong những giọt nước tưới.
Giáo viên: Vậy trên cơ sở ý của bạn chúng ta sẽ cùng sửa để làm cho câu văn
mang tính thuyết phục hơn.
Giáo viên nhấn mạnh: ở đây có 2 thứ nước:- mồ hôi, nước tưới, do đó muốn
nhấn mạnh sự vất vả của ông.
Tôi gọi một học sinh giỏi sửa lại. Em đó đã sửa như sau: “ Đọng lại trên
những chiếc lá xanh là những giọt nước mát, trong vắt và cả những giọt mồ
hôi rơi từ trán ông.”
Sáng kiến kinh nghiệm
Tôi khen ngợi và cho điểm khuyến khích động viên em đó. Việc làm này có
tác dụng kích thích học sinh tích cực trong việc sửa lỗi câu và viết câu hay hơn.
• Lưu ý chung trong quá trình phân tích sửa lỗi:
- Định hướng dẫn dắt bằng hệ thống câu hỏi phù hợp, sát đối tượng học sinh
(chú trọng học sinh yếu, kém, trung bình), giúp các em tự phát hiện lỗi và tìm
được cách chữa lỗi.
- Có thể chữa bằng nhiều cách (văn học vốn đa dạng, phong phú).
- Tránh áp đặt khiên cưỡng, nên biểu dương, động viên, khích lệ sự tìm tòi,
sáng tạo của học sinh là chính. Có như thế mới khơi gợi sự hứng thú học tập và
tránh tâm lý mặc cảm, tự ti học văn kém trong học sinh.
- Ngoài ra, nhằm giúp các em có vốn từ nhất định để học văn tốt, giáo viên
động viên các em nên có sổ tay “vốn từ”, hình thành thói quen khi gặp từ hay là
ghi ngay vào sổ và thường xuyên đọc sách, báo thiếu nhi, sách những bài văn
chọn lọc dành cho học sinh tiểu học…đồng thời có kế hoạch kiểm tra hàng
tháng, biểu dương sổ tay có nhiều từ mới.
2.5 Hoạt động 5: Học sinh tự sửa lỗi trong bài viết của mình:
- Tôi trả bài cho học sinh, xếp những học sinh làm cùng để vào một nhóm (vì
mỗi tiết kiểm tra viết học sinh được lựa chọn 1 trong nhiều đề).
- Tôi hướng dẫn các em sửa lỗi trong bài theo trình tự sau:
Tôi cho học sinh là việc trong nhóm 4.
Yêu cầu học sinh đọc kĩ bài viết của mình, tự sửa lỗi chính tả, dùng từ… mà
giáo viên đã đánh dấu trong bài làm. Với lỗi chính tả dùng từ sai, các em chữa
ngay sang lề bên trái. Với lỗi về câu, về ý các em chữa lại xuống bài làm gạch
chân phần đã sửa chữa.
Trường hợp học sinh không mắc lỗi nào, tôi yêu cầu các em tìm những từ
ngữ gợi tả, gợi cảm thay thế những từ ngữ trong bài để câu văn hay hơn, sinh
động hơn.
Sáng kiến kinh nghiệm
Yêu cầu học sinh đổi bài cho bạn để rà soát lại việc sửa lỗi. Nếu em nào
không tự sửa được lỗi cả nhóm thảo luận giúp bạn. Nhóm trưởng có trách nhiệm
ghi lại các lỗi và cách sửa vào bảng thống kê lỗi.
Trong khi học sinh làm việc theo nhóm tôi đến từng nhóm, đối chiếu các lỗi
sai và cách sửa của các em với sổ chấm chữa của mình. Giúp đỡ một số nhóm
yếu.
Cuối cùng tôi yêu cầu các nhóm trưởng báo cáo sau đó tôi đối chiếu với sổ
chấm chữa, nhận xét. Trường hợp có lỗi cả nhóm không sửa được, tôi ghi lỗi cần
sửa đó lên bảng, yêu cầu các nhóm khác sửa giúp dưới sự điều khiển của cô
giáo.
2.6 Hoạt động 6: Đọc bài văn hay
Chọn đọc bài theo kiểu:
a) Đọc câu hay, ý sáng tạo
b) Đọc đoạn hay
c) Đọc bài hay
a. Đọc câu hay, ý sáng tạo:
Tôi thường nhặt ra trong bài của học sinh những câu hay, sử dụng tốt biện
pháp nghệ thuật để đọc và phân tích. (Có thể có bài viết chưa tốt nhưng bài viết
lại có câu hay và những câu này được đánh dấu sẵn trong quá trình chấm bài)
Ví dụ: “Nhìn từ xa, ngôi nhà như một tòa biệt thự nhỏ xinh nằm núp mình
dưới bóng cây xanh mát. Xung quanh nhà được xây bao bọc bởi những bức
tường kiên cố. Phía trước là khoảng sân rộng trồng cỏ xanh và hoa đủ màu sắc
sặc sỡ. Kế bên là một lỗi đi nhỏ được rải bằng sỏi trắng” (Đề tả ngôi nhà thân
yêu của em)
Tôi cho học sinh phân tích để thấy rõ: Câu văn đã cho thấy khả năng quan sát
tinh tế và khả năng dùng từ tốt. Em đã viết câu văn hay, rõ ý, sinh động, rất
đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, dùng từ
gợi tả, gợi cảm giúp người đọc hình dung một cách cụ thể về ngôi nhà của bạn
Sáng kiến kinh nghiệm
đó: một ngôi nhà đẹp, xinh xắn có cây cối hoa lá và cả lối đi nhỏ được rải bằng
sỏi trắng.
Cuối cùng, tôi yêu cầu cả lớp học tập cách viết câu hay, ý sáng tạo của bạn
b. Đoạn văn hay:
Với đoạn hay – tôi chọn đoạn có cấu trúc câu chặt chẽ, ý liên kết, biết sử
dụng biện pháp tu từ.
Với quá trình phân tích đoạn như: Cấu trúc đoạn - Đề tài nhỏ – Cách viết câu
được phân tích kỹ cho học sinh nắm được cái hay, cái đúng cần học tập.
c. Bài văn hay:
Đây là phần học mà học sinh hứng thú nhất nên tôi thường tự đọc và chọn
cách đọc so sánh.
- Một bài hay của học sinh giỏi.
- Một bài hay của học sinh khá
- Một bài hay của học sinh trung bình
Để khen quá trình tự vươn lên của mỗi em, để khuyến khích các em sáng tạo
và tạo hứng thú cho các em, đồng thời cũng cho các em biết: Một học sinh
trung bình vẫn có thể viết tốt nếu biết học tập một cách nghiêm túc và tôi nghĩ
rằng một bài làm văn của em dù hay, dù chưa hay đều đáng trân trọng vì đó là
kết quả của một quá trình lao động.
2.7 Hoạt động 7: Học sinh viết lại một đoạn văn trong bài:
Tôi tiến hành các bước như sau:
- Bước 1: Yêu cầu mỗi học sinh tự chọn một đoạn văn viết chưa đạt trong
bài làm của mình để viết lại cho hay hơn. (Giáo viên quan sát, giúp đỡ một số
học sinh yếu).
Đối với học sinh khá-giỏi, các em không sai lỗi nào, tôi yêu cầu các em viết
lại một đoạn chưa hay trong bài có sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh,
nhân hóa, dùng từ gợi tả, gợi cảm để bài viết hay hơn.
- Bước 2: Giáo viên chữa 2 đến 3 bài của học sinh (dùng máy chiếu hoặc
bảng phụ)
Sáng kiến kinh nghiệm
- Bước 3: Yêu cầu học sinh đổi vở soát bài. Giáo viên tranh thủ chấm 5 đến
7 bài, chọn một bài hay để đọc trước lớp.
- Bước 4: Yêu cầu các nhóm báo cáo, các nhóm khác nhận xét, bổ sung (nếu
cần), giáo viên nhận xét .
- Bước 5: Đọc đoạn văn hay, yêu cầu học sinh tìm ưu điểm của bài văn đó
để học tập.
2.8 Hoạt động 8: Giáo viên hướng dẫn công việc sửa bài và chuẩn bị bài
mới:
Những năm trước, tôi rất “ngại” công việc này vì như thế sẽ mất rất nhiều
thời gian của giáo viên. Chính vì vậy, hiệu quả của việc sửa lỗi không cao. Mặc
dù tiết trước, giáo viên đã sửa rất triệt để nhưng đến tiết sau học sinh lại mắc
phải chính lỗi đó, thậm trí có trường hợp điều đó bị lặp lại ngay chính ở cùng
một học sinh. Do đó, trong năm học này, ngay từ tiết trả bài đầu tiên, tôi đã yêu
cầu học sinh nộp bài cũ đã sửa trước khi viết bài mới. Tôi yêu cầu học sinh viết
lại bài viết của mình sau khi đã sửa lỗi đã mắc.
Việc làm này tuy có tạo thêm việc cho giáo viên thật nhưng lại rất cần thiết.
Có vậy các em mới thực hiện việc sửa bài một cách nghiêm túc, hiệu quả luyện
viết văn mới cao được.
Từ khi thực hiện công việc này, tôi thấy tình trạng mắc lỗi của học sinh giảm
hẳn, chỉ còn ở một số học sinh trung bình yếu. Tôi yên tâm tập trung vào công
việc hướng dẫn học sinh cách viết văn hay hơn, sinh động hơn.
- Việc nhắc nhở học sinh chuẩn bị bài mới là việc làm giáo viên thường hay
quên.Mặc dù nó rất nhỏ nhưng cũng không kém phần quan trọng. Việc làm này
sẽ giúp học sinh định hình trước được công việc phải làm, có điều kiện, thời
gian để chuẩn bị cho tiết học sau, góp phần tạo nên thành công của tiết học mới.
Sáng kiến kinh nghiệm
IV. Kết quả
Ngay từ đầu năm học 2007-2008, tôi đã mạnh dạn lên chuyên đề Tập làm
văn trả bài. Tôi đã áp dụng phương pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh theo các
hoạt động đã nêu ở trên. Giờ dạy thành công, xếp loại tốt được Ban giám hiệu,
anh chị em đồng nghiệp nhất trí dạy như vậy.
Tôi thấy việc áp dụng các biện pháp tổ chức giờ dạy Tập làm văn trả bài nêu
trên đã đạt hiệu quả cao. Với phương pháp này, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo,
kỹ lưỡng và cẩn thận hơn nhưng đổi lại tôi nhận được từ phía học sinh sự tiến bộ
rõ rệt. Từ chỗ học sinh sợ tiết này, thờ ơ với việc phát hiện và sửa lỗi trong bài
văn, đến nay, các em đã rất hăng hái phát biểu ý kiến của mình, đã biết cách sửa
lỗi thường mắc trong bài viết của mình.
Sáng kiến kinh nghiệm
Nếu như trước đây, các em nêu ý kiến của mình một cách ấp úng, nét mặt
gượng gạo thì nay đã hết sức hào hứng, lưu loát và lộ rõ vẻ thích thú. Tiết học
thật vui, nhẹ nhàng.
Nhờ việc học tốt tiết Tập làm văn trả bài, các em đã viết bài văn hay hơn rất
nhiều. Chất lượng môn Tập làm văn cao hơn hẳn so với đầu năm.
Và đặc biệt hơn nữa, tôi còn nhận được sự tin yêu từ phía học sinh. Các em
không chỉ mạnh dạn góp ý, trao đổi ý kiến trong tiết Tập làm văn trả bài mà còn
ở tất cả các tiết học. Tình cảm giữa cô và trò ngày càng trở nên thân thiết. Tôi
càng hiểu rõ hơn ý nghĩa sâu xa của câu: “Yêu người bao nhiêu, yêu nghề bấy
nhiêu”. Đó cũng chính là động lực thúc đẩy tôi tiếp tục tìm tòi và áp dụng
những kinh nghiệm đã tích lũy được vào sự nghiệp trồng người của mình.
CHƯƠNG 3: Kết luận
Cốt lõi cơ bản của tiết “Trả bài viết” Tập làm văn là làm cho học sinh tự
nhận xét được điều hay, cái chưa được về bài viết của mình, của bạn qua những
đề văn cụ thể, để rồi cùng nhau học tập những cái hay, sửa chữa lỗi mắc phải.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng muốn dạy tiết Tập làm văn trả bài
cho học sinh đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần:
- Có lòng nhiệt tình, tâm huyết của người thầy, nhận thức đầy đủ về tầm quan
trọng của tiết học, không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy, luôn cải tiến
phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.
- Chuẩn bị chu đáo sổ chấm chữa. Nắm chắc những ưu, nhược điểm của các
em trong hành văn.Xây dựng kế hoạch bài dạy chu đáo, chi tiết với hệ thống câu
Sáng kiến kinh nghiệm
hỏi gợi mở thích hợp nhằm phát huy tính tích cực học tập mạnh dạn tham gia
phát biểu ý kiến xây dựng bài của học sinh.
- Phát huy vai trò chủ đạo của người thầy, động viên tạo niềm tin, hưng phấn
và ý thức độc lập suy nghĩ trong quá trình học tập của học sinh.
- Dạy cho học sinh hiểu được cách chữa lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi câu.
- Để tiết dạy có hiệu quả phải dạy học phân hóa đối tượng.
- Thu bài văn viết lại để chấm lại, sửa lỗi triệt để cho học sinh.
Song đó chỉ là những kinh nghiệm, sự vận dụng của bản thân kính mong sự
góp ý tận tình của phòng giáo dục, ban giám hiệu và sự trao đổi thẳng thắn chân
tình của các đồng nghiệp.