Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

một số kinh nghiệm trong việc giảng dạy các bài tổng kết về từ vựng, tổng kết về ngữ pháp ngữ văn lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.16 KB, 19 trang )

Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


1
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU







TÊN ĐỀ TÀI


MỘT SỐ KINH NGHIỆM
TRONG VIỆC GIẢNG DẠY CÁC BÀI
TỔNG KẾT VỀ TỪ VỰNG, TỔNG KẾT VỀ NGỮ PHÁP
( NGỮ VĂN LỚP 9 )



















Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


2
NĂM HỌC : 2009 - 2010

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ :

Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu liên tục
được đặt ra trong nhiều năm trở lại đây. Mục đích của đổi mới phương pháp
dạy học là nhằm nâng cao chất lượng dạy - học. Đối với việc dạy – học văn,
cần đổi mới như thế nào? Có nhiều chuyên đề được tổ chức, nhiều văn bản
của Bộ, Sở hướng dẫn, song mỗi giáo viên đều nhận thức được rằng đó chỉ là
những vấn đề có tính chất đònh hướng chung. Thực hiện đổi mới dạy – học
văn như thế nào còn đòi hỏi rất nhiều ở sự vận động của mỗi giáo viên. Thiết
nghó, vận dụng đổi mới phương pháp dạy – học phải hết sức linh động, sáng
tạo. Giáo viên phải tùy thuộc vào từng nội dung, từng cụm bài, thậm chí từng
bài học cụ thể, phải nắm chắc đối tượng học sinh để lựa chọn, sử dụng
phương pháp cho phù hợp. Rõ ràng, vận dụng đổi mới phương pháp dạy học
nếu không chú ý đối tượng học sinh, không xác đònh đúng mục tiêu cần đạt ở
từng bài học thì giáo viên khó có thể thành công trong việc nâng cao chất
lượng dạy – học và như vậy việc đổi mới phương pháp nếu có được đặt ra thì
cũng chưa hẳn đã đạt được hiệu quả.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn đã nhiều năm, bản

thân tôi luôn không ngừng học hỏi, tích cực tìm tòi, nghiên cứu đổi mới
phương pháp dạy học, có nhiều bài giảng được đồng nghiệp đánh giá khá
thành công. Song, giảng dạy chương trình Ngữ văn 9, những năm đầu, có tiết
– bài, tôi thấy thật sự không dễ dàng, hoạt động giữa giáo viên và học sinh
không nhòp nhàng, chất lượng giờ dạy – học không cao. Trong số đó phải nói
đến các tiết tổng kết kiến thức Tiếng Việt : Tổng kết về từ vựng, Tổng kết
về ngữ pháp.
Nhìn tổng quát, có thể thấy rõ cụm bài Tổng kết về từ vựng, Tổng
kết về ngữ pháp ( cũng như một số bài tổng kết khác ) là một nội dung mới
so với sách giáo khoa chỉnh lí trước đây. Cụm bài này có vò trí rất quan trọng
trong chương trình, không phải chỉ vì nó được giành một lượng thời gian lớn
(8 tiết ) mà bởi nó có nhiệm vụ tổng kết toàn bộ kiến thức từ vựng và ngữ
pháp trong toàn cấp học từ lớp 6 đến lớp 9. Như vậy, cái khó khăn lớn nhất
trong việc giảng dạy các tiết tổng kết này chính là nhiệm vụ của mỗi tiết
học khá “lớn lao” – tổng kết nhiều đơn vò kiến thức, trong đó có những nội
dung học sinh đã học từ hơn ba năm trước; mỗi tiết học các em vừa phải ôn
cả lí thuyết và thực hành luyện tập.
Một khó khăn cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng dạy – học thể hiện ở
thực tế tình hình học văn của học sinh . Nhiều người đều thừa nhận học sinh
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


3
không yêu thích môn văn. Tuy nhiên vẫn có một bộ phận học sinh học văn
tốt. Điều đáng nói ở đây là, trong quá trình học tập, học sinh không có thói
quen hệ thống kiến thức ( dù đã được thầy cô hướng dẫn ), ít có thói quen
“ôn cố tri tân”. Chính vì vậy, khi ôn tập, tổng kết, phần lớn học sinh rơi vào
thế bò động, thụ động, quên hết cả. (Cũng có thể thông cảm phần nào vì có
nhiều bài các em học đã khá lâu). Với những trường vùng ven, vùng khó
khăn, khả năng tiếp thu của học sinh chậm, sự nhạy bén, năng động trong

học tập hạn chế thì việc học các tiết tổng kết với các em càng khó khăn hơn.
Vềø phía giáo viên, rõ ràng yêu cầu vững vàng vềø kiến thức, linh hoạt
về phương pháp, có khả năng xử lí tình huống tinh tế, khéo léo là không thể
thiếu đối với mỗi thầy cô đứng trên bục giảng. Song, không phải tất cả giáo
viên dạy lớp 9 đều đã trực tiếp giảng dạy lớp 6, 7, 8 hay đã nghiên cứu kó
từng đơn vò kiến thức từ vựng, ngữ pháp trong chương trình toàn cấp . Chính
vì vậy, khi thực hiện các tiết tổng kết này, có những phần cũng bò hạn chế
trong việc khắc sâu – mở rộng kiến thức.
Có lẽ những khó khăn trong việc giảng dạy các bài Tổng kết về từ
vựng, Tổng kết về ngữ pháp không phải là nhìn nhận của cá nhân tôi mà
của nhiều đồng nghiệp . Từ những trở ngại đó, từ những tiết dạy chưa thành
công, với trách nhiệm nghề nghiệp, tôi luôn trăn trở : làm thế nào để các em
học tốt chương trình Ngữ văn 9, làm thế nào để các em học tốt các bài Tổng
kết về từ vựng, Tổng kết về ngữ pháp ? Điều trăn trở ấy khiến tôi phải đầu
tư nhiều hơn cho mỗi bài giảng, tích cực tìm ra những phương pháp giảng dạy
sao cho phù hợp, hiệu quả. Và kết quả từ việc rút kinh nghiệm ở bản thân, ở
đồng nghiệp, chú trọng đổi mới phương pháp trên cơ sở hiểu rõ đối tượng dạy
học ở từng lớp, tôi đã có được những thành công bước đầu trong việc giảng
dạy các bài Tổng kết về từ vựng, Tổng kết về ngữ pháp trong chương trình
Ngữ văn 9 .
Trong giới hạn cho phép của bài viết, tôi xin đề cập một số phương
pháp, biện pháp cụ thể mà bản thân đã chú trọng thực hiện để nâng cao chất
lượng giờ dạy đó là:
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bò bài ở nhà.
- Hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu tổng kết trên lớp.

B/ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN :

Như trên đã đề cập, với sự có mặt của những bài Tổng kết trong
chương trình, đòi hỏi học sinh lớp 9 không chỉ phải học để nắm chắc những

đơn vò kiến thức mới mà còn phải biết hệ thống kiến thức theo từng phân
môn, từng cụm bài, nắm chắc kiến thức toàn cấp .
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


4
Phần Tổng kết về từ vựng, Tổng kết về ngữ pháp được giành thời
gian 8 tiết ( 5 tiết tổng kết về từ vựng và 3 tiết tổng kết về ngữ pháp ). Thực
ra khoảng thời gian 8 tiết không phải là ít, song một lượng kiến thức cần tổng
kết rất lớn vì vậy đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải hết sức tích cực (tích
cực trong việc chuẩn bò bài ở nhà, tích cực trên lớp, tích cực trong việc đổi
mới phương pháp dạy và học ) – hết sức tích cực mới có thể thực hiện thành
công mục tiêu của từng tiết học.
Trong những kiến thức về từ vựng, ngữ pháp từ lớp 6 đến lớp 9 được
tổng kết, mỗi vấn đề ôn tập được tách thành một mục riêng, mỗi mục có hai
phần : một phần ôn lại kiến thức ( chủ yếu là về các khái niệm ) ; một phần
là bài tập để nhận diện và vận dụng khái niệm, hiện tượng đã học.
- Phần Tổng kết về từ vựng được bố trí trong 5 tiết ở Học kì I :
+ Tiết 44 tổng kết 4 nội dung : Từ đơn và từ phức, Thành ngữ, Nghóa
của từ, Từ nhiều nghóa và hiện tượng chuyển nghóa của từ ;
+ Tiết 45 tổng kết 5 nội dung : Từ đồng âm, Từ đồng nghóa, Từ trái
nghóa, Cấp độ khái quát của nghóa từ ngữ, Trường từ vựng
+ Tiết 49 tổng kết 5 nội dung : Sự phát triển của từ vựng, Từ mượn, Từ
Hán Việt, Thuật ngữ và biệt ngữ xã hội, Trau dồi vốn từ
+ Tiết 53 tổng kết 2 nội dung : Từ tượng hình và từ tượng thanh, Một số
phép tu từ từ vựng ( gồm 8 phép tu từ ).
+ Tiết 59 : Luyện tập tổng hợp
- Ba tiết Tổng kết về ngữ pháp ở Học kì II ( tiết 146, 147, 154 ) bao
gồm bốn nội dung : Từ loại (12 từ loại ); Cụm từ ( 3 loại cụm từ ); Thành
phần câu ( 2 thành phần chính, 2 thành phần phụ, 4 thành phần biệt lập );

Các kiểu câu ( Câu đơn, Câu ghép, Biến đổi câu, Các kiểu câu ứng với mục
đích giao tiếp ):
+ Tiết 146, 147 : Từ loại và Cụm từ ;
+ Tiết 154 : Thành phần câu và Các kiểu câu.
I/ Hướng dẫn học sinh chuẩn bò bài ở nhà:

Hướng dẫn về nhà từ lâu đã được xác đònh là một trong những bước
của tiến trình lên lớp. Thông thường, cuối mỗi tiết học, bao giờ giáo viên
cũng thực hiện thao tác này. Tuy nhiên, không phải lúc nào thầy cô cũng
giành thời gian đúng mức và hướng dẫõn cụ thể, đôi lúc việc hướng dẫn chỉ
được nhắc bằng một câu chung chung kiểu như : về nhà các em chuẩn bò bài
A, B,
Đổi mới phương pháp dạy học trong từng tiết dạy trước hết cần đổi mới
việc hướng dẫn về nhà cho học sinh. Để phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh, để mỗi tiết học có chất lượng tốt hơn, theo tôi nghó việc hướng dẫn
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


5
học sinh chuẩn bò bài trước khi học là một việc cần chú ý đúng mức. Đối với
việc dạy – học các bài Tổng kết về từ vựng, Tổng kết về ngữ pháp, do đặc
trưng của bài tổng kết, việc hướng dẫn về nhà ở những tiết trước đó càng có
vai trò quan trọng hơn, thực sự không thể qua loa chiếu lệ . Bởi lẽ kiến thức
được tổng kết trong một tiết học có thể nằm rải rác ở chương trình của cả 4
khối lớp 6, 7, 8, 9. Như vậy đến thời điểm tổng kết thì nhiều nội dung các em
đã học từ hơn ba năm trước. Với khoảng thời gian ấy, thực sự ngay cả học
sinh khá giỏi cũng không dám chắc các em còn nhớ đầy đủ kiến thức đã được
học. Bởi vậy, vấn đề đặt ra với mỗi giáo viên trước khi tiến hành tiết dạy là
cần hướng dẫn, động viên các em ôn tập lại một cách có hệ thống kiến thức
về từ vựng, ngữ pháp. Có thực hiện được yêu cầu trên thì vai trò tích cực,

chủ động của học sinh trong tiết học mới được phát huy. Khách quan mà nói,
nếu không có sự chuẩn bò, không xem lại bài, ôn lại bài một cách nghiêm túc
thì lên lớp học sinh sẽ rất lúng túng, thụ động. Và như vậy dù bản thân giáo
viên có chuẩn bò kó thế nào thì tiết học cũng rất khó thành công, tiết học ấy
không thể đạt được yêu cầu tích cực.
Hiểu rõ điều đó, ngay từ đầu năm học, tôi đã giành thời gian hướng
dẫn hocï sinh học tập bộ môn. Một trong những yêu cầu đặt ra là phải hệ
thống kiến thức theo phân môn ( trong một cuốn vở riêng hoặc ngay cuối vở
ghi trên lớp, vở soạn )- vấn đề này cũng được trao đổi và thống nhất chung
trong tổ chuyên môn .
Đối với các tiết thuộc cụm bài tổng kết trên, tôi hướng dẫn học sinh
chuẩn bò bài như sau ( hướng dẫn chuẩn bò phần lí thuyết ):

* Phần Tổng kết về từ vựng (tiết 44, 45, 49, 53, 59), tôi cho HS hệ
thống 16 đơn vò kiến thức theo hai bảng :
Bảng 1. Hệ thống kiến thức từ vựng ( Gồm 15 nội dung )
Bảng 2. Hệ thống kiến thức về các phép tu từ từ vựng

Đối với các tiết Tổng kết về ngữ pháp (tiết 146, 147, 154), mặc dù có
tiết sách giáo khoa không trực tiếp đưa ra những câu hỏi về lí thuyết, nhưng
không có nghóa là trên lớp giáo viên không cần cho học sinh ôn lại lí thuyết.
Muốn thực hành luyện tập phải hiểu lí thuyết, phải dựa trên hiểu biết lí
thuyết . Bởi vậy, cũng như khi tiến hành các tiết Tổng kết về từ vựng, tôi
hướng dẫn các em hệ thống kiến thức ngữ pháp theo 4 bảng :

Bảng 1. Hệ thống kiến thức về từ loại
Bảng 2. Hệ thống kiến thức về cụm từ
Bảng 3. Hệ thống kiến thức về thành phần câu
Bảng 4. Hệ thống kiến thức về các kiểu câu


Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


6
Khi tiến hành lập bảng hệ thống kiến thức, học sinh không nhất thiết
làm tất cả một lúc mà có thể lần lượt chuẩn bò cho từng tiết

Một yêu cầu đặt ra đối với học sinh khi thực hiện yêu cầu này là các
em phải tự kẻ bảng hệ thống kiến thức vào vở soạn (theo mẫu GV hướng
dẫn), tham khảo lại SGK Ngữ văn 6, 7, 8, 9 để đảm bảo chính xác kiến thức.
Tuyệt đối không cho đánh máy để tránh tình trạng các em copy của nhau và
như vậy rất có thể kiến thức chỉ nằm trên giấy mà không có trong đầu các em.
Lập bảng hệ thống các đơn vò kiến thức từ vựng, ngữ pháp là hoạt
động không khó nhưng đòi hỏi phải có thời gian . Vì vậy không thể ngày mai
có tiết tổng kết, hôm nay giáo viên mới đưa ra yêu cầu soạn bài, ít nhất cũng
phải giao việc cho các em từ vài ngày trước, có khi là cả tuần.
Điều đáng quan tâm là, khi kiểm tra vở soạn của học sinh, tôi phát
hiện thấy một số em soạn không theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. Các
em lần lượt liệt kê từng đơn vò kiến thức. Thực ra, cách làm đó của các em
không có gì sai. Tuy nhiên, với việc lập các bảng hệ thống, các em biết hệ
thống hóa kiến thức theo từng nội dung. Với từng bảng hệ thống, các em sẽ
có cái nhìn bao quát và có tính hệ thống, dễ ghi nhớ kiến thức, dễ đối chiếu
các đơn vò kiến thức với nhau. Bảng hệ thống là hình thức tập hợp kiến thức
một cách khoa học.
Với yêu cầu chuẩn bò bài mà tôi đặt ra cho học sinh trên đây, tôi đã
“kéo các em vào cuộc” thực sự, buộc các em phải vận động, tự mình tìm đến
với kiến thức. Ít nhất, qua tìm – đọc - ghi lại, học sinh có thể nhớ lại được
kiến thức cũ nhiều phần đã bò quên. Và trên cơ sở được yêu cầu chuẩn bò bài
như vậy, đến tiết học các em sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhàng với tâm lí
“toàn những điều mình đã biết”, các em sẽ kết hợp nhòp nhàng hơn với sự

hướng dẫn của giáo viên để ôn lại, tổng kết lại những kiến thức đã học, giờ
học đạt hiệu quả cao hơn. Điều quan trọng là kiến thức các em hệ thống trên
trang vở phần lớn đã được ghi nhớ trong đầu.

Dưới đây là một số bảng hệ thống kiến thức minh họa :

Hệ thống kiến thức từ vựng ( trừ các phép tu từ )

TT Đơn vò kiến thức Nội dung

Ví dụ
1 Từ đơn và từ
phức
- Từ đơn : từ chỉ có một tiếng
- Từ phức : từ gồm hai hoặc nhiều
tiếng
- sách, vở,
- hoa hồng
2 Thành ngữ Là cụm từ có cấu tạo cố đònh, biểu
thò một ý nghóa hoàn chỉnh

Đánh trống
bỏ dùi
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


7
3 Nghóa của từ Là nội dung ( sự vật, tính chất, hoạt
động, quan hệ, ) mà từ biểu thò.



4 Từ nhiều nghóa
và hiện tượng
chuyển nghóa của
từ
- Từ nhiều nghóa : từ có nhiều nét
nghóa khác nhau
- Chuyển nghóa là hiện tượng thay
đổi nghóa của từ tạo ra từ nhiều
nghóa.


5 Từ đồng âm Là những từ giống nhau về âm thanh
nhưng nghóa khác xa nhau.
con đường,
ngọt như
đường
6 Từ đồng nghóa Là những từ có nghóa giống nhau
hoặc gần giống nhau
trái, quả,
7 Từ trái nghóa Là những từ có nghóa trái ngược nhau


to - nhỏ
8 Cấp độ khái quát
của nghóa từ ngữø
Nghóa của một từ ngữ có thể rộng
hơn (khái quát hơn) hoặc hẹp hơn (ít
khái quát hơn) nghóa của từ ngữ khác


- Môït từ ngữ được coi là có nghóa
rộng khi phạm vi nghóa của từ ngữ đó
bao hàm phạm vi nghóa của một số
từ ngữ khác
- Môït từ ngữ được coi là có nghóa
hẹp khi phạm vi nghóa của từ ngữ đó
được bao hàm trong phạm vi nghóa
của một từ ngữ khác
- Một từ ngữ có nghóa rộng đối với
những từ ngữ này đồng thời có thể có
nghóa hẹp đối với một từ ngữ khác.

Sách – sách
giáo khoa –
sách giáo
khoa Ngữ văn

9 Trường từ vựng Là tập hợp của những từ có ít nhất
một nét chung về nghóa.
Chân, tay,
mắt, mũi,
10 Sự phát triển của
từ vựng
Từ vựng của một ngôn ngữ không
ngừng phát triển. Có hai cách phát
triển từ vựng : phát triển nghóa của từ
và phát triển số lượng từ.


11 Từ mượn Từ vay mượn của tiếng nước ngoài


Ra-đi-ô
12 Từ Hán Việt Từ mượn gốc Hán

Nhân, nghóa, .

13 Thuật ngữ và biệt - Thuật ngữ : Là những từ ngữ dùng - ẩn dụ, hoán
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


8
ngữ xã hội chỉ khái niệm khoa học công nghệ,
thường dùng trong văn bản khoa học
công nghệ
- Biệt ngữ xã hội : Là những từ ngữ
được dùng trong một tầng lớp xã hội
nhất đònh.
dụ,


- trúng tủ,
ngỗng,
14 Trau dồi vốn từ - Rèn luyện để nắm được đầy đủ và
chính xác nghóa của từ và cách dùng
từ
- Rèn luyện để biết thêm những từ
chưa biết, làm tăng vốn từ

15 Từ tượng thanh
và từ tượng hình

- Từ tượng hình : Là những từ ngữ
gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái
của sự vật
- Từ tượng thanh : Là những từ ngữ
gợi tả âm thanh của tự nhiên, của
con người.
- Lom khom,
rũ rượi

- Róc rách

Hệ thống kiến thức về các kiểu câu

Kiểu câu Đặc điểm - chức năng

Ví dụ
Câu đơn

Là câu do một cụm C – V tạo thành.

Tôi học bài.
Câu
ghép
Là câu do hai hoặc nhiều cụm C – V
không bao chứa nhau tạo thành . Mỗi
cụm C – V này được gọi là một vế câu.

Vì trời mưa
nên đường lầy
lội

Câu rút
gọn
Là câu đã lược bỏ một số thành phần
như: chủ ngữ, vò ngữ hoặc cả chủ ngữ và
vò ngữ .

- Bạn học chưa?
- Rồi.

Xét
về
cấu
tạo
ngữ
pháp
Câu đặc
biệt
Là loại câu không cấu tạo theo mô hình
chủ ngữ – vò ngữ.

Mưa.Gió.




Xét
về
mục
Câu
nghi vấn


- Là câu có những từ nghi vấn (ai, gì,
nào, ) hoặc có từ hay (nối các vế có
quan hệ lựa chọn);
- Có chức năng chính là dùng để hỏi (kết
thúc bằng dấu chấm hỏi), có thể dùng để
cầu khiến, khẳng đònh, bộc lộ cảm xúc,
(kết thúc bằng dấu chấm, dấu chấm
- Bạn làm gì
thế ?
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


9
than, dấu chấm lửng)

Câu cầu
khiến

- Là câu có những từ cầu khiến như :
hãy, đừng, chớ đi, thôi, nào, hay ngữ
điệu cầu khiến; dùng để ra lệnh, yêu
cầu, đề nghò, khuyên bảo.
- Khi viết thường kết thúc bằng dấu
chấm than, có thể bằng dấu chấm.

- Cậu đừng
nghỉ học!
Câu
cảm

thán
- Là câu có những từ ngữ cảm thán như :
chao ôi, ơi, dùng để bộc lộ trực tiếp
cảm xúc của người nói (người viết).
- Khi viết, câu cảm thán thường kết thúc
bằng dấu chấm than.

Ôi, bông hoa
đẹp quá !
đích
nói
Câu trần
thuật
- Câu trần thuật không có đặc điểm hình
thức của các kiểu câu nghi vấn, cầu
khiến, cảm thán ; thường dùng để kể,
thông báo, nhận đònh, miêu tả, ; có khi
dùng để yêu cầu, đề nghò hay bộc lộ tình
cảm, cảm xúc.
- Khi viết, câu trần thuật thường kết thúc
bằng dấu chấm, bằng dấu chấm than hoặc
dấu chấm lửng.

Hôm nay có
tiết kiểm tra.

( Những nội dung tôi đưa vào các bảng hệ thống kiến thức trên đây chỉ
mang tính chất minh họa kiến thức cơ bản, chưa phải là hoàn toàn đầy đủ )

II/ Hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu tổng kết trên lớp:


1. Hướng dẫn ôn tập lí thuyết :

Không phải là tiết dạy bài mới nên phương pháp qui nạp ( từ phân tích
ngữ liệu đến khái quát hình thành khái niệm ) không còn phù hợp. Trong tiết
tổng kết, có khi GV cho học sinh ôn lại kiến thức bằng cách cho nhắc l nội
dung rồi nêu ví dụ minh họa. Cứ như vậy lần lượt hết nội dung này đến nội
dung khác. Phương pháp này thực sự thiếu sáng tạo, học sinh chủ yếu hoạt
động cá nhân, trả lời theo kiểu ghi nhớ máy móc. Để tránh việc nhắc lại kiến
thức một cách đơn điệu gây nhàm chán, tôi đã chọn nhiều hình thức, cách
thức khác nhau.
- Cách thứ nhất : Sử dụng sơ đồ grap.
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


10
Chẳng hạn, ôn tập nội dung Từ đơn và từ phức ( tiết 44 ), thay vì hỏi :
“Thế nào là từ đơn, từ phức, phân biệt các loại từ phức ?”, tôi dán lên bảng
sơ đồ sau ( trong sơ đồ giới thiệu cho học sinh, có 3 ô đã có nội dung ( từ, từ
phức, từ láy vần ) rồi lần lượt cho HS thực hiện yêu cầu :



















- Một học sinh điền vào các ô trống các nội dung thích hợp .
- Lớp nhận xét, bổ sung.
- Một HS thuyết minh nội dung sơ đồ.
Qua sơ đồ trên, HS có thể bao quát kiến thức về Từ ( xét về đặc điểm
cấu tạo ), có thể phân biệt từ đơn – từ phức, từ ghép – từ láy,
Cách làm này cũng được áp dụng với một số trường hợp khác, như khi
ôn lại Các cách phát triển của từ vựng ( Tiết 49 )










- Cách thứ hai : Hình thức dán – ghép :
TỪ
(Xét về cấu tạo)
Từ đơn


Từ phức

Từ ghép

Từ láy
Từ ghép
chính phụ
Từ ghép
đẳng lập
Từ láy
toàn bộ
Từ láy
bộ phận
Từ láy
âm
Từ láy
vần

Phát triển nghóa
từ
Ph¸t triĨn sè lỵng tõ ng÷

Phương thức
Èn dơ
Phương thức
ho¸n dơ
T¹o tõ ng÷

míi
Mượn từ ngữ

nước ngoài
Sự phát triển của từ vựng

Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


11
Khi ôn lí thuyết Một số phép tu từ từ vựng ( Tiết 53 ): Tận dụng lòch
treo tường có mặt trắng, cắt 8 tấm bằng nhau làm bảng phụ, giao cho 8 em
viết chữ rõ ràng viết 8 khái niệm thuộc các phép tu từ từ vựng (ghi nội dung
khái niệm, bỏ thuật ngữ : so sánh, nhân hóa, ), kiểm tra thấy không cần sửa,
tôi thu lại ( Phần này cho chuẩn bò trước ). Lên lớp, sau khi ghi tên các phép
tu từ ( so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, nói quá, nói giảm nói tránh, điệp
ngữ, chơi chữ ) theo một cột dọc trên bảng, tôi giao cho 8 học sinh ( diện
trung bình và yếu ) mỗi em một bảng phụ yêu cầu ghép đúng nội dung trong
bảng phụ với tên phép tu từ ghi trên bảng. Lần lượt cho đọc để nhận xét đúng
– sai, đồng thời để ghi nhớ kiến thức.
- Cách thứ ba : Hình thức làm bài tập trắc nghiệm : cho học sinh nối
một nội dung ở cột A với một nội dung ở cột B sao cho thích hợp ( GV chuẩn
bò sẵn trên bảng phụ )
Chẳng hạn khi ôn lại các thành phần câu, tôi dùng bảng phụ sau, yêu
cầu học sinh đọc kó từng nội dung rồi xác đònh đặc điểm của từng thành phần
câu bằng cách nối

Cột A
Thành phần câu
Cột B - Nội dung Nối
1. Chủ ngữ a. Là thành phần được thêm vào câu để xác
đònh thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục
đích, phương tiện, cách thức diễn ra sự việc

nêu trong câu.
1 -
2. Vò ngữ b. Là thành phần chính của câu có khả năng
kết hợp với các phó từ chỉ quan hệ thời gian
và trả lời cho các câu hỏi Làm gì ? Làm sao?
Như thế nào ? hoặc Là gì ?
2 -
3. Khởi ngữ c. Là thành phần chính của câu nêu tên sự
vật, hiện tượng có hành động, đặc điểm,
trạng thái, được miêu tả ở vò ngữ .
3 -
4. Trạng ngữ d. Là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để
nêu lên đề tài được nói đến trong câu.
4 -

( Đáp án : 1 – c ; 2 – b ; 3 – d ; 4 – a )
Với những cách thức thực hiện như trên, tôi nhận thấy không khí lớp có
phần sôi động hơn, các em tỏ ra hào hứng hơn; hiệu quả hơn là chỉ mất ít thời
gian mà có thể nhiều em cùng được tham gia vào quá trình học tập.

Một thực tế cho thấy, giữa nhiều đơn vò kiến thức từ vựng và ngữ pháp
thường dễ có sự nhầm lẫn nếu không nắm vững. Vì vậy, khi ôn lại lí thuyết,
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


12
tôi luôn chú ý khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho đối chiếu các
đơn vò kiến thức có mối quan hệ nào đó với nhau .
Chẳng hạn : Đối chiếu hiện tượng đồng âm với hiện tượng từ nhiều
nghóa ( Tiết 45 ). Học sinh cần hiểu đồng âm là hiện tượng nhiều từ có hình

thức ngữ âm giống nhau nhưng nghóa khác xa nhau; Từ nhiều nghóa được
xem xét trong phạm vi các nghóa của một từ – có một nét nghóa chung. Để
hiểu đúng các nghóa của một từ cũng như nghóa của những từ đồng âm, cần
căn cứ vào ngữ cảnh.
Với một số phép tu từ ( Tiết 53 ) cũng có thể đối chiếu với nhau để
hiểu rõ hơn bản chất của chúng. Có thể đối chiếu ẩn dụ với hoán dụ. Điểm
giống nhau giữ hai phép tu từ này là : đều gọi tên sự vật, hiện tượng này
bằng tên sự vật, hiện tượng khác; đều có tác dụng làm tăng sức gợi hình, gợi
cảm cho sự diễn đạt ; Điểm khác nhau là : sự vật – hiện tượng được gọi tên
và sự vật – hiện tượng được nói đến ở phép ẩn dụ có nét tương đồng, còn ở
phép hoán dụ thì có quan hệ gần gũi.
Cũng có thể giúp học sinh phân biệt ẩn dụ và hoán dụ là những phép
tu từ từ vựng với ẩn dụ và hoán dụ là những phương thức phát triển nghóa của từ.
Đề cập đến phần từ loại ( Tiết 146, 147 ), tôi lưu ý học sinh hiện
tượng chuyển loại của từ, hiện tượng cùng âm khác loại.
Ví dụ trường hợp chuyển loại :
- Họ tâm sự với nhau suốt cả buổi. ( động từ )
- Những tâm sự ấy chò giấu kín trong lòng. ( danh từ )
Trường hợp đồng âm khác loại :
- Nhà ấy có rất nhiều của . ( danh từ )
- Quyển sách của tôi đã bò rách. ( quan hệ từ )
- Mẹ cho tôi rất nhiều quà. ( động từ )
- An tặng cho tôi quyển sách. ( quan hệ từ )
- Những học sinh ấy rất ngoan. ( lượng từ )
- Bạn ấy học thuộc những mười bài trong một ngày.(trợ từ
)
Có thể nói, thông qua việc đối chiếu như vậy, bản chất của mỗi đơn vò
kiến thức hiện lên rõ nét hơn, học sinh thấy được nét riêng – khác biệt của
từng nội dung, từ đó loại bỏ được sự mơ hồ về kiến thức.


2. Hướng dẫn làm bài tập:

Trong các tiết tổng kết, có tiết giành hẳn cho các bài tập vận dụng.
Điều đó cho thấy mục đích của việc tổng kết không chỉ là giúp học sinh ghi
nhớ kiến thức đã học mà còn giúp các em biết sử dụng những kiến thức đó
trong giao tiếp, đặc biệt trong việc tiếp nhận, phân tích văn bản, gắn việc dạy
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


13
học những vấn đề từ vựng, ngữ pháp với hoạt động thực tiễn. Như vậy, bên
cạnh việc hướng dẫn học sinh ôn lại kiến thức, cần chú trọng đúng mức việc
hướng dẫn luyện tập.
Tiến trình làm mỗi bài tập thường diễn ra theo thứ tự các bước sau:
- HS xác đònh yêu cầu của bài tập, đònh hướng cách làm (vận dụng kiến
thức nào, phương pháp làm ra sao)
- GV có những gợi ý hướng dẫn.
- Tổ chức cho HS giải đáp bài tập.
- Lớp nhận xét, sửa chữa, bổ sung.
- GV nhận xét, đánh giá.
Để hoạt động luyện tập có hiệu quả, tôi luôn chú ý tìm hiểu trước các
dạng bài tập, yêu cầu, tính chất của mỗi bài tập mà sách giáo khoa đưa ra;
Chọn hình thức hoạt động phù hợp ( Có thể cho hoạt động cá nhân, hoạt động
nhóm, có thể cho thi đua làm nhanh, đúng giữa các tổ, ); Chú ý các đối
tượng học sinh trong lớp, giao bài tập phù hợp cho từng đối tượng.
Trong tình hình hiện nay, việc học văn của học sinh có nhiều thuận lợi vì
sách tham khảo nhiều. Song, một số học sinh sử dụng không đúng. Làm bài
tập nhiều khi các em không đọc kó đề bài, cứ chép đáp án từ sách tham khảo
là xong. Hình thức đối phó ấy khá phổ biến, thật nguy hại. Cũng có trường
hợp khi hướng dẫn luyện tập, GV chỉ dừng lại ở việc học sinh xác đònh đáp

án. Với cách làm hời hợt như vậy rõ ràng chưa đáp ứng được mục tiêu của
việc luyện tập . Các yêu cầu củng cố khắc sâu kiến thức và rèn kó năng đều
chưa đạt hiệu quả.
Tránh trường hợp học sinh nói mò, nói dựa theo sách giải, một yêu cầu
tôi luôn đặt ra cho học sinh khi làm bài tập là yêu cầu giải thích kết quả –
đáp án của bài tập. Trên cơ sở yêu cầu lí giải vì sao lại xác đònh như vậy để
kiểm tra lại kiến thức của các em, qua đó giúp HS hiểu cụ thể, sâu sắc hơn
những đơn vò kiến thức trong bài tập.

Minh họa việc giải đáp bài tập :

* Tiết 44. Bài tập III/ 2 trang 123 - Nghóa của từ :
- Yêu cầu: Chọn cách hiểu đúng trong những cách hiểu sau :
a. Nghóa của từ mẹ là “người phụ nữ, có con, nói trong quan hệ với con”
b. Nghóa của từ mẹ khác với nghóa của từ bố ở phần nghóa “người phụ
nữ, có con”
c. Nghóa của từ mẹ không thay đổi trong hai câu : Mẹ em rất hiền và
Thất bại là mẹ thành công.
d. Nghóa của từ mẹ không có phần nào chung với nghóa của từ bà.
- Sau khi cho HS thảo luận chọn đáp án ( đáp án (a)), tôi nêu vấn đề :
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


14
? Các cách hiểu (b), (c), (d) không đúng, vì sao ?
- GV gợi ý để HS lí giải . Cần giúp HS thấy rõ lí do không chọn (b), (c),
(d) là :
+ Nghóa của từ mẹ khác với nghóa của từ bố ở phần nghóa “người phụ
nữ”
+ Nghóa của từ mẹ thay đổi trong hai câu : Mẹ em rất hiền và Thất bại

là mẹ thành công :
Trong câu Mẹ em rất hiền, mẹ có nghóa gốc ( như ở câu (a))
Trong câu Thất bại là mẹ thành công : mẹ - nghóa chuyển . Mẹ ở đây có
nghóa là cái gốc, cái chính, từ đó sinh ra những cái khác.
+ Nghóa của từ mẹ có phần chung với nghóa của từ bà ở phần nghóa
“người phụ nữ”.
Như vậy chỉ có ý (a) nêu cách hiểu đúng về nghóa của từ mẹ.
Từ bài tập trên, học sinh cần thấy rằng muốn làm được những bài tập
dạng này cần có kiến thức về nghóa của từ. Tra từ điển là một trong những
cách học tốt nhất để hiểu đúng nghóa của từ.

* Tiết 44. Bài tập IV/ 2 trang 124 – Từ nhiều nghóa

Yêu cầu : Trong hai câu thơ sau, từ hoa trong thềm hoa, lệ hoa được
dùng theo nghóa gốc hay nghóa chuyển ? Có thể coi đây là hiện tượng chuyển
nghóa làm xuất hiện từ nhiều nghóa được không ? Vì sao ?

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng !
( Nguyễn Du, Truyện Kiều )
Đây là một bài tập tương đối khó, thường chỉ những học sinh khá, giỏi
mới có thể giải thích rõ ràng.
Để giúp HS làm và hiểu được bài tập này, tôi sử dụng một số câu hỏi
gợi ý như sau :
- Từ hoa vốn có nghóa gốc là gì ?(một bộ phận trên cây, có màu sắc, )
- Trong câu thơ trên, từ hoa chỉ ai, sự vật gì ? Giữa sự vật được gọi tên
và sự vật được nói tới có quan hệ gì ? ( chỉ Thúy Kiều, nước mắt Thúy Kiều
– có điểm giống nhau -> ẩn dụ )
Như vậy, từ hoa trong câu thơ được dùng theo nghóa chuyển ( chỉ Thúy
Kiều, nước mắt Thúy Kiều ). Tuy nhiên không thể coi đây là hiện tượng

chuyển nghóa làm xuất hiện từ nhiều nghóa, vì nghóa chuyển này của từ hoa
chỉ là nghóa chuyển lâm thời – trong văn cảnh ( phép tu từ ẩn dụ ), nó chưa
làm thay đổi nghóa của từ, chưa thể đưa vào từ điển .
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


15
Với phần giải thích trên, HS biết phân biệt hiện tượng chuyển nghóa
lâm thời ( theo một phép tu từ nào đó ) với hiện tượng chuyển nghóa để tạo ra
từ nhiều nghóa.

* Tiết 45. Bài tập VII/ 3 trang 125 – Từ trái nghóa:
Học sinh có thể xếp đúng các cặp từ trái nghóa theo hai nhóm :
Nhóm 1 : sống – chết, chẵn – lẻ, chiến tranh – hòa bình
Nhóm 2 : yêu – ghét, cao – thấp, già – trẻ, nông – sâu, giàu – nghèo
Để các em hiểu được lí do xếp các cặp từ trái nghóa theo hai nhóm như
trên, tôi nêu câu hỏi : Các cặp từ trái nghóa trong hai nhóm trên có đặc điểm
gì khác nhau ?
Các em cần biết được rằng :
+ Hai từ trái nghóa thuộc các cặp từ trái nghóa ở nhóm 1 biểu thò hai
khái niệm đối lập nhau và loại trừ nhau, khẳng đònh cái này nghóa là phủ
đònh cái kia – gọi là trái nghóa lưỡng phân;
+ Ở nhóm 2, hai từ trái nghóa kiểu này biểu thò hai khái niệm có tính
chất thang độ, khẳng đònh cái này không có nghóa là phủ đònh cái kia – gọi là
trái nghóa thang độ.
Đây là một trong những khía cạnh mà có thể khi học từ trái nghóa ở
lớp 7 các em chưa đề cập đến.

* Tiết 49 . Bài tập V/ 3 trang 136 – Trau dồi vốn từ
Sửa lỗi dùng từ trong những câu sau :

a. Lónh vực kinh doanh béo bổ này đã thu hút sự đầu tư của nhiều công
ti lớn trên thế giới.
b. Ngày xưa Dương Lễ đối xử đạm bạc với Lưu Bình là để cho Lưu
Bình thấy xấu hổ mà quyết chí học hành, lập thân.
c. Báo chí đã tấp nập đưa tin về sự kiện SEA Games 22 được tổ chức
tại Việt Nam.
Làm bài tập trên, học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi như sau :
+ ở câu (a): thay từ béo bổ bằng từ béo bở
+ ở câu (b) : thay từ đạm bạc bằng từ tệ bạc
+ ở câu (c) : thay từ tấp nập bằng từ tới tấp
Đáp án hoàn toàn đúng, song khi hỏi tại sao xác đònh lỗi dùng từ thể
hiện ở các từ béo bổ, đạm bạc, tấp nập ; tại sao phải thay bằng những từ béo
bở, tệ bạc, tới tấp thì rất ít em giải thích được, giải thích không rõ.
Cần giải thích được ở từng trường hợp như sau :
- Ở câu (a), từ béo bổ là từ ghép chỉ những chất, món ăn có tác dụng
cung cấp nhiều dưỡng chất cho cơ thể. Nội dung của câu văn nói về lónh vực
kinh doanh thu hút sự đầu tư của nhiều công ti lớn trên thế giới – theo suy
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


16
luận, đó phải là lónh vực mà các nhà kinh doanh nhận thấy dễ mang lại lợi
nhuận lớn, vậy phải dùng từ béo bở ( dễ mang lại nhiều lợi )
- Câu (b) : Nói về việc đối xử của Dương Lễ với Lưu Bình, cách đối xử
không tốt, không thể dùng từ đạm bạc ( sự ăn uống, chỉ có mức tối thiểu
những thứ cần thiết, không có những thức ăn ngon, đắt tiền ) mà phải dùng từ
tệ bạc ( tỏ ra không ghi nhớ ơn nghóa, không giữ trọn tình nghóa trước sau
trong quan hệ đối xử )
- Câu (c) cũng giải thích tương tự.
Từ bài tập này giúp học sinh nhận ra rằng yêu cầu trau dồi vốn từ ( rèn

luyện để nắm được đầy đủ và chính xác nghóa của từ và cách dùng từ, rèn
luyện để làm tăng vốn từ ) là hết sức cần thiết. Phải trên cơ sở hiểu đầy đủ
và chính xác nghóa của từ và cách dùng từ, có vốn từ phong phú, thận trọng
trong việc sử dụng từ ngữ thì mới có thể tránh được lỗi diễn đạt .

* Tiết 146. Bài tập A/I/ 5 trang 131 (Tập hai) – Từ loại

Bài tập yêu cầu xác đònh từ loại của các từ in đậm ( vốn thuộc từ loại
nào và trong câu văn chúng được dùng như từ thuộc từ loại nào )
a. Nghe gọi con bé giật mình, tròn mắt nhìn
(Nguyễn Quang Sáng)
b. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ
(Nguyễn Thành Long)
c. Những băn khoăn ấy làm cho nhà hội họa không nhận xét được gì ở
cô con gái ngồi trước mặt đằng kia.
(Nguyễn Thành Long)
Đáp án : a. tròn là tính từ, ở đây nó được dùng như động từ
b. lí tưởng là danh từ, ở đây nó được dùng như tính từ
c. băn khoăn là tính từ, ở đây nó được dùng như danh từ
Khi đáp án trên được nêu ra, chắc chắn có nhiều em không hiểu, nhiều
em phân vân không biết đúng, sai thế nào. Cũng như một số bài tập khác,
nếu không giải thích rõ, nhiều học sinh sẽ rất mơ hồ, biết là“biết vậy”.
Câu hỏi đặt ra ở đây là : dựa vào đâu có thể xác đònh được đáp án như
vậy ?
Trường hợp này yêu cầu học sinh phải giải thích được :

- Việc xác đònh gốc từ loại của các từ tròn, lí tưởng, băn khoăn phải
dựa vào hiểu biết đặc điểm các từ loại .
+ Các từ tròn, băn khoăn chỉ đặc điểm, tính chất của sự vật nên nó là
tính từ.

+ Lí tưởng là từ chỉ khái niệm – nó là danh từ.

Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


17
- Trong văn cảnh, các từ tròn, lí tưởng, băn khoăn đều đã chuyển loại :
+ Từ tròn (a) chỉ trạng thái của sự vật (mắt )- được dùng như động từ .
Cơ sở kiểm chứng là có thể kết hợp với đang hoặc một số phó từ khác .
+ Từ lí tưởng (b) chỉ tính chất nơi ở (theo sự nhìn nhận với thái độ lạc
quan ) – được dùng như tính từ. Có thể kết hợp với các phó từ chỉ mức độ như
rất, quá,
+ Từ băn khoăn (c) kết hợp với những ( từ kiểm chứng về danh từ ), có
ý nghóa chỉ sự vật – được dùng như danh từ.

* Tiết 154. Bài tập D/ I / 1 trang 146 – Các kiểu câu / câu đơn

Nhiệm vụ của học sinh khi làm bài tập này là tìm chủ ngữ, vò ngữ trong
câu.
Thay bằng việc cho xác đònh rồi lí giải, tôi cho học sinh nêu đặc điểm,
dấu hiệu nhận biết chủ ngữ, vò ngữ sau đó mới tiến hành xác đònh chủ ngữ, vò
ngữ trong từng câu. Như vậy đáp án các em nêu ra hoàn toàn có cơ sở về lí
thuyết.

* Tiết 154. Bài tập D/ II / 1 trang 147 – Các kiểu câu / câu ghép.
Khi học sinh tìm ra các câu ghép, tôi yêu cầu xác đònh các cụm C- V ở
từng câu để minh họa cụ thể ( Bài tập được ghi trên bảng phụ để học sinh
phân tích cấu tạo câu theo sơ đồ ).

Việc giải thích cơ sở của đáp án, cách làm đối với từng bài tập như đã

đề cập trên đây là việc làm nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh,
tăng sức thuyết phục cho đáp án của bài tập. Mọi đáp án đều sáng tỏ, không
còn gì phải nghi hoặc. Mặt khác để học sinh thấy rằng bao giờ làm bài tập
cũng phải dựa trên hiểu biết lí thuyết. Chỉ khi nào các em thật sự hiểu bài thì
mới có thể vận dụng tốt trong việc luyện tập, trái lại qua việc lí giải được
cách làm, lí giải đáp án mới chứng tỏ các em thực sự hiểu và nắm chắc kiến
thức. Qua cách làm ấy, các kó năng như : vận dụng kiến thức vào thực hành,
kó năng nói, kó năng lập luận , của học sinh cũng được chú trọng rèn luyện.









Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


18
C/ KẾT QUẢ

Thực hiện việc hướng dẫn chuẩn bò bài ở nhà có kế hoạch và nội dung
cụ thể, tổ chức ôn tập, tổng kết với sự linh hoạt về phương pháp, hướng dẫn
giải bài tập kó càng, tôi nhận thấy các tiết dạy Tổng kết về từ vựng, Tổng
kết về ngữ pháp ở lớp 9 nhẹ nhàng mà có hiệu quả cao hơn . Kết quả mà tôi
nhận thấy rõ là :
Thứ nhất, 100 % học sinh có thói quen chuẩn bò bài ở nhà.
Thứ hai, trong tiết học nhờ có sự chuẩn bò bài chu đáo, học sinh thực sự

chủ động, tích cực tham gia xây dựng bài. Nhiều HS yếu cũng mạnh dạn phát
biểu bởi câu hỏi là những điều các em đã biết, đã ôn lại, nhớ được, tiết học
vì vậy sôi nổi hẳn lên.
Thứ ba, với yêu cầu làm bài tập như tôi đã đặt ra, nhiều em cũng có
dòp hiểu rõ hơn những điều trước đây các em chưa kòp hiểu. Một số em lâu
nay do năng lực yếu, chỉ nói dựa ( dựa vào sách giải ) nay cũng tập được tính
tự lập. Việc củng cố, khắc sâu kiến thức và rèn kó năng vận dụng thực hành,
vận dụng kiến thức Tiếng Việt trong giao tiếp cũng đạt được những kết quả
nhất đònh. Ngoài ra tôi cũng đã rèn cho học sinh năng lực phân tích, tổng hợp,
hệ thống hóa kiến thức theo từng cụm bài, từng phân môn,
Thứ tư, điều đáng mừng là trong những tiết học này các em thật sự có
tâm lí hứng thú chứ không bò sức ép sợ cô hỏi bài cũ mà không nhớ . Các em
cảm thấy thoải mái hơn mỗi khi vào học tiết Ngữ văn.
Có thể thấy rõ kết quả trong các bài kiểm tra của học sinh lớp 9 liên
quan đến kiến thức Tiếng Việt lớp 6, 7, 8, 9 cơ bản các em đều làm được.

D/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Để có được những tiết dạy – học tốt không phải chỉ chú ý tới một vài
yêu cầu. Những điều tôi đề cập trên đây chỉ là một số biện pháp thông
thường trong rất nhiều biện pháp, phương pháp mà người giáo viên luôn chú
trọng và vận dụng sáng tạo. Tuy chưa hoàn toàn được như mong muốn, song
với những kết quả đạt được, tôi coi đó là nguồn động viên lớn cho sự nổ lực
của mình . Qua thực tiễn các giờ dạy ấy, bản thân tôi đã rút ra một số bài học
kinh nghiệm như sau :
1/ Là người trực tiếp giảng dạy, giáo viên phải thực sự nhiệt tình, tâm
huyết với nghề nghiệp, trăn trở với bài dạy, tìm hiểu nắm chắc kiến thức cơ
bản của bài học và những kiến thức liên quan ; linh hoạt, sáng tạo trong việc
vận dụng phương pháp dạy học. Bản thân thầy cô giáo cần có thái độ thân
thiện, gần gũi, tận tụy với học sinh. Chỉ bảo, hướng dẫn về phương pháp học

tập bộ môn để việc học tập của học sinh cũng như giờ dạy đạt được kết quả
tốt.
Trịnh Thị Hạnh – THCS Bùi Thị Xn


19
2/ Xây dựng tình cảm yêu thích học tập bộ môn, tạo cho học sinh tâm lí
hứng thú, say mê học tập; có thói quen, kó năng học tập bộ môn; biết hệ
thống kiến thức theo từng nội dung lớn; thành thạo về kó năng giải bài tập, .
3/ GV phải hiểu rõ đối tượng học sinh trong từng lớp để vận dụng
phương pháp dạy học phù hợp. Trong tiến trình lên lớp, giáo viên phải quan
tâm các đối tượng học sinh, đặc biệt những học sinh còn nhiều hạn chế trong
việc tiếp thu kiến thức và vận dụng thực hành . Tạo môi trường để phát huy
tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Qua mỗi tiết học cần giúp
các em nắm chắc hơn kiến thức và thành thạo hơn về kó năng thực hành.
4/ Riêng với việc giảng dạy các tiết có tính chất tổng kết kiến thức,
bên cạnh những yêu cầu khác, cần chú ý đúng mức việc hướng dẫn chuẩn bò
bài, tổ chức hoạt động trên lớp sao cho nhẹ nhàng mà hiệu quả; hướng dẫn
làm bài tập không chỉ lấy mục tiêu là giải nhiều bài tập mà cần chú trọng
việc củng cố kiến thức và rèn kó năng.

Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà tôi đúc rút được qua thực tế
giảng dạy các bài Tổng kết về từ vựng, Tổng kết về ngữ pháp ở lớp 9.
Phần nào những cách thức thực hiện đó cũng đã thể hiện việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn ở Trung học cơ sở. Thực tế kinh nghiệm
giảng dạy của bản thân như đã trình bày có thể vẫn còn những mặt chưa thật
thuyết phục, cũng không hẳn đã đem lại hiệu quả hoàn toàn như mong muốn
. Kính mong sự góp ý chân thành của các cấp chỉ đạo chuyên môn, của Hội
đồng giám khảo và của đồng nghiệp. Bản thân tôi sẽ tích cực học hỏi, tích
cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học hơn nữa nhằm thực hiện mục

tiêu lấy học sinh làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động, tích cực của học
sinh trong việc chiếm lónh tri thức để không ngừng nâng cao chất lượng dạy -
học môn Ngữ văn theo yêu cầu của tinh thần đổi mới.

×