Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển trang trại chăn nuôi heo trên địa bàn huyện Thống Nhất Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 111 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chính cuả nông nghiệp,
nhưng trong thời gian dài chăn nuôi ở Việt Nam phát triển chậm, phân tán,
trình độ thấp và chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Từ năm
2000 đến nay, chăn nuôi cả nước nói chung và nhiều địa phương nói riêng đã
có biểu hiện khởi sắc và có vai trò tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp. Giá trị sản xuất (GTSX) ngành chăn nuôi tăng bình quân hàng
năm trong giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 7,1% (gấp hơn 2 lần tốc độ phát
triển ngành trồng trọt), sản phẩm chăn nuôi đã tham gia xuất khẩu, đã có
nhiều trang trại chăn nuôi quy mô lớn và công nghệ khá hiện đại. Tuy nhiên,
nhìn chung trình độ phát triển chăn nuôi của nước ta còn thấp hơn so với trình
độ của khu vực ASEAN và thấp hơn rất nhiều so với các nước chăn nuôi tiên
tiến.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ nông
dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh trong sự nghiệp phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân đã
hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ và
quản lý cao hơn, nhằm mở rộng quy mô hàng hoá và nâng cao năng suất, hiệu
quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Trên phạm vi cả nước, sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 05
tháng 4 năm 1988 thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông
thôn, Đảng và Nhà nước đã có một số chủ trương, chính sách tạo điều kiện
thúc đẩy cho kinh tế hộ phát triển. Đặc biệt là Nghị quyết 03/NQ/CP ngày
02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại, đây là văn bản pháp lý quan
trọng nhất thể hiện quan điểm, chủ trương và chính sách của Nhà nước đối
2
với loại hình tổ chức sản xuất mới trong nông nghiệp, nông thôn, đó là kinh tế
trang trại. Phần lớn các trang trại phát huy được lợi thế của từng vùng, kinh
doanh tổng hợp lấy ngắn nuôi dài.


Tại tỉnh Đồng Nai trong những năm qua trang trại có vị trí, vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi
và cơ cấu lao động; ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật… trong nông nghiệp nông
thôn. Trang trại ở Đồng Nai đã phát triển khá rộng khắp với các hình thức đa
dạng, phong phú. Nhiều nơi các chủ trang trại đã đầu tư chiều sâu, nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của trang trại.
Để khuyến khích trang trại phát triển, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ
Đồng Nai lần thứ VI đã khẳng định “Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
để kinh tế trang trại phát triển nhằm khai thác tiềm năng thế mạnh của địa
phương, phát huy vai trò kinh tế tự chủ của kinh tế hộ, phát triển kinh tế trang
trại đi đôi với phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, các hình thức liên
kết với các nông, lâm trường quốc doanh để tạo động lực và sức mạnh cho
nông nghiệp nông thôn phát triển…”
Nắm vững chủ trương trên, đồng thời thực hiện nghị quyết 03/NQ/CP
ngày 02/02/2000 của chính phủ về kinh tế trang trại, trong mấy năm qua, kinh
tế trang trại ở Đồng Nai nói chung cũng như ở huyện Thống Nhất nói riêng đã
phát triển khá rộng khắp với các hình thức đa dạng phong phú, đặc biệt là các
trang trại nuôi heo. Ở huyện Thống Nhất, năm 2011 tổng đàn heo hơn
201.000con, là địa phương có tổng đàn heo nhiều nhất tỉnh. Nhiều nơi, các
chủ trang trại đã đầu tư chiều sâu, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất Kinh
doanh của trang trại.
Tuy nhiên, vấn đề khó khăn trong việc phát triển trang trại chăn nuôi
heo ở huyện Thống Nhất hiện nay là vốn để đầu tư cho trang trại, vấn đề đất
3
đai, việc ứng dụng KHKT, trình độ quản lý của chủ trang trại Nhìn chung,
các trang trại heo ở nơi đây chủ yếu là của tư nhân với quy mô nhỏ, năng suất
chưa cao, Những vấn đề vướng mắc cần nhanh chóng giải quyết để
phát triển kinh tế trang trại, đặc biệt là trang trại chăn nuôi, trong giai đoạn
hiện nay ở Thống Nhất đó là:
- Các loại hình trang trại phát triển một cách tự phát, thiếu qui hoạch,

phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Việc sử dụng khai thác nguồn tài
nguyên chưa hiệu quả, chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái,
đa dạng hóa sinh học.
- Năng lực chuyên môn, tay nghề, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị
trường, tiếp thu – vận dụng kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức về
pháp luật, đặc biệt là về các chủ trương chính sách phát triển kinh tế trang trại
của các chủ trang trại còn hạn chế.
- Chất lượng sản phẩm hàng hóa của trang trại chưa cao, sản phẩm tiêu
thụ khó khăn. Nhiều chủ trang trại chưa nắm được nhu cầu của thị trường nên
sản xuất còn thụ động, hiệu quả thấp. Tuy nhiên đa số trang trại còn chưa
mạnh dạn trong việc mở rộng sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm.
Xuất phát từ những nhận thức trên, với ý nghĩa nghiên cứu loại hình
trang trại chăn nuôi heo của huyện Thống Nhất, nên tôi đã tiến hành nghiên
cứu đề tài : “Thực trạng và giải pháp phát triển trang trại chăn nuôi heo
trên địa bàn huyện Thống Nhất - Đồng Nai”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng sản xuất của các
trang trại, đề xuất những giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển trang trại chăn
nuôi theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Thống Nhất.
4
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích đánh giá đựợc thực trạng phát triển trang trại chăn nuôi tại
huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
- Xác định được những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển trang trại
chăn nuôi của huyện.
- Đề xuất được giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình phát triển bền
vững trang trại chăn nuôi heo ở Huyện Thống Nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các trang trại chăn nuôi, chủ yếu là
trang trại chăn nuôi heo trên địa bàn huyện Thống nhất tỉnh Đồng Nai.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi về nội dung:
Đề tài chỉ nghiên cứu tình hình hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh
của trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện Thống nhất.
Mô hình kinh tế trang trại chăn nuôi có nhiều loại hình khác nhau, ở đây
chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng trang trại chăn nuôi heo, là kiểu độc lập sản
xuất kinh doanh của từng gia đình.
Về địa bàn khảo sát, luận văn chỉ phân tích các số liệu tại huyện Thống
Nhất. Số liệu chung của cả nước, của tỉnh và các huyện lân cận chỉ sử dụng
trong chừng mực nhất định khi so sánh đánh giá.
+ Phạm vi không gian:
Trong phạm vi huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Trong tổng số 10 xã,
tác giả chọn 3 xã: Gia Kiệm, Quang Trung và Bàu Hàm 2 để điều tra khảo sát.
5
+ Phạm vi thời gian:
Số liệu thu thập trong năm: 2009, 2010 và 2011.
4. Nội dung nghiên cứu
- Hệ thống hoá được những vấn đề cơ bản về phát triển và phát triển bền
vững của kinh tế trang trại ở Việt Nam nói chung và ở Thống Nhất nói riêng
- Chỉ ra thực trạng phát triển của trang trại chăn nuôi trong những năm
vừa qua của Thống Nhất. Đồng thời, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự
phát triển cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của mô hình kinh tế trang
trại chăn nuôi của Thống Nhất.
- Đưa ra những giải pháp nhằm phát triển trang trại chăn nuôi heo trong
những năm tới của huyện Thống Nhất.
6
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRANG TRẠI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI
1.1.1. Tổng quan về trang trại
Trong lịch sử phát triển nông nghiệp của nước ta nói riêng và thế giới
nói chung đã từng tồn tại các hình thức sản xuất tập trung được tiến hành trên
một quy mô diện tích đủ lớn để sản xuất ra khối lượng nông sản lớn hơn so
với hình thức sản xuất nông nghiệp truyền thống quy mô nhỏ bé, phân tán.
Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản xuất
trước chủ nghĩa tư bản đã tồn tại ở nhiều nước và đều có những đặc điểm
chung chủ yếu là: Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp
tập trung đều nhằm mục đích chủ yếu là tự cung tự cấp để đảm bảo nhu cầu
tiêu dùng trực tiếp. Về sở hữu, có những hình thức dựa trên sở hữu Nhà nước,
nhưng đồng thời cũng có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một chủ
độc lập.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện và
động lực mạnh mẽ thúc đẩy hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung lên một
trình độ mới cao hơn, với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ
thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung
trước chủ nghĩa tư bản. Những biến đổi ấy bao gồm:
- Sự biến đổi về mục đích sản xuất: Sản xuất chuyển từ tự cung tự cấp
là chủ yếu sang sản xuất hàng hóa.
- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường,
hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu
tư liệu sản xuất (hay quyền sử dụng nếu tư liệu sản xuất đi thuê) của một
người chủ độc lập.
7
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do
mục đích sản xuất hàng hóa nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương
thức tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với những hình thức sản
xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản.

- Trong điều kiện kinh tế thị trường, quy mô gia đình ngày càng trở
thành phổ biến và chiếm tuyệt đối đại bộ phận số lượng các đơn vị sản xuất
nông nghiệp mang tính tập trung.
Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất,
"trang trại" là thuật ngữ gắn liền với sản xuất nông nghiệp, nó là một loại hình
kinh tế có tính tập trung trên một diện tích đủ lớn nhằm sản xuất nông sản
phẩm hàng hóa với quy mô gia đình là chủ yếu.
1.1.2. Trang trại và kinh tế trang trại
Trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình
nông dân, hình thành và phát triển chủ yếu trong điều kiện kinh tế thị trường
khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến.
Một số tác giả khi nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang
trại trên thế giới cho rằng, các trang trại được hình thành từ cơ sở của các hộ
tiểu nông sau khi từ bỏ sản xuất tự cung tự cấp khép kín, vươn lên sản xuất
hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường trong điều kiện cạnh tranh.
Kinh tế trang trại là một loại hình kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển
trên cơ sở kinh tế hộ nhưng ở quy mô lớn hơn, được đầu tư nhiều hơn về cả
vốn và kỹ thuật, có thể thuê mướn nhân công để sản xuất ra một hoặc vài loại
sản phẩm hàng hoá từ nông nghiệp với khối lượng lớn cho thị trường.
Về thực chất "trang trại" và "kinh tế trang trại" là những khái niệm
không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản
8
xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của
trang trại, còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là
chủ thể của các quan hệ kinh tế đó. Các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá
trình tồn tại và phát triển của trang trại có thể tóm lược thành hai nhóm đó là
quan hệ giữa trang trại với môi trường bên ngoài và quan hệ giữa trang trại
với môi trường bên trong. Quan hệ giữa trang trại với môi trường bên ngoài
bao gồm hai cấp độ, môi trường vĩ vô (cơ chế, chính sách chung của Nhà
nước ) và môi trường vi mô (các đối tác, khách hàng, bạn hàng, đối thủ cạnh

tranh ) các quan hệ nội tại bên trong trang trại rất đa dạng và phức tạp như
các quan hệ về đầu tư, phân bổ nguồn lực cho các ngành, các bộ phận trong
trang trại, các quan hệ lợi ích kinh tế liên quan đến việc phân phối kết quả làm
ra, trong đó lợi ích của chủ trang trại với tư cách là người chủ sở hữu tư liệu
sản xuất và lợi ích của người lao động làm thuê là rất quan trọng. Để tạo ra
động lực thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển thì các quan hệ về lợi ích phải
được giải quyết một cách thoả đáng.
Ngoài mặt kinh tế, trang trại còn có thể được nhìn nhận từ mặt xã hội và
môi trường.
Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó các
mối quan hệ xã hội đan xen nhau.
Về mặt môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó diễn
ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan hệ
chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng. Ba mặt trên
của trang trại có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Sự kết
hợp hài hoà ba mặt này sẽ bảo đảm cho kinh tế trang trại phát triển bền vững
và bảo vệ tốt môi trường, sử dụng tối ưu các nguồn lực.
Trong các mặt kinh tế- xã hội và môi trường của trang trại thì mặt kinh tế
là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. Vì vậy trong
9
nhiều trường hợp khi nói đến kinh tế trang trại, tức là nói tới mặt kinh tế của
trang trại, người ta gọi tắt là trang trại.
Có thể nói rằng trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng
hoá dựa trên cơ sở lao động, đất đai, tư liệu sản xuất cơ bản của hộ gia đình,
hoàn toàn tự chủ, sản xuất kinh doanh bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác,
sản phẩm làm ra chủ yếu là để bán và tạo nguồn thu nhập chính cho gia đình.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất của trang trại là sản xuất hàng
hóa, vì vậy, các yếu tố sản xuất phải được tập trung với quy mô nhất định.
Mặt khác, tư liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền
sử dụng của một người chủ độc lập; nên họ cũng chính là người quyết định

các phương án sản xuất, kinh doanh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật cao hơn
nông hộ để sản xuất ra sản phẩm đáp ứng với nhu cầu của thị trường.
Từ những nhận thức nêu trên, theo các nhà kinh tế có thể hiểu khái
niệm về trang trại như sau: “Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ
sở trong nông, lâm, ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, tư
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc
lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất
được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ
thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.” (Nguyễn Đình
Hương, 2003).
Qua thực tiễn phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, Nghị quyết số
03/2000/NQ-CP ngày 02 tháng 2 năm 2000 của Chính phủ đã nêu khái niệm
về kinh tế trang trại là: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng
hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở
rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ
10
nông, lâm, thủy sản. Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có
hiệu quả đất đai, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững…”
1.1.3. Vai trò và đặc trưng của trang trại
1.1.3.1. Vai trò của trang trại
Qua nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp của các nước trên thế giới và
ở nước ta trong thời gian qua, có thể khẳng định rằng trang trại là hình thức tổ
chức sản xuất có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền nông nghiệp. Loại hình
trang trại gia đình là xu hướng phát triển chủ yếu trong nông nghiệp của các
nước, nó cung cấp tuyệt đại bộ phận nông sản phẩm cung cấp cho xã hội. Sự
phát triển của trang trại đã tạo ra những chuyển biến tích cực cả về mặt kinh
tế, cũng như về mặt xã hội và môi trường trong nông nghiệp, nông thôn.
+Về mặt kinh tế, các trang trại đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

đầu tư, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, tổ chức sản
xuất với quy mô lớn, hạn chế tình trạng sản xuất phân tán, manh mún, tạo nên
những vùng chuyên môn hóa, sản xuất hàng hóa tập trung với trình độ thâm
canh cao.
Các trang trại đã tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa lớn nên đã
góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và
dịch vụ sản xuất ở nông thôn.
Việc phát triển kinh tế trang trại luôn đi liền với việc khai thác và sử
dụng một cách đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp, nông
thôn. Đây là vai trò nổi trội của kinh tế trang trại so với kinh tế nông hộ.
Phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Vì các trang trại luôn đi đầu trong
việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp
11
nên đã tạo ra năng suất, chất lượng các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh
tế cao; đồng thời khai thác có hiệu quả các nguồn lực hiện có…Đây là những
yếu tố cơ bản góp phần vào sự tăng trưởng trong nông nghiệp, đồng thời cũng
là điều kiện để thực hiện công bằng xã hội trong nông thôn.
Phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng
ở nông thôn (điện, đường, thủy lợi ). Cùng với sự đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng của Nhà nước, các trang trại cũng tham gia đóng góp đầu tư nhằm phát
triển hạ tầng phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sản xuất, theo phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”.
+Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại góp phần quan trọng làm
tăng số hộ giàu có ở nông thôn, tạo ra việc làm, nâng cao thu nhập cho lao
động, thực hiện có hiệu quả chương trình “xóa đói, giảm nghèo” trong nông
thôn. Phần lớn các chủ trang trại ít nhiều đều có những kinh nghiệm thực tế
về quản lý sản xuất kinh doanh, đây là những tấm gương sống động cho các
hộ nông dân noi theo.
+Về mặt môi trường, việc sản xuất kinh doanh tự chủ và gắn với lợi ích

thiết thực, lâu dài nên các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý các
yếu tố phục vụ sản xuất và quan tâm tới yếu tố bảo vệ môi trường. Các trang
trại trồng rừng đã tích cực khai hoang phủ xanh đất trống, đồi trọc và sử dụng
có hiệu quả tài nguyên đất đai, để tạo ra cảnh quan, sinh thái tốt trong vùng.
Các chủ trang trại chăn nuôi xây dựng các hầm biogas chứa chất thải của gia
súc, gia cầm tạo khí phát điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong các trang
trại.
Kinh tế trang trại của nước ta tuy mới phát triển trong thời gian qua
nhưng đã góp phần quan trọng đối với sự phát triển trong lĩnh vực nông
nghiệp. Chính vì vậy, Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của
12
Chính phủ về kinh tế trang trại đã khẳng định: “…Phần lớn các trang trại
phát huy được lợi thế của từng vùng, kinh doanh tổng hợp, lấy ngắn nuôi dài.
Sự phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn trong
dân, mở mang thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hóa, nhất là ở
các vùng trung du, miền núi và ven biển; tạo thêm việc làm cho lao động
nông thôn, góp phần xóa đói, giảm nghèo; tăng thêm nông sản hàng hóa. Một
số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ
thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng…”
1.1.3.2. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại
Xuất phát từ khái niệm trang trại được thừa nhận nêu trên, kinh tế trang
trại mang những đặc trưng cơ bản sau:
- Mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản phẩm
hàng hóa theo nhu cầu của thị trường.
Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hóa là đặc trưng quan trọng nhất
của kinh tế trang trại, bởi vì mục đích sản xuất hàng hóa chi phối và ảnh
hưởng rất lớn, thậm chí quyết định tới các đặc trưng khác của kinh tế trang
trại. Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trước kinh tế thị trường dù
sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất phân
tán, song mục đích chủ yếu vẫn là nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp

của chủ nhân chúng. Còn kinh tế trang trại thì ngay từ khi ra đời đã mang tính
hàng hóa và càng ngày tính chất và trình độ sản xuất hàng hóa càng cao.
- Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng của một người chủ độc lập.
Người chủ độc lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhưng không biệt lập, tách rời khỏi các quan hệ
liên kết và hợp tác với các chủ thể kinh tế khác.
13
- Trong các trang trại, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền
vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng
hóa.
Sự tập trung các yếu tố sản xuất mặc dù theo yêu cầu sản xuất hàng hóa
song cũng có những giới hạn nhất định của các yếu tố sản xuất nội lực và đặc
điểm ngành nông nghiệp.
- Các trang trại đều có thuê mướn lao động.
- Kinh tế trang trại có cách thức tổ chức và quản lý tiến bộ dựa trên cơ
sở chuyên môn hóa sản xuất, thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thực hiện
hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường.
- Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến
thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh.
Những đặc trưng cơ bản của trang trại là những điểm khác biệt mang
tính bản chất của trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập
trung khác và so với kinh tế nông hộ.
1.1.4. Tiêu chí xác định trang trại
Tiêu chí chung nhận dạng kinh tế trang trại để phân biệt trang trại với
hộ sản xuất là dựa vào mặt định tính và mặt định lượng của trang trại đã đi
vào sản xuất ổn định, đó là:
+Về mặt định tính của trang trại là: trình độ sản xuất hàng hóa cao của
trang trại và được biểu hiện bằng trình độ ứng dụng khoa học – công nghệ và
quản lý kinh doanh của trang trại…

+Về mặt định lượng: Chủ yếu dựa vào chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng
hóa và dịch vụ bình quân 01 năm của trang trại. Ngoài ra còn dựa vào các tiêu
14
chí định lượng khác như quy mô đất đai, vốn, lao động… tùy theo từng loại
hình sản xuất của trang trại.
Trước năm 2000, ở nước ta chưa có tiêu chí thống nhất để nhận dạng
kinh tế trang trại. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại phải hàm chứa được
những đặc trưng cơ bản nhất của trang trại nhưng phải đơn giản và dễ vận
dụng khi nhận dạng. Tiêu chí gồm hai mặt định tính và định lượng. Mặt định
tính hàm chứa những đặc trưng cơ bản nhất. Mặt định lượng gồm những chỉ
tiêu biểu hiện về mặt lượng của các đặc trưng đó. Trên thực tế, mặt định tính
và định lượng có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ, quy định lẫn nhau và phải
trên cơ sở định lượng đủ lớn mới mới đạt tới tiêu chí định tính.
Mặt định tính của kinh tế trang trại là trình độ sản xuất hàng hóa được
biểu hiện bằng giá trị sản lượng hàng hóa và tỷ suất hàng hóa, trình độ khoa
học - công nghệ và quản lý kinh doanh của trang trại v.v những tiêu chí đó
lại do các tiêu chí định lượng quy định như quy mô ruộng đất, vốn, lao động
v.v đủ lớn mới có thể trở thành sản xuất hàng hóa. Hơn nữa các tiêu chí
định lượng lại rất khác nhau ở các vùng khác nhau, ở các loại trang trại khác
nhau và ở các giai đoạn kinh doanh khác nhau. Vì vậy, trong thời gian Nhà
nước chưa có quy định thống nhất về tiêu chí định lượng đối với trang trại,
các địa phương đã tự đặt ra tiêu chí cho địa phương mình, nên các tiêu chí về
mặt định lượng rất khác nhau. Việc định lượng tiêu chí nhận dạng trang trại
thường căn cứ vào các điểm sau đây:
- Mặc dù chỉ tiêu sản lượng hàng hóa là chỉ tiêu chủ yếu, các chỉ tiêu về
quy mô là bổ sung, nhưng khi vận dụng các địa phương đã sử dụng một cách
linh hoạt theo từng trường hợp cụ thể. Đối với các trang trại đã định hình, đã
ổn định sản xuất kinh doanh thì lấy chỉ tiêu sản lượng hàng hóa hoặc tỷ suất
hàng hóa là chủ yếu, còn trường hợp đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản,
15

chưa có sản phẩm hàng hóa thì dựa chủ yếu vào các chỉ tiêu quy mô đất, vốn
đầu tư, lao động, số đàn con gia súc
- Các chỉ tiêu còn phụ thuộc vào hướng sản xuất kinh doanh cụ thể đối
với cây trồng, vật nuôi, ngành nghề. Chẳng hạn trang trại trồng rừng thì quy
mô đất đai lớn, trái lại trang trại trồng hoa cây cảnh, nuôi đặc sản thì quy mô
diện tích không lớn nhưng quy mô vốn đầu tư và vốn kinh doanh phải lớn.
- Các chỉ tiêu phải được quy định theo vùng cụ thể: miền núi, đồng
bằng, ven biển, ven đô và theo từng thời điểm nhất định.
Sau khi Chính phủ có Nghị Quyết 03/NQ/CP ngày 02/02/2000, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê đã ban hành Thông tư
liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000, Thông tư liên tịch số
62/TTLT/BNN-TCTK ngày 20/5/2003 và Thông tư số 74/2003/ TT-BNN
ngày 04/7/2003 hướng dẫn tiêu chí xác định trang trại như sau:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản được xác
định là kinh tế trang trại đạt một trong 2 tiêu chí định lượng sau:
* Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân/năm: Đối với các
tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên. Đối với các
tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
* Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
a. Đối với trang trại trồng trọt
(1) Trang trại trồng cây hàng năm: Từ 2ha trở lên đối với các tỉnh phía
Bắc và Duyên hải miền Trung. Từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và
Tây Nguyên.
(2) Trang trại trồng cây lâu năm: Từ 3ha trở lên đối với các tỉnh phía
16
Bắc và Duyên hải miền Trung. Từ 5ha trở lên đối với ở các tỉnh phía Nam và
Tây Nguyên. Trang trại trồng hồ tiêu 0,5ha trở lên.
(3) Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả
nước.

b. Đối với trang trại chăn nuôi
(1) Chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò…): Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có
thường xuyên từ 10 con trở lên. Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con
trở lên.
(2) Chăn nuôi gia súc (lợn, dê…): Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên
đối với hơn 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên. Chăn nuôi lợn
thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa); dê thịt từ 200 con
trở lên.
(3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v có thường xuyên từ
2.000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
- Diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối
với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d. Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản có
tính chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy
sản và thuỷ đặc sản, thì tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hoá.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện các tiêu chí trên để xác định trang
trại có nhiều bất cập, hạn chế. Do vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn ban hành Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011 về ban
hành quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại có
hiệu lực thi hành từ ngày 28/5/2011 (thay thế Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000), quy định các tiêu chí để xác
17
định trang trại như sau:
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
+ Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải
đạt:
Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
* 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;

* 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
+ Đối với cơ sở chăn nuôi: phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000
triệu đồng/năm trở lên;
+ Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp: phải có diện tích tối thiểu 31 ha và
giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
1.1.5. Các hình thức trang trại
Trang trại trong nông nghiệp bao gồm các loại hình khác nhau. Việc
phân loại trang trại có thể thực hiện theo những tiêu thức phân loại nhất
định và việc phân loại trang trại theo những tiêu thức nào tùy thuộc vào
mục đích nghiên cứu của việc phân loại. Theo tính chất và quy mô sở hữu,
có những loại hình trang trại như sau:
+Trang trại gia đình;
+Trang trại tiểu chủ;
+Trang trại tư nhân.
Ba loại hình trang trại nêu trên không những khác biệt về tính chất
và quy mô sở hữu mà còn có sự khác biệt về tính chất và quy mô sử dụng
lao động.
18
Loại hình trang trại gia đình sử dụng lao động của gia đình để phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ yếu.
Trang trại tiểu chủ sử dụng lao động thuê mướn là chủ yếu, nhưng
số lượng lao động thuê mướn thấp hơn mức quy định của pháp luật để xác
định là doanh nghiệp tư nhân.
Loại hình trang trại tư nhân, lao động sử dụng để sản xuất kinh
doanh là hòan toàn thuê mướn, với số lượng lao động bằng hay lớn hơn số
lượng lao động được pháp luật quy định để xác định là doanh nghiệp tư
nhân.
1.1.6. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển trang trại
1.1.6.1. Các yếu tố thuộc về môi trường của các chủ thể trang trại

a.Tác động của Nhà nước đến môi trường kinh tế và pháp lý cho phát triển
kinh tế trang trại.
Sự tác động của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo lập môi
trường kinh tế và pháp lý để kinh tế trang trại hình thành và phát triển. Kinh
tế trang trại là sự biểu hiện tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các
quan hệ kinh tế trong quá trình tồn tại và hoạt động của các trang trại. Kinh tế
trang trại là sự phát triển ở mức cao hơn của kinh tế hộ nông dân và chủ yếu
được hình thành từ kinh tế hộ nông dân sản xuất tự cấp, tự túc là chính. Đó là
quá trình tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất,
thay đổi mục đích và phương thức sản xuất kinh doanh…Quá trình đó diễn ra
một mặt do kết quả hoạt động của các hộ nông dân, mặt khác do sự tác động
tích cực của Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý của nền kinh tế quốc
dân, trong đó có nông nghiệp.
19
Sự tác động của Nhà nước thường được thực hiện thông qua:
(1). Định hướng cho sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại thông
qua các quy hoạch phát triển và ban hành các chính sách kinh tế - xã hội theo
hướng khuyến khích kinh tế trang trại.
Nhà nước có vai trò ổn định kinh tế cho phát triển kinh tế nói chung và
phát triển kinh tế trang trại nói riêng.
(2).Khuyến khích sự hình thành, phát triển kinh tế trang trại thông qua
các đòn bẩy kinh tế nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế trang trại và
khuyến khích các hình thức liên kết kinh tế phục vụ cho kinh tế trang trại.
(3). Hỗ trợ các nguồn lực cho sự hình thành và phát triển của kinh tế
trang trại như hỗ trợ kinh phí cho đào tạo chủ trang trại, lao động của trang
trại; xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học – kỹ thuật…
(4). Nhà nước công nhận địa vị pháp lý để trang trại ra đời và phát
triển.
Trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
trong nông nghiệp, là bộ phận cấu thành hệ thống nông nghiệp của các nước

theo mô hình kinh tế thị trường. Tuy nhiên kinh tế trang trại chỉ hình thành và
phát triển khi có môi trường pháp lý phù hợp và thuận lợi.
Để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho kinh tế trang trại trước hết cần
tạo sự nhận thức thống nhất trong xã hội về vai trò, vị trí của kinh tế trang
trại, phải coi các trang trại như một loại hình sản xuất kinh doanh chủ yếu
trong nông nghiệp. Từ đó ban hành những văn bản pháp quy phù hợp nhằm
khuyến khích kinh tế trang trại phát triển, trước hết cần có các văn bản pháp
quy xác định địa vị pháp lý và quy định khuôn khổ pháp lý cho trang trại hoạt
động.
20
b.Khung pháp lý cho sự tích tụ và tập trung ruộng đất của Nhà nước.
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc
biệt, là nguồn gốc tạo ra các sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy đất đai là yếu tố
quan trọng, có mối quan hệ sống còn đối với trang trại, góp phần hình thành
nên trang trại. Ngược lại trang trại là một trong những hình thức sử dụng đất
đai có hiệu quả nhất trong nông nghiệp. Nguồn lực đất đai với quy mô lớn là
cơ sở tự nhiên và chủ yếu tạo ra số lượng lớn về nông sản dẫn đến sự trao đổi
hàng hóa trong nông nghiệp. Đất đai là yếu tố của sản xuất nông nghiệp, đồng
thời tạo nên sự thu hút các yếu tố khác (vốn, lao động, công nghệ…) để tạo ra
nông sản phẩm hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của con người. Ở
nước ta dân số tương đối đông trong khi quy mô diện tích đất dùng cho sản
xuất nông, lâm nghiệp thấp dưới mức trung bình tính theo đầu người của thế
giới, vì vậy nó có tác động ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành và phát
triển trang trại.
c. Ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp chế biến:
Sự phát triển của công nghiệp chế biến là một trong những điều kiện
cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
kinh tế trang trại . Điều này bắt nguồn từ đặc điểm của các sản phẩm nông
nghiệp và mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến.
Công nghiệp chế biến có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của

nông nghiệp và giữa nông nghiệp, công nghiệp chế biến có mối quan hệ trực
tiếp, khăng khít với nhau. Quan hệ trên càng trở nên đậm nét trong điều kiện
sản xuất nông nghiệp được tổ chức dưới hình thức trang trại. Bởi vì, trang trại
là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp có quy mô lớn hơn kinh
tế nông hộ, mục đích sản xuất của trang trại là tạo sản phẩm để bán, nếu
21
không có sự hỗ trợ đắc lực của công nghiệp chế biến thì hoạt động sản xuất
của trang trại sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Sự phát triển của công nghiệp chế biến
là nhân tố kích cung của các trang trại vì công nghiệp chế biến phát triển sẽ
tạo thị trường rộng lớn và ổn định cho các trang trại.
Như vậy, để hình thành và phát triển kinh tế trang trại tất yếu cần có
sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến, nhưng phải là công nghiệp chế biến xuất
phát từ yêu cầu của phát triển nông nghiệp và phù hợp với nhu cầu thị trường.
Phát triển công nghiệp chế biến phải đi từ khả năng giải quyết thực tế vấn đề
nguyên liệu, hay phải từ yêu cầu khai thác các nguồn lực của nông nghiệp,
phải có sự hỗ trợ của nông nghiệp theo quan điểm hai bên cùng có lợi, công
nghiệp cũng cần tới nông nghiệp để tồn tại và phát triển.
d. Tác động của sự phát triển của kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp:
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật của sản xuất nông nghiệp như (điện, giao
thông, hệ thống thủy lợi ) là những điều kiện vật chất kỹ thuật không thể
thiếu đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật giúp người sản xuất chế ngự, giảm thiểu những tác động tiêu cực của tự
nhiên, đáp ứng yêu cầu sinh học (cung cấp nước tưới) của sản xuất nông
nghiệp và yêu cầu vận chuyển, tiêu thụ hàng hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường. Kinh tế trang trại chỉ được hình thành khi sản xuất diễn ra với quy mô
lớn, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cao, tổ chức sản xuất tiến bộ, và nông sản
phẩm được tạo ra phải đáp ứng được yêu cầu của xã hội về số lượng, chất
lượng, giá cả và thời điểm cung cấp. Để đáp ứng yêu cầu trên đòi hỏi hoạt
động của trang trại phải được tiến hành trên cơ sở một hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật phát triển ở một trình độ nhất định, bao gồm kết cấu hạ tầng trên

địa bàn (hoặc vùng) hoạt động của các trang trại và cơ sở vật chất kỹ thuật
trong phạm vi từng trang trại.
22
Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại phải có sự trợ giúp của
Nhà nước trong việc đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng và chủ yếu để tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ
thuật cho sản xuất nông nghiệp nói chung, cho sự hình thành và phát triển
kinh tế trang trại nói riêng trên từng địa bàn, đồng thời hỗ trợ xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất kinh doanh trong mỗi trang trại.
e. Ảnh hưởng của sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn
hóa.
Chuyên môn hóa sản xuất là một trong các hình thức tổ chức sản xuất
của nền sản xuất xã hội, trong đó có nông nghiệp. Trong phạm vi nông
nghiệp, chuyên môn hóa được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, trong
đó chuyên môn hóa theo vùng, kết quả là hình thành nên các vùng chuyên
canh sản xuất tập trung, có vai trò hết sức quan trọng. Về hình thức, chuyên
môn hóa sản xuất theo vùng là sự tập trung các điều kiện sản xuất của vùng
để sản xuất ra những nông sản hàng hóa nhất định. Vì vậy, trong điều kiện
kinh tế thị trường sự hình thành các vùng chuyên môn hóa sản xuất nông
nghiệp và các trang trại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề, điều
kiện để phát triển kinh tế trang trại.
Việc hình thành các vùng chuyên môn hóa sản xuất trong nông nghiệp
có ảnh hưởng tích cực và rõ rệt tới sự hình thành và phát triển của kinh tế
trang trang trại, vì các vùng chuyên canh tập trung luôn gắn liền với công
nghiệp chế biến, tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm của trang trại.
Để hình thành các các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa,
Nhà nước và chính quyền địa phương phải tiến hành quy hoạch, phân vùng để
bố trí sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi thích hợp, tạo các điều kiện thực
hiện các phương án sản xuất sản phẩm thông qua xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
23

thuật và sử dụng các đòn bẩy kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng
chuyên canh. Đây là những tiền đề hết sức cần thiết cho sự hình thành và phát
triển kinh tế trang trại. Vì vậy có thể nói rằng sự hình thành các vùng chuyên
môn hóa cũng là quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại.
f. Ảnh hưởng của sự phát triển các hình thức liên kết kinh tế trong nông
nghiệp.
Như phân tích ở trên, trình độ chuyên môn hóa càng cao thì yêu cầu
liên kết kinh tế càng lớn; bởi vì chuyên môn hóa là hình thức biểu hiện cụ thể
của phân công lao động và liên kết kinh tế là hình thức biểu hiện của hiệp tác
lao động trong sản xuất. Phân công và hiệp tác là hai mặt của quá trình tổ
chức trong sản xuất nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói riêng.
Sự hình thành của kinh tế trang trại là quá trình phát triển theo hướng
chuyên môn hóa sản xuất trong trang trại. Đó là quá trình tích tụ và tập trung
các điều kiện cho trang trại khai thác lợi thế so sánh trên cơ sở chuyên môn
hóa kết hợp với phát triển tổng hợp. Mặt khác, sản xuất hàng hóa của trang
trại đòi hỏi phải có sự phối hợp cân đối nhịp nhàng để đạt hiệu quả kinh tế
cao. Vì vậy liên kết trong kinh doanh của các trang trại ngày càng có vai trò
quan trọng đối với hoạt động của trang trại và sự phát triển các hình thức liên
kết kinh tế trong nông nghiệp ngày càng trở thành điều kiện cần thiết cho sự
hình thành và phát triển kinh tế trang trại.
Do vậy, cần tạo lập môi trường thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh
liên kết với nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong đó đặc biệt lưu
ý tới việc phát triển các hợp tác xã và các hình thức hợp tác tự nguyện trong
lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, đa dạng hóa các loại hình liên kết kinh tế
trong nông nghiệp, có tính đến đặc thù của sản xuất nông nghiệp trong cơ chế
thị trường. Đồng thời cũng tạo môi trường bình đẳng để các chủ thể kinh tế
24
dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau được bình đẳng. Có như vậy quá
trình liên kết mới diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả cao cho mỗi bên tham gia
liên kết.

1.1.6.2.Các yếu tố thuộc về chủ thể trang trại
a. Ý chí và quyết tâm làm giàu từ nông nghiệp của chủ trang trại.
Nông nghiệp là ngành sản xuất nặng nhọc, phức tạp, mức sinh lời thấp,
tính rủi ro cao. Vì vậy, sự thu hút đầu tư của nông nghiệp kém hơn các ngành
khác. Trong khi đó, phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế trang trại cần
có sự đầu tư tiền của, tri thức và công sức lớn hơn nhiều so với nông hộ để
sản xuất kinh doanh. Vì vậy, điều kiện về ý chí và quyết tâm làm giàu từ nông
nghiệp là một trong những điều kiện quan trọng cho sự hình thành và phát
triển kinh tế trang trại. Chỉ có những người có ý chí và quyết tâm làm giàu từ
nghề nông mới dám đầu tư tiền của, tri thức và công sức vào nghề nông lời ít,
rủi ro nhiều.
b. Kinh nghiệm sản xuất, tri thức và năng lực sản xuất kinh doanh của chủ
trang trại.
Về nguồn gốc hình thành, đa số các trang trại hình thành từ sự chuyển
biến về chất của kinh tế nông hộ. Quá trình chuyển biến đó là quá trình tích
lũy kinh nghiệm sản xuất, tích lũy tri thức và năng lực sản xuất kinh doanh.
Không có quá trình tích lũy thứ hai này thì không thể có kinh tế trang trại, bởi
vì đây không chỉ là điều kiện cho sự hình thành các trang trại mà còn là điều
kiện để các trang trại trụ lại và phát triển dưới sự tác động khắc nghiệt của cơ
chế thị trường.
Trên thực tế, khi người chủ trang trại có kinh nghiệm sản xuất, có trình
độ và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp thì mới dám đầu tư
kinh doanh cây, con nào để đáp ứng được nhu cầu thị trường, để khai thác
25
được các nguồn lực để lựa chọn phương hướng sản xuất kinh doanh và tổ
chức quá trình sản xuất kinh doanh theo sự lựa chọn đó. Như vậy sự tích lũy
kinh nghiệm, tri thức và năng lực sản xuất kinh doanh là một yếu tố ảnh
hưởng lớn đến phát triển kinh tế trang trại.
Để đáp ứng yêu cầu trên, ngòai sự tích lũy của bản thân chủ trang trại
cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về nguồn lực và tổ chức để có thể truyền tải

các tiến bộ khoa học, kỹ thuật nông nghiệp, kiến thức tổ chức sản xuất kinh
doanh…cho các chủ trang trại và cho các chủ hộ trong nông nghiệp.
c. Sự tập trung nhất định về tiền vốn để phát triển trang trại:
Trang trại là một phương thức kinh doanh nông nghiệp, là một đơn vị
sản xuất kinh doanh cơ sở trong nông nghiệp có quy mô lớn hơn so với trình
độ sản xuất cao hơn nông hộ. Vì vậy việc thừa nhận trang trại có quy mô sản
xuất lớn hơn nông hộ cũng tức là thừa nhận trong các trang trại các yếu tố về
ruộng đất, vốn và tư liệu sản xuất được tập trung tới quy mô lớn hơn ở nông
hộ. Do đó có thể coi sự tập trung yếu tố tiền vốn là một trong những điều kiện
ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Sự tập trung các yếu tố sản xuất
trong trang trại trong đó có yếu tố tiền vốn được thể hiện dưới các hình thức
khác nhau. Yếu tố tiền vốn có thể thuộc quyền sở hữu của chủ trang trại hoặc
vay mượn từ Nhà nước hoặc họ hàng, người thân…Đây là điểm khác biệt của
kinh tế trang trại so với kinh tế hộ và đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế và
chính sách tạo thuận lợi cho sự tập trung các yếu tố sản xuất, trong đó yếu tố
tiền vốn là cơ sở, điều kiện quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh trong
các trang trại. Quy mô tập trung về tiền vốn, đất đai và các tư liệu sản xuất
khác của trang trại không phải là vô hạn mà có giới hạn. Đó là sự giới hạn bởi
các đặc điểm sinh học của sản xuất nông nghiệp và giới hạn tối ưu của các
yếu tố để đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.

×