Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 3 THÔNG QUA MÔN ĐẠO ĐỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.25 KB, 38 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
ASỞ GD & ĐT TỈNH BÌNH DƯƠNG
PHÒNG GD & ĐT HUYỆN DẦU TIẾNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỊNH HIỆP
TỔ KHỐI 3
***
ĐỀ TÀI :MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 3 THƠNG QUA MƠN ĐẠO ĐỨC

Người thực hiện : PHẠM THỊ THANH
Năm học : 2010 – 2011
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 1 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
MỤC LỤC
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ … ……………………………………………Trang 2
II/ CƠ SỞ LÍ LUẬN Trang 5
1. cơ sở lí luận Trang 5
2. cơ sở thực tiễn Trang7
3. nội dung vấn đề…………………………………………………Trang 8
III/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trang 9
IV/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU………………………………………Trang 9
V/ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Trang 9
VI/ CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU………………… Trang 10
VII/ THỰC TRẠNG
1. Nhận định chung : ……………………………………………… Trang 10
2. Nguyên nhân…………………………………………………… Trang 10
VIII/MỘT SỐ BIỆN PHÁP…………………………………………….Trang 11
1. Nắm vững mục tiêu…………………………………………… Trang 11
2. Nắm vững quan điểm chung…………………………………… Trang 12
3. Các vấn đề lí luận……………………………………………… Trang 13
4. Nắm vững nội dung chương trình……………………………… Trang 18


5. Tìm hiểu lứa tuổi……………………………………………… Trang 18
6. Tổ chức, vận dụng tốt các phương pháp và hình thức dạy học… Trang 19
7. Thiết kế bài dạy minh họa……………………………………… Trang 20
IX / KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC ………………………………………… Trang 30
1.Kết luận…………………………………………………………… Trang 30
2.Kết quả…………………………………………………………… Trang 32
3. Đánh giá hội đồng sư phạm……………………………………Trang 37

Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 2 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011

I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Đạo đức là một nhân tố quan trọng của nhân cách và được xem là khái niệm luân
thường đạo lý của của con người, nó thuộc về vấn đề đánh giá tốt/xấu, đúng/sai,
lành/ác, hiền/dữ, v.v. trong phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo
đức và trừng phạt mà đôi lúc còn được gọi là giá trị đạo đức. Đạo đức gắn liền với
văn hóa, chủ nghĩa nhân văn, triết học và luật pháp của một xã hội. Hay nói một
cách dễ hiểu, đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm hồn con người, mà
những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói, hành vi bên ngoài phù hợp với
những quy tắc xử sự của cộng đồng, xã hội khiến cho mọi người chung quanh
được an vui, lợi ích và chuyển hóa.
Có thể nói đạo đức là cái tốt, cái đúng ở bên trong con người được biểu hiện
ra bên ngoài bằng lời nói, hành vi. Đạo đức là gốc bên trong được chuyển hóa
thành lời nói và hành vi tốt đẹp bên ngoài. Tức là con người phải có nhận thức
đúng, tốt về sự vật hiện tượng và từ đó có lời nói, hành vi tốt đẹp, đúng đắn với sự
vật hiện tượng. Để có được nhận thức đúng cần phải có giáo dục. Đạo đức con
người không phải có sẵn mà phải được giáo dục. "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
phần nhiều do giáo dục mà nên" (Hồ Chí Minh). Giáo dục nói chung và giáo dục
đạo đức nói riêng phải được thực hiện ngay từ lúc nhỏ, từ lứa tuổi tiểu học.
Trong công tác giáo dục bậc Tiểu học là bậc học giữ vai trò quan trọng

trong việc hình thành nhân cách cho học sinh nhằm xây dựng và phát triển con
người làm chủ tương lai cho đất nước. Trong đó giáo dục đạo đức là một trong
những hoạt động giáo dục cơ bản nhất trong các bậc học của học sinh nhằm làm
cho nhân cách được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những nhận thức, ý
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 3
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 3 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
thức tình cảm đạo đức, có những thói quen, hành vi ứng xử đúng mực trong các
mối quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân đối với mọi người xung quanh.
Giáo dục đạo đức là một bộ phận rất quan trọng của quá trình sư phạm, đặc
biệt là ở Tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức
cho học sinh, giúp các em ứng xử đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng
ngày. Có thể nói, nhân cách của học sinh Tiểu học thể hiện trước hết qua bộ mặt
đạo đức. Điều này thể hiện qua thái độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em
ruột trong gia đình, với thầy cô giáo, bạn bè qua thái độ với học tập, rèn luyện
hàng ngày. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học nói chung và học
sinh lớp 3 nói riêng giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Vì bậc Tiểu học là bậc học
nền tảng. Sự phát triển nhân cách bắt nguồn từ môi trường này. Các nề nếp, thói
quen, các cử chỉ hành vi đều được xây dựng từ đây.
Nói chung môn giáo dục đạo đức có vai trò và vị trí rất quan trọng trong
việc giáo dục thế hệ trẻ bậc Tiểu học không chỉ ở phần bồi dưỡng nhận thức về
chuẩn mực đạo đức xã hội, mà chủ yếu góp phần định hình và phát huy những
phẩm chất cần thiết của nhân cách con người với những hành vi cao đẹp đầy tính
nhân văn.
Tuy nhiên, hiện nay, việc giáo dục đạo đức trong nhà trường tiểu học gặp
nhiều trở ngại. Phương tiện nghe nhìn ngày càng phát triển làm cho trẻ dễ dàng
tiếp cận và từ đó làm cho các em dễ dàng tiếp nhận những điều xấu. Bên cạnh đó,
ở gia đình và xã hội có rất nhiều điều trái ngược với các nội dung đạo đức được
dạy học trong nhà trường. Những điều trái ngược này do người lớn thực hiện một
cách thường xuyên trực tiếp trước mắt các em. Đó là các ý thức như: giữ gìn vệ

sinh chung nơi công cộng, chấp hành luật lệ giao thông, giúp đỡ người già neo
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang2
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 4 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
đơn, giúp người có hoàn cảnh khó khăn, gặp hoạn nạn, nói lời hay lịch sự, v.v.
không được cha mẹ, anh chị, những người xung quanh làm đúng như nhà
trường, thầy cô chỉ dạy. Những điều trái ngược này ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ.
Các em có hoàn toàn tin vào những điều thầy cô dạy bảo. Hay là các em phải làm
theo cha
mẹ và những người xung quanh. Và dần dần có thể thấy hình ảnh học sinh ngoan
ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo, ông bà, cha mẹ, thương yêu bạn bè đang bị phai
nhạt ở đâu đó.
Cho dù có gặp những khó khăn gì đi nữa, với bản chất là một trong những
đơn vị văn hóa giáo dục quan trọng đối với trẻ bậc Ttiểu học, trường Tiểu học cần
có những biện pháp khắc phục để đảm bảo việc giáo dục đạo đức đạt yêu cầu theo
sự phát triển của kinh tế - văn hóa - xã hội. Bởi lẽ sự phát triển của kinh tế - văn
hóa - xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu ngày càng
cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con
người "phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức" mà trong đó giáo dục đạo đức ở bậc Tiểu học có tính cốt lõi, nền
tảng.
Bác Hồ thường nói:
“ Có tài mà không có đức là người vô dụng
Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.”
Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng
ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao
động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo. Dám nghĩ dám làm
thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn thay đổi và phát triển. Nhu cầu này đòi
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 3
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 5 -

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
hỏi ngành giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình đất nước.
Và thực sự ngành giáo dục đã từng bước thay đổi, thể hiện qua việc xác định
mục đích giáo dục đào tạo, hay nói đúng hơn là phát triển toàn diện về nhân
cách con người thể hiện qua hai mặt là : “Tài và Đức”.
Dù ở xã hội nào thì cái đức vẫn luôn được coi trọng vì: Cái đức là gốc, cái
tài là sự biểu hiện của cái đức.
Vì vậy việc giáo dục cái đức cho học sinh là một yêu cầu quan trọng,
đang trở thành một vấn đề bức xúc mà xã hội quan tâm. Tình trạng này không
chỉ xuất hiện ngoài xã hội mà còn len lỏi vào trong cả trường học. Biểu hiện rõ
nhất là trong các lớp học vẫn còn có những học sinh chưa ngoan, yếu kém về
đạo đức. Cũng chính vì sự chưa ngoan đó mà dẫn đến tình trạng học lực yếu,
học lực kém, làm ảnh hưởng không ít đến những thành viên khác trong lớp học.
Là người làm công tác giáo dục có nhiệm vụ nâng đỡ và uốn nắn để giúp
học sinh có sự phát triển đúng đắn về nhân cách, về đạo đức nhằm giúp các em
có điều kiện gần gũi nhau, thường xuyên trao đổi động viên uốn nắn kịp thời
tiến bộ qua từng ngày.Mặt khác trong những năm qua những năm công tác tại
Trường Tiểu học Định Hiệp tôi luôn đề cao vấn đề giáo dục đạo đạo đức cho
học sinh .Với sự giáo dục đạo đức các em qua các môn học, giáo dục các em
thực hiện tốt nội qui, nề nếp của học sinh từng bước được thay đổi theo chiều
hướng tích cực hơn. Các em học sinh đã ngày càng ý thức hơn, chấp hành tốt
hơn các nội qui, qui định của nhà trường cũng như của giáo viên chủ nhiệm.
-Tuy nhiên vẫn còn một số học sinh chưa ngoan, thiếu ý thức, thiếu sự quan
tâm của cha mẹ, lại thường hay giao du với các phần tử xấu ngoài xã hội dẫn
đến việc các em thiếu lễ phép với người lớn, không vâng lới thầy cô, cha mẹ…
v v. Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên tôi mạnh dạn chọn đề tài:
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang4
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 6 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
“Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức học cho học sinh

lớp 3/2 thông qua môn Đạo đức”.
II/CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Cơ sở lí luận:
*Một số khái niệm có liên quan đến đề tài:
a/ Giáo dục là gì:
- Theo nghĩa rộng, giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài: Từ nhà
trường, gia đình , xã hội, từ môi trường tự nhiên, môi trường nhân tạo.
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách người được giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm nhà
trường, liên quan đến các mặt giáo dục, đức dục, mỹ dục, thể dục và giáo dục
lao động.
b/ Đạo đức là gì :
Đạo đức là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những qui
tắc, nguyên tắc chuẩn mực xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh các
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, với hạnh phúc của bản thân của
cộng đồng và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân với xã hội.
c/ Thế nào là học sinh chưa ngoan và dấu hiệu của học sinh chưa ngoan:
-Học sinh chưa ngoan là hậu quả của sự phá vỡ những mối liên hệ bình
thường của học sinh với gia đình, nhà trường và xã hội. Trong ngôn ngữ
thường ngày trẻ chưa ngoan còn được gọi là trẻ “khó dạy”, “ Chậm tiến”…
* Những dấu hiệu của học sinh chưa ngoan :
- Tính mâu thuẩn trong hành vi do những mâu thuẩn trong sự phát triển
nhân cách tạo nên. Trí tuệ phát triển nhưng tình cảm hầu như không phát triển,
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 7 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
hoặc ngược lại. Hay tầm hiểu biết rất hạn chế nhưng kinh nghiệm xấu trong
cuộc sống hàng ngày lại phong phú.
- Thái độ xung đột kéo dài đối với những người xung quanh.

- Tính không ổn định của các hứng thú, nguyện vọng lúc thế này, lúc thế
khác.
2/Cơ sở thực tiễn:
-Đối với học sinh trong quá trình hình thành thì trường học chính là nơi các
em chính thức được học tập và rèn luyện một cách nghiêm túc nhất. Bước vào
trường học mỗi học sinh được tạo ra cơ hội để tiếp thu giáo dục, ý thức đầy đủ
về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với toàn bộ các hoạt động học tập rèn luyện của
mình.
-Trong môi trường, mới các em tiếp thu và hình thành các quan hệ xã hội đa
dạng, nhất là với bạn bè xung quanh và được phát triển có định hướng rõ ràng.
Song, bên cạnh đó các em hầu như chưa thật sự nổ lực, phấn đấu để trở thành
người học sinh toàn diện, mà bên cạnh những cái hay, cái đẹp, vẫn còn tồn tại
những cái xấu, cái chưa hoàn hảo. Hay nói cách khác học sinh khá giỏi về học
lực, tốt về đạo đức rất nhiều nhưng học sinh yếu về học lực, có đạo đức chưa
tốt vẫn còn. Hầu như các em có đạo đức không tốt là những học sinh có hành vi
đạo đức xuất phát từ những động cơ xấu, không theo một chuẩn mực đạo đức
nào.
-Như đã nói ở trên, những học sinh cá biệt chưa ngoan có tầm hiểu biết hạn
chế những kinh nghiệm “xấu” trong cuộc sống hàng ngày lại rất phong phú, có
thái độ xung đột kéo dài đối với những người xung quanh. Các em thường lập
thành một nhóm riêng không thích hoà đồng với mọi người, dửng dưng trước
mọi hoạt động của lớp, của trường. Nhìn chung những học sinh này thường có
những hành vi không tốt với mọi người như: Quậy phá, chọc ghẹo bạn bè, hổn
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 5
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 8 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
hào với thầy cô, thích nghỉ học, không tuân theo nội qui của trường, của lớp,
thậm chí đánh nhau với bạn bè…và còn rất nhiều những thói hư tật xấu khác.
-Theo tôi những hành động trên là những hành động có ý thức, nhưng do
nhận thức bị sai lệch. Vì thế trách nhiệm của người thầy không kém phần quan

trọng, nên xem việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt chưa ngoan là công
việc quan trọng. Muốn thực hiện tốt việc này đòi hỏi người thầy phải kiên trì,
bền bỉ, khéo léo để từng bước uốn nắn giúp đỡ cho các em trở thành một học
sinh ngoan, có tư cách, có đạo đức tốt.
Vì vậy điểm tựa vững chắc nhất của các em là gia đình và nhà trường, trong
đó đặc biệt quan trọng là giáo viên chủ nhiệm.
3 /Nội dung vấn đề:
a/ Vấn đề đặt ra : Những nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa ngoan và tác
hại.
*Nguyên nhân:
-Do tính hiếu động, sự lôi kéo của bạn bè xấu, sự thiếu quan tâm của gia
đình, nhà trường và xã hội. Vô tình đã thu hút các em vào những việc làm
không tốt, các em thường tỏ ra chai lì, không cảm thấy xấu hổ khi bị phê bình,
có phản ứng gay gắt, không lành mạnh… Những học sinh này thường biện hộ
cho hành vi sai lệch của mình. Các em thường lừa dối cha mẹ, thầy cô, các em
thường đánh nhau trong và ngoài nhà trường. Bắt chước những thói hư tật xấu
của bạn bè xấu. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng phạm pháp ở lứa tuổi thanh thiếu
niên ngày càng tăng.
*Tác hại:
Việc học sinh chưa ngoan sẽ gây nhiều tác hại:
-Đối với xã hội: Làm xã hội chậm phát triển, mất trật tự xã hội.
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang6
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 9 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
-Đối với gia đình: Những học sinh này là mối lo ngại lớn, ảnh hưởng đến
các thành viên còn lại trong gia đình. Nói chung những em này luôn mang đến
cho gia đình nhiều phiền toái.
-Đối với nhà trường: Gây trở ngại lớn đến nề nếp, chất lượng, nội qui của
lớp. Làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp, thậm chí còn để lại tai
tiếng cho trường, cho lớp.

-Đối với tập thể bạn bè: Các em này thường lôi kéo bạn bè tiêm nhiễm
những thói hư tật xấu của mình, gây ảnh hưởng lớn đến gia đình, nhà trường và
xã hội.
-Đối với giáo viên: Luôn phải bận tâm với những phần tử hư hỏng này, phải
luôn tìm ra biện pháp phù hợp để hướng thiện cho các em, nó còn gây ảnh
hưởng đến việc đánh giá xếp loại thi đua của giáo viên.
-Đối với bản thân: Các em này sẽ bị ảnh hưởng lớn đến việc học tập, sự tiến
thân của các em sau này.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
* Mục đích của đề tài nhằm:
- Tìm hiểu việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh
lớp 3.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
- Tìm hiểu vấn đề giáo dục đạo đức ở học sinh lớp 3/2
- Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3/2 Trường Tiểu học
Định Hiệp.
- Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 7
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 10 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- Đề xuất một số biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học
sinh lớp 3/2.
V. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
1 Khách thể nghiên cứu là rèn luyện đạo đức cho học sinh lớp 3/2.
2 Đối tượng nghiên cứu: Việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3/2.
VI. CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU :
Giáo dục tâm lý tiểu học nhà xuất bản giáo dục, Sách giáo khoa lớp 3, Đạo
đức và phương pháp Đạo đức ở Tiểu học(tài liệu đào tạo giáo viên Tiểu học
Liên thông từ trung học sư phạm lên Cao đẳng sư phạm nhà xuất bản Giáo dục).

VII. THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH LỚP 3/2:
1/ Nhận định chung:
Năm học 2010 - 2011 được sự phân công phân nhiệm của nhà trường, bản
thân tôi được phụ trách lớp 3/2 Trường Tiểu học Định Hiệp.
Với tổng số học sinh 35/14 nữ.
Các em chưa xác định được động cơ học tập, thiếu chuyên cần, lười lao
động, nói năng không lễ phép, gặp người lớn, thầy cô không chào hỏi, xưng hô
bằng mày tao…
Có vài học sinh chưa ngoan như em: Nguyễn Thành Đạt, Nguyễn Tấn Đạt,
Lê Quốc Kiệt, Nguyễn Ngọc Nhân, đa số các em không nghe lời cha mẹ, lười
biếng học, không vâng lời thầy cô.
2/ Nguyên nhân:
- Đa số các em là con em nông dân, công nhân, phần lớn phụ huynh giành
phần lớn thời gian lo cuộc sống mưu sinh. Việc học tập và giáo dục trẻ đều
khoán trắng cho giáo viên và nhà trường, hoặc quá nuông chiều con cái.
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 8
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 11 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- Sự phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện thông tin đại
chúng làm cho trẻ có điều kiện tiếp xúc với văn hóa của nhân loại, các em có sự
hiểu biết về hơn và thông minh hơn.
- Nói tới dạy đạo đức, học đạo đức người ta luôn thấy nặng nề và không
mấy hứng thú khi học môn này. Từ chỗ xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho học
sinh tiểu học nói chung học sinh lớp 3 nói riêng chưa được quan tâm triệt để, số
tiết dự giờ môn đạo đức của giáo viên còn hạn chế, giáo viên chủ nhiệm chưa
đầu tư cho việc dạy Đạo đức, vì vậy việc cung cấp các khái niệm, chuẩn mực
đạo đức chưa tạo cho các em tiếp thu bằng cả tình cảm của mình để biến thành
niền tin. Do đó là những nguyên nhân chính dẫn đến chiều hướng đi xuống về
mặt đạo đức của học sinh hiện nay. Từ những nguyên nhân và thực trạng nêu
trên, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục đạo đức cho học sinh lớp

3/2:
VIII. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 3 :
1. Nắm vững Mục tiêu giáo dục đạo đức lớp 3:
Ở tiểu học, cụ thể là ở lớp 3, quá trình giáo dục đạo đức nhằm giúp học sinh:
a/ Về nhận thức: Học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành
vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 3 trong các mối quan
hệ của các em với những người thân trong gia đình; với bạn bè, và công việc
của lớp; của trường; với Bác Hồ và những người có công với đất nước, với dân
tộc; với hàng xóm láng giềng; với thiếu nhi và khách quốc tế; với cây trồng, vật
nuôi và nguồn nước; với lời nói, việc làm của bản thân.
b/ Về kĩ năng, hành vi: Học sinh được từng bước hình thành kĩ năng bày tỏ
ý kiến, thái độ của bản thân đối với những quan niệm, hành vi, việc làm có liên
quan đến các chuẩn mực đã học; kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 9
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 12 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các tình huống đơn giản, cụ thể trong cuộc
sống.
c/ Về thái độ: Học sinh bước đầu hình thành thái độ trách nhiệm đối với lời
nói, việc làm của bản thân, tự tin vào khả năng của bản thân, yêu thương ông bà,
cha mẹ, anh chị em và bạn bè, biết ơn Bác Hồ và các thương binh liệt sĩ; quan
tâm, tôn trọng với mọi người, đoàn kết hữu nghị với thiếu nhi quốc tế; có ý thức
bảo vệ nguồn nước và cây trồng, vật nuôi.
2. Nắm vững Quan điểm chung về đổi mới phương pháp dạy học môn Đạo
đức ở lớp 3:
- Dạy học môn Đạo đức cần đi từ quyền trẻ em, từ lời ích của trẻ em đến trách
nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy học Đạo
đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, giúp cho học sinh lĩnh hội và thực hiện
hành vi tự giác hơn, tránh được tính chất nặng nề, áp đặt trước đây.

- Dạy học môn Đạo đức sẽ chỉ đạt hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích cực,
chủ động tham gia vào quá trình dạy học. Dạy học môn Đạo đức phải là quá trình
giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm và
thói quen đạo đức, tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức mới, khái niệm mới.
- Đối với học sinh lớp 3, nhận thức còn cảm tính, trực tiếp và cụ thể. Vì vậy
các nội dung giáo dục cần phải chuyển tải đến học sinh một cách nhẹ nhàng,
sinh động thông qua các hoạt động: đóng vai, chơi trò chơi; phân tích, xử lí tình
huống, kể chuyện theo tranh, xây dựng phần kết cho các câu chuyện cho kết cục
mở, đánh giá và tự đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh
theo các chuẩn mực hành vi đã học; tìm hiểu, phân tích, đánh giá các sự kiện
trong đời sống đạo đức của lớp học, của nhà trường, của địa phương, kể chuyện,
múa hát, đọc thơ, vẽ tranh, xem băng hình, có liên quan đến chủ đề bài học.
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 10
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 13 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- Dạy học môn Đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học
sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm gương, tranh ảnh, sử dụng để dạy học đạo
đức phải lấy chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Điều đó sẽ giúp cho bài
học đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động đối với các em.
- Các phương pháp và hình thức dạy học đạo đức lớp 3 rất phong phú đa
dạng, bao gồm cả các phương pháp dạy học hiện đại như: đóng vai, thảo luận
nhóm, tổ chức trò chơi, điều tra thực tiễn, báo cáo, giải quyết vấn đề, động
não, và các phương pháp truyền thống như: kể chuyện đàm thoại, nêu gương,
sử dụng đồ dùng trực quan, khen thưởng bao gồm cả hình thức dạy học cá
nhân, theo nhóm theo lớp, học ở trong lớp, ngoài sân trường, vườn trường .
- Mỗi phương pháp và hình thức dạy học môn đạo đức đều có mặt mạnh và
hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của tiết dạy. Vì
vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng
bài, căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của bản thân, căn cứ
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của trường mình, lớp mình mà lựa chọn, sử

dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học hợp lí, đúng mức để giáo
dục đạo đức cho học sinh qua các bài đạo đức.
3. Các vấn đề lí luận về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3
Chương trình môn đạo đức ở lớp 3 bao gồm 14 bài phản ánh các chuẩn mực
hành vi đạo đức cần thiết, phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các
em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên. Ở mỗi
bài đạo đức đều phải thực hiện các nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho
học sinh như:
-Giáo dục ý thức đạo đức
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 11
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 14 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
-Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức.
- Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức.
a/ Giáo dục ý thức đạo đức:
Giáo dục ý thức đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức đạo đức
cơ bản, sơ đẳng về chuẩn mực hành vi, hình thành niềm tin đạo đức cho học
sinh. Các chuẩn mực hành vi này được xây dựng từ các phẩm chất đạo đức,
chúng phản ánh các mối quan hệ hàng ngày của các em. Đó là:
- Quan hệ cá nhân với xã hội: Kính yêu Bác Hồ, biết ơn thương binh liệt sĩ, yêu
quê hương, làng xóm, phố phường của mình Để từ đó HS yêu mến và tự hào
về trường, lớp, giữ gìn môi trường sống xung quanh nơi mình đang sống.
- Quan hệ cá nhân với công việc, lao động: Biết chăm chỉ, kiên trì, vượt khó
trong học tập, tích cực tham gia các công việc lao động khác nhau.
- Quan hệ cá nhân với những người xung quanh: Hiếu thảo đối với ông bà, cha
mẹ, quan tâm giúp đỡ anh chị em trong gia đình, tôn trọng, giúp đỡ, đoàn kết
với bạn bè, với thiếu nhi quốc tế, tôn trọng và giúp đỡ hàng xóm láng giềng
theo khả năng của mình.
- Quan hệ cá nhân với tài sản xã hội, tài sản của người khác: Tôn trọng và bảo
vệ tài sản của nhà trường, của nhà nước và của người khác

- Quan hệ cá nhân với thiên nhiên: Bảo vệ môi trường tự nhiên xung quanh nơi
học, nơi chơi, bảo vệ cây trồng, cây xanh có ích, động vật nuôi, động vật có ích,
diệt trừ động vật có hại, bảo vệ nguồn nước
- Quan hệ cá nhân với bản thân: khiêm tốn, thật thà, bạo dạn, vệ sinh, tự làm lấy
công việc của mình
* Những tri thức đạo đức ngày nay giúp các em phân biệt được cái đúng – cái
sai, cái tốt – cái xấu, cái thiện – cái ác từ đó các em sẽ làm theo đúng, ủng hộ
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 15 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
cái tốt, tán thành cái thiện và đấu tranh, phê phán, tránh cái sai, cái xấu, cái ác
ý thức đạo đức đúng đắn có tác dụng định hướng cho thái độ, tình cảm, hành vi
đạo đức.
b/ Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức:
Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức cho học sinh là thức tỉnh những rung
động, những xúc cảm với hiện thực xung quanh, làm cho chúng biết yêu, biết
ghét rõ ràng, có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng phức tạp trong đời
sống.
- Thái độ, tình cảm đối với những người xung quanh: kính yêu, biết ơn, quan
tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em, tôn trọng và yêu quý bạn bè,
tôn trọng những người xung quanh khác, hàng xóm
- Thái độ đối với xã hội: Kính yêu Bác Hồ, biết ơn thương binh liệt sĩ, yêu
trường mến lớp, yêu quê hương làng xóm
-Thái độ đối với môi trường sống: yêu thiên nhiên, và có ý thức giữ gìn vẻ đẹp
môi trường xung quanh.
- Thái độ đối với bản thân: có lòng tự trọng, khiêm tốn học hỏi, biết giữ lời hứa,
trung thực
- Thái độ đối với các hành động: Thái độ ủng hộ, đồng tình, tán thành với
những tấm gương, việc làm tốt, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, có thái
độ lên án, phê phán, chê cười những ai có hành động sai trái, xấu, có hại cho
người khác, xã hội, cộng đồng.

Tình cảm tích cực được hình thành dựa vào ý thức đúng đắn và được củng cố,
khẳng định qua hành vi, đồng thời có tác dụng thúc đẩy, tạo động cơ cho việc
nhận thức chuẩn mực, thực hiện hành vi đạo đức.
c/ Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức:
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 12
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 16 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức là tổ chức cho học sinh lặp đi, lặp lại
nhiều lần những thao tác, hành động đạo đức nhằm có đựơc hành vi đạo đức, từ
đó có thói quen đạo đức.
Môn đạo đức lớp 3 cần hình thành cho học sinh các hành vi, thói quen đạo đức
như:
- Giúp đỡ, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình.
- Hành vi lễ phép.
- Có những việc làm vừa sức để giúp đỡ bạn bè, hàng xóm láng giềng, những
thương binh, gia đình liệt sĩ
Ví dụ: Đối với hang xóm thì trông nhà giúp, chơi với em khi hàng xóm đi
vắng…
- Có những việc làm nhân đạo vừa sức đối với các gia đình thương binh liệt sĩ,
bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ những người gặp thiên tai, gặp khó
khăn
Ví dụ: Giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ như quét dọn nhà cửa…
- Có những hành động, việc làm bảo vệ trường, lớp, tài sản công cộng, thiên
nhiên, nguồn nước, đồ đạc, tài sản của người khác
Ví dụ: Không chặt , bẻ cành ở công viên, trường học
- Cần giáo dục hành vi văn hoá cho học sinh: “đúng” về mặt đạo đức, “đẹp”
về mặt thẩm mĩ.
- Các nhiệm vụ trên đây có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cần được giải
quyết đồng bộ thông qua:
d.Giáo dục kĩ năng sống:

Như chúng ta đã biết giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế
hệ trẻ Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những
người quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 17 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
không có kĩ năng sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối
với bản thân, gia đình, cộng đồng- quê hương và đất nước.
+ Lứa tuổi HS là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước
mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc
về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động Đặc biệt
là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ
thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực,
luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu
với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không được
giáo dục KNS,nếu thiếu KNS các em dễ bị lôi kéo các hành vi tiêu cực, bạo
lực, lối sống ích kĩ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách .
Vì vậy giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện
hành vi và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc;
giúp trẻ em có ứng phó tích cực trước các tình huống trong cuộc sống xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực
chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh. Bản thân tôi đã giáo dục KNS
cho HS bằng cách tích hợp tất cả các môn học trong chương trình,đồng thời
thực hiện hình thức xây dựng”Trường học thân thiện”nhằm thúc đẩy giáo
dục KNS cho HS lớp mình.
+ Tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác.Ví dụ : Kĩ năng tiếp xúc với
bạn bè thầy cô ( kĩ năng thương lượng, giải quyết vấn đề). Biết thương
lượng với bạn, nhường nhịn, giải quyết vấn đề nảy sinh khi giao tiếp.
+ Tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho HS thể
hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống
của mình và người khác.

Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 13
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 18 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
+ Giáo dục KNS cả một quá trình : nhận thức – hình thành thái độ - thay đổi
hành vi.
+ Kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để HS duy trì hành vi
mới và có thói quen mới ; tạo động lực cho HS điều chỉnh hoặc thay đổi
giá trị, thái độ và thay đổi những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp
nhận các giá trị hành vi mới. Tạo điều kiện cho HS tự tóm tắt những nhận
thức cho bản thân sau mỗi giờ học/ phần học.
+ Giáo dục KNS cho HS ở mọi nơi, mọi lúc, trong các giờ học, hoạt động lao
động, hoạt động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và
các giáo dục khác.
+ Việc giáo dục KNS trong môn Đạo đức nhằm bước đầu trang bị cho học
sinh những KNS cần thiết, phù hợp với lứa tuổi tuổi tiểu học, giúp các em
biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người thân trong
gia đình, với thầy cô giáo, bạn bè và những người xung quanh; với cộng
đồng với quê hương, đất nước và với môi trường tự nhiên; giúp các em
bước đầu biết sống tích cực, chủ động, có mục đích, có kế hoạch, tự trọng,
tự tin, có kỉ luật, biết hợp tác, giản dị, tiết kiệm, gọn gàng, ngăn nắp, vệ
sinh… để trở thành con ngoan trong gia đình, HS tích cực của nhà trường
và công dân tốt của xã hội.
4. Nắm vững Nội dung chương trình môn đạo đức lớp 3:
Nội dung môn đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền trẻ em với giáo dục bổn
phận của học sinh.
- Kết hợp giáo dục quyền trẻ em được có gia đình, được cha mẹ yêu thương,
chăm sóc với giáo dục bổn phận của trẻ em phải quan tâm, chăm sóc ông bà, cha
mẹ, anh chị em (Bài 4 – Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em).
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang 14
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 19 -

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- Kết hợp giáo dục kĩ năng sống : Kĩ năng lắng nghe ý kiến của người thân.Kĩ
năng thể hiện sự cảm thong trước suy nghĩ, cảm xúc của người thân. Kĩ năng
đảm nhận trách nhiệm chăm sóc người thân trong những việc vừa sức.
Chương trình không chỉ giáo dục bổn phận trách nhiệm của học sinh đối với
gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường tự nhiên mà còn giáo dục trách nhiêm
của các em đối với chính bản thân như: biết tự trọng, tự tin, hài lòng về những
điểm tốt của bản thân, biết quan tâm giữ gìn vệ sinh và hình thức bên ngoài của
bản thân, biết giữ gìn đồ dùng, sách vở cá nhân, biết bảo vệ an toàn cho bản
thân
Thông qua các bài đạo đức, học sinh lớp 3 được giáo dục cho một số kĩ năng
sống cơ bản như: kinh nghiệm giao tiếp, kinh nghiệm tự nhận thức, kinh nghiệm
ra quyết định, kinh nghiệm giải quyết vấn đề
5. Tìm hiểu tâm lý lứa tuổi :
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi rất là hồn nhiên với tâm hồn trong
sáng, dễ tiếp thu sự giáo dục của nhà trường. Cơ chế sự phát triển của trẻ thông
qua hoạt động vui chơi , học tập. Nắm được đặc điểm tâm lý và sự phát triển thể
chất của học sinh Tiểu học là nguyên tắc sư phạm quan trọng của những thầy,
cô giáo Học sinh tiểu học hay bắt chước cho nên mỗi thầy cô giáo là tấm
gương sáng để học sinh noi theo. Phải giáo dục học sinh bằng tình cảm. Tư duy
của trẻ rất cụ thể, khi dạy đạo đức phải nêu sự việc cụ thể. Giáo dục đạo đức
người giáo viên Tiểu học cũng có nhiều thuận lợi, có điều kiện tiếp xúc thường
xuyên các em, giáo viên có thể tìm hiểu được hoàn cảnh sống của các em. Từ đó
có biện pháp, phương thức giáo dục thích hợp.
6. Tổ chức, vận dụng tốt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
phù hợp với từng mục tiêu của bài học.
Người thực hiện: Phạm Thị Thanh Trang15
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 20 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
* Thông qua các tiết đạo đức để các tiết học hiệu quả cao thì giáo viên phải

nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy, bài giảng để tổ chức tiết học một cách hợp lý.
Cách sử dụng đồ dùng dạy học đưa ra phải đúng lúc, đạt hiệu quả tốt. Nhất là
tiết lý thuyết thì phương pháp dạy phải khác với tiết thực hành. Tiết lý thuyết
khi giảng dạy giáo viên phải lưu ý đến hệ thống câu hỏi đàm thoại phải phù hợp,
phải logic để đúc rút ra được những bài học quý báu trong giờ đạo đức cho học
sinh cần học tập. Khác hẳn với tiết thực hành giáo viên phải hướng dẫn học sinh
thực hiện những hành vi đạo đức tốt vừa học được qua tiết lý thuyết bằng những
việc làm cụ thể vừa sức, vừa khả năng của học sinh: bằng nhiều việc làm khác
nhau, cũng như nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ : Khi dạy bài “Chăm sóc ông bà, cha mẹ” ở tiết lý thuyết giáo viên có
thể cho học sinh đàm thoại một số câu hỏi để học sinh hiểu được: Tại sao chúng
ta phải chăm sóc ông bà, cha mẹ? Chăm sóc ông bà, cha mẹ con phải làm gì?
Cho học sinh liên hệ bản thân mình đã chăm sóc ông bà, cha mẹ chưa? Nếu đã
chăm sóc thì con đã chăm sóc như thế nào? Trong nhiều trường hợp khác nhau
giáo viên phải lựa chọn cách giảng khác nhau cho các tổ nhóm sưu tầm câu
chuyện, tranh ảnh phục vụ bài giảng cùng giáo viên thì học sinh dễ nắm chắc
nội dung của bài mới. Giáo viên không phải giảng nhiều mà học sinh dễ hiểu.
* Còn tiết thực hành thì giáo viên hướng dẫn học sinh biết áp dụng những
kiến thức vừa học vào thực tế cuộc sống chăm sóc ông bà, cha mẹ như thế nào?
Kể cả lúc khoẻ mạnh, lúc đi chơi xa, đi công tác và nhất là lúc ốm đau, bệnh tật
bằng những việc làm cụ thể của mình qua việc “nhận diện hành vi đúng sai, qua
tranh ảnh”. “Cùng nhau tham gia giải quyết các tình huống”. (Qua các tiểu
phẩm do học sinh tự đóng) hoặc các tình huống các em có thể gặp trong sinh
hoạt hàng ngày. Giúp các em có những đối xử đúng mực bộc lộ được tình cảm
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 21 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
đạo đức, hành vi đạo đức của mình đối với ông bà cha mẹ người đã sinh ra
và nuôi dưỡng mình.
Ví dụ : Dạy bài: “Chăm làm việc trường, việc lớp” qua câu chuyện: “Chiếc
khăn trải bàn” giúp các em thấy được: Bạn Lan được cô giáo phân công mang

khăn trải bàn để mai sơ kết lớp. Bạn Lan bị ốm nhưng không quên nhiệm vụ.
Bạn đã nhờ mẹ đến xin phép cô nghỉ học và đưa khăn trải bàn cho cô, trong khi
cả lớp đang lo lắng. Nên lễ sơ kết vẫn diễn ra tốt đẹp. Noi gương bạn Lan các
bạn con phải làm gì? Giáo viên cho học sinh liên hệ bản thân. Nhất là đội ngũ
cán sự lớp phải quản lý lớp ra sao? Khi vắng cô, và cả lớp tự quản như thế nào?
Đó cũng là trách nhiệm của các em đối với lớp với trường.
THIẾT KẾ BÀI DẠY MINH HỌA
Bài 4: Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em
1/ Mục tiêu:
- Biết được những việc trẻ em cần làm để thể hiện quan tâm chăm sóc những
người thân trong gia đình.
- Biết được vì sao mọi người trong gia đình cần quan tâm chăm sóc lẫn nhau.
- Quan tâm chăm sóc ông bà cha mẹ, anh chị em trong cuộc sống hằng ngày ở
gia đình em.
- Biết được bổn phận của trẻ em là phải quan tâm chăm sóc những người thân
trong gia đình bằng những việc phù hợp với khả năng.
* Kĩ năng lắng nghe ý kiến của người thân.Kĩ năng thể hiện sự cảm thong
trước suy nghĩ, cảm xúc của người thân. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm chăm
sóc người thân trong những việc vừa sức.
II/ Tài liệu – phương tiện
- Vở bài tập đạo đức.
- Các tấm thẻ màu xanh, màu đỏ, màu trắng.
- Truyện “Bó hoa đẹp nhất”.
- Các bài thơ, bài hát, câu chuyện về chủ đề gia đình.
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 22 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- Tranh minh hoạ truyện “Bó hoa đẹp nhất”.
- Một số đồ dùng phục vụ đóng vai.
III/ Các hoạt động dạy hoc chủ yếu
Tiết 1

1 Khám phá
- Cho học sinh hát tập thể bài hát: “Cả
nhà thương nhau”, nhạc và lời : Phan
Văn Minh.
-Các em vừa hát bài gì?
- Bài hát nói lên điều gì?
- Gia đình em có bao nhiêu người? Đó
là những ai?
- Mỗi em hãy nêu một biểu hiện về sự
quan tâm , chăm sóc của ông bà, cha
mẹ dành cho mình.
- Giáo viên giới thiệu bài: Bài hát nói
về tình cảm giữa cha mẹ, và con cái
trong gia đình. Vậy chúng ta cần phải
cư xử đối với những người thân trong
gia đình như thế nào? Trong tiết đạo
đức hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu
về điều đó.
2. Kết nối:
Mục tiêu:
HS biết được bổn phận phải quan
tâm,chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị
em.
Hoạt động 1: Kể chuyện “Bó hoa đẹp
nhất”.
- HS hát tập thể
1-2 HS trả lời
-Bài hát nói lên tình cảm yêu
thương giữa những người thân trong
gia đình.

HS nêu
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 23 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- GV kể chuyện “Bó hoa đẹp nhất” (Có
sử dụng tranh minh hoạ).
- Mời 1 HS kể lại hoặc đọc lại truyện.
- Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm theo
các câu hỏi:
* Chị em Ly đã làm gì nhân dịp sinh
nhật mẹ?
* Khi nhận hoa, mẹ Ly thấy như thế
nào?
* Vì sao mẹ Ly lại nói rằng bó hoa mà
chị em Ly tặng mẹ là bó hoa đẹp nhất?
- Yêu cầu đại diện từng nhóm học
sinh trình bày kết quả thảo luận trước
lớp.
- GV nhận xét
* Qua câu chuyện trên em rút ra bài
học gì?
HS đọc lại truyện
HS trả lời nhóm đôi
+ Chị em Ly đã hái những bông hoa
dại ven đường xếp thành một bó và
đem tặng mẹ nhân ngày sinh nhật.
+ Khi nhận hoa, mẹ vui mừng ôm
hai chị em Ly vào lòng và nói: “Đây
là bó hoa đẹp nhất mà mẹ được
tặng đấy”
+ Vì mẹ Ly thấy 2 con mình đã nhớ

đến sinh nhật của mẹ mà chính bản
thân mẹ quên mất sinh nhật mình,
chị em Ly đã biết quan tâm, chăm
sóc đến mẹ khiến mẹ rất vui và
hạnh phúc.
- Cả lớp trao đổi bổ sung.
- 2-3 HS trả lời.
+ Con cháu có bổn phận phải quan
tâm, chăm sóc ông bà,cha mẹ và
những người thân trong gia đình.
+ Sự quan tâm, chăm sóc của các
em sẽ mạng lại niềm vui, hạnh phúc
cho ông bà, cha mẹ và mọi người
trong gia đình.
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 24 -
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2010 – 2011
- GV nhận xét lại.
2. Thực hành:
Hoạt động 1: HS kể về sự quan tâm,
chăm sóc của ông bà, cha mẹ dành cho
mình.
Mục tiêu: HS cảm nhận chia sẻ được
Tình cảm, sữ quan tâm, chăm sóc của
ông bà, cha mẹ dành cho mình. Bước
đầu biết và hiểu được ý nghĩa, giá trị
của cuộc sống có sữ quan tâm, chăm
sóc của ông bà cha mẹ trong gia đình.
*Gia đình em gồm những ai?
- Giáo viên yêu cầu HS làm việc
nhóm đôi theo yêu cầu sau:

* Hãy nhớ lại và kể cho các bạn trong
nhóm nghe về những việc mình đã
được ông bà, cha mẹ yêu thương, quan
tâm chăm sóc như thế nào?
- GV mời một số học sinh kể trước lớp.
- Thảo luận cả lớp.
* Em nghĩ gì về tình cảm và sự chăm
sóc mà mọi ngượi trong gia đình đã
dành cho em.?
* Đối với những bạn nhỏ phải sống
thiếu tình cảm và sự chăm sóc của cha
mẹ thì sao?
- GV nhận xét, kết luận.
Mỗi người chúng ta đều có một gia
đình và được ông bà, cha mẹ, anh chị
- HS các nhóm đôi
- Đại diện nhóm trình bày

HS nêu
Người thực hiện : Phạm Thị Thanh Trang - 25 -

×