Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo Trường Cao đẳng nghề Tp Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.89 KB, 77 trang )

GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đó là con đường tất yếu để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, phụ thuộc vào nông
nghiệp và trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa,
một trong những nhiệm vụ đang được đặt ra là việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân
lực kỹ thuật cho các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đặc biệt là đào tạo nguồn nhân
lực kỹ thuật cao đang là một đòi hỏi cấp bách trong công cuộc Công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Nhưng nước ta đang đứng trước một thực trạng là
nguồn lao động dồi dào nhưng thiếu lao động kỹ thuật và lao động quản lý. Trước
thực trạng đó, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo Bộ lao động thương binh xã hội Việt
Nam nhanh chóng phát triển các Trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề để
nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cho đất nước.
Mặc dù một thực tế không thể phủ nhận ở nước ta hiện nay đã có hàng trăm các
trường Đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ra đời và đã đào tạo hàng vạn
lao động cho đất nước. Nhưng số lao động được đào tạo ở những trường kể trên ra
lại không đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp hiện nay vì các trường này
đào tạo chủ yếu mang tính lý thuyết, thiết bị đào tạo quá cũ kỹ lạc hậu, nên hầu hết
những học sinh sinh viên ra trường có kỹ năng nghề nghiệp rất kém. Trong khi đó,
các trường Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề lại chú trọng đào tạo kỹ năng, gần 80%
thời lượng đào tạo là dành cho học thực hành và thực hành nghề, nên hầu hết học
sinh sinh viên ra trường đáp ứng được đòi hỏi của các công ty trong và ngoài nước.
Mặt khác, vừa qua Bộ Giáo dục và Bộ lao động thương binh xã hội đã ban hành
thông tư liên tịch chính thức cho đào tạo liên thông lên đại học cho sinh viên các
trường Cao đẳng nghề, như mở ra một con đường vào đại học thứ 2 cho học sinh
sinh viên các trường nghề. Chính vì thế mà số lượng học sinh sinh viên theo học tại
các trường Cao đẳng nghề ngày càng tăng. Một thực tế cũng đang diễn ra là trong
mấy năm gần đây số lượng các trường Cao đẳng nghề công lập và ngoài công lập ở
1
thành phố Hồ Chí Minh đang mọc lên rất nhiều, một số trường đại học cũng xin mở


thêm hệ đào tạo nghề, nên vấn đề cạnh tranh của các trường Cao đẳng nghề hiện
nay cũng đang rất gay gắt. Một số trường cao đẳng nghề hiện nay đã không tuyển
được sinh viên do cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo, sự cạnh tranh của các trường
lớn.
Trường Cao đẳng nghề thành phố Hồ Chí Minh sau hơn 10 năm hình thành và
phát triển đã đạt được những thành tựu to lớn như “ Huân chương lao động hạng
III” do chủ tịch nước phong tặng, một số giảng viên Nhà trường đã đạt danh hiệu
nhà giáo ưu tú, đào tạo và cung cấp hàng vạn lao động cho các khu công nghiệp,
khu chế xuất của thành phố và vùng lân cận. Đặc biệt, trường được Tổng cục dạy
nghề chọn làm trường trọng điểm phía Nam để thực hiện các dự án dạy nghề, xây
các mô hình dạy nghề Quốc gia. Ngoài ra trường còn được UBND thành phố Hồ
Chí Minh giao cho trọng trách đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật đáp ứng nhu cầu lao
động cho các khu công nghiệp, khu chế suất của thành phố và vùng lân cận; đào tạo
nghề cho thanh niên nông thôn, phát triển nghề cho thanh niên nông thôn, nhất là
thanh niên nông thôn những vùng bị thu hồi đất để phát triển các dự án của Thành
phố, như Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ, Củ Chi – Một trong những vấn đề nhức
nhối của Thành phố hiện nay.
Để thực hiện sự chỉ đạo của tổng cục dạy nghề Bộ lao động thương binh xã hội
và của UBND thành phố, Trường Cao đẳng nghề thành phố Hồ Chí Minh không
ngừng phải xây dựng các khung chương trình, nội dung đào tạo cho phù hợp với
yêu cầu và đòi hỏi của các doanh nghiệp hiện nay. Bên cạnh đó Nhà trường cũng
phải nghiên cứu xem xét đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào của
Nhà trường, để Trường Cao đẳng nghề thành phố Hồ Chí Minh thực sự là trường đi
đầu trong cả nước trong lĩnh vực đào tạo nghề và sớm trở thành một trường xứng
tầm trong khu vực.
Mặt khác, các nghiên cứu trong nước đề cập đến chất lượng đào tạo đó là :
Biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên Trường Cao đẳng giao thông vận tải 3 của
Phạm Kiều Mai (2003) với việc đề xuất cách thức quản lý đội ngũ giáo viên về
2
nhiều mặt như thời gian làm việc, chính sách, chế độ đãi ngộ, … Giải pháp nâng

cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng công nghiệp thực phẩm của Nguyễn Thị
Thu Hà (2008) trong đó chỉ ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đào tạo với
nhà trường, người học và người sử dụng lao động. Biện pháp nhằm quản lý tăng
cường hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo của các trường nghề ở Nam Định của
Lã Duy Tuấn (2009) đã chỉ ra: tăng cường hợp tác giữa Nhà trường và doanh
nghiệp là cách hữu hiệu nhất để nâng cao chất lượng đào tạo cho các cơ sở dạy
nghề. Nguyễn Thị Đang (2011), Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo trường Cao đẳng nghề miền đông nam bộ.
Như vậy, qua các bài viết trên có thể thấy: các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo và đào tạo nghề được xác định dưới sự đánh giá của nhiều thành phần
khác nhau: chịu sự tác động từ gia đình, nhà trường đến cộng đồng mà trong đó các
yếu tố bên trong lẫn bên ngoài đều được đề cập trên phạm vi rộng lớn. Mặt khác,
hầu hết các nghiên đều tập trung chủ yếu vào việc đề ra các giải pháp để nâng cao
chất lượng đào tạo nghề còn quá ít nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo nghề dưới sự đánh giá của người học, đặc biệt là với trường hợp
Trường Cao đẳng nghề Tp HCM.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, đề tài “Những nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo Trường Cao đẳng nghề Tp Hồ Chí Minh” qua sự nhìn nhận, đánh
giá của người học là để xác định với sự tác động đó Nhà trường đã đáp ứng những
tiêu chuẩn nào, những tiêu chuẩn nào chưa thể đáp ứng, để từ đó có được hướng đi
đúng đắn cho sự phát triển lâu dài bền vững.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
Trường Cao đẳng nghề Tp Hồ Chí Minh
- Mục tiêu cụ thể:
+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề.
+ Kiểm định, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến chất lượng
đào tạo nghề.
3
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề.

3. Câu hỏi nghiên cứu
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề?
- Các nhân tố đó có ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng đào tạo nghề?
- Giải pháp nào để nâng cao chất lượng đào tạo nghề?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh sinh viên đang theo học tại trường Cao đẳng
nghề thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu :
+ Phạm vi về nội dung: Đề tài này nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo Trường Cao đẳng nghề Tp Hồ Chí Minh
+ Phạm vi về không gian : Trường Cao đẳng nghề thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu dựa vào số liệu thứ cấp và sơ cấp thu thập
trong khoảng thời gian 2009 đến 2011, tập trung chủ yếu vào các nhân tố liên quan
đến chất lượng đào tạo nghề thông qua sự đánh giá của người học.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu góp phần giúp nhà trường có sự nhìn nhận tổng quan về
chất lượng đào tạo thông qua sự đánh giá từ phía người học; đồng thời giúp nhà
trường trong việc định hướng một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng nhiều đến chất
lượng đào tạo nghề.
Các trường, các cơ sở trong cùng lĩnh vực đào tạo nghề có thể tham khảo kết
quả nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu chất lượng đào tạo.
6. Kết cấu đề tài
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu: Trong chương này tác giả sẽ đề
cập đến các khái niệm, quan điểm, cơ sở lý thuyết và một số mô hình về chất lượng
đào tạo cũng như đào tạo nghề để từ đó có thể đưa ra mô hình nghiên cứu nhằm xác
định nội dung chương trình và hướng nghiên cứu của đề tài.
Chương 2. Giới thiệu tổng quan về trường Cao đẳng nghề Tp Hồ Chí Minh và
phương pháp nghiên cứu: Chương này bao gồm hai phần: Phần thứ nhất là giới
4
thiệu tổng quan về trường Cao đẳng nghề Tp Hồ Chí Minh như: Quá trình hình

thành và phát triển; Cơ cấu tổ chức nhà trường; Thực trạng về đào tạo tại Nhà
trường. Phần thứ hai là phương pháp nghiên cứu mà đề tài sử dụng để giải quyết
những mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và một số giải pháp kiến nghị: Mục đích của chương
này là trình bày kết quả nghiên cứu thu được thông qua phân tích và kiểm định mô
hình nghiên cứu; nội dung của chương này bao gồm : (1) Mô tả mẫu nghiên cứu, (2)
Phân tích đánh giá công cụ đo lường và (3) Kiểm định giả thuyết kết quả nghiên
cứu.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
Trong chương này tác giả sẽ đề cập đến các khái niệm, quan điểm, cơ sở lý
thuyết và một số mô hình về chất lượng đào tạo cũng như đào tạo nghề để từ đó có
thể đưa ra mô hình nghiên cứu nhằm xác định nội dung chương trình và hướng
nghiên cứu của đề tài.
1.1. Khái niệm và các hình thức đào tạo nghề
1.1.1. Một số khái niệm
Khái niệm về nghề, đào tạo nghề
Mai Quốc Chánh (1998), Nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ
thống phân công lao động của xã hội, là toàn bộ kiến thức và kỹ năng mà một người
lao động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao
động nhất định.
Luật dạy nghề (2006) quy định: Dạy nghề (đào tạo nghề) là hoạt động dạy và
trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để
có thể tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học.
Khái niệm về dịch vụ: Dịch vụ là một khái niệm phổ biến nên có rất nhiều cách định
nghĩa.
Theo Đỗ Ngọc Sơn, 2011 (dẫn theo Zeithaml & Bitner, 2000), “Dịch vụ là
những hành vi, quá trình, cách thức thực hiện một công việc nào đó nhằm tạo giá
trị sử dụng cho khách hàng làm thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng”.

Theo Kotler & Armstrong (2004), “Dịch vụ là những hoạt động hay lợi ích mà
doanh nghiệp có thể cống hiến cho khách hàng nhằm thiết lập, củng cố và mở rộng
những quan hệ và hợp tác lâu dài với khách hàng” (được Đỗ Ngọc Sơn, 2011 trích
dẫn khi đánh giá các nhân tố về chất lượng đào tạo có tác động đến sự hài lòng của
học viên tại trung tâm đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, trường ĐH Mở Tp HCM).
6
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, dịch vụ trong kinh tế học được
hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất. Tuy nhiên có thể
phân biệt giữa hàng hoá và dịch vụ căn cứ vào bốn điểm khách biệt sau:
Mức độ vô hình – hữu hình (tangibility- intangbility): Hàng hóa là những mặt
hàng có thể đụng chạm còn được gọi là sản phẩm vật chất, sản phẩm hữu hình. Dịch
vụ là một hoạt động, một việc thực hiện bởi bên này cho bên kia. Dịch vụ không
phải là vật chất nên vô hình và rất khó xác định chính xác. Theo quan điểm của kinh
tế học, dịch vụ là một chức năng và bao gồm các mối quan hệ tương tác giữa khách
hàng và bất kỳ người nào trong doanh nghiệp.
Tính sản xuất đồng thời (simultaneous production): Khác với hàng hóa thông
thường được sản xuất ở nhà máy, sau đó dự trữ ở kho hoặc bán ở cửa hàng, chờ đợi
khách hàng trước khi được bán. Dịch vụ thường được bán trước và sản xuất sau.
Hơn nữa dịch vụ còn được sản xuất và tiêu thụ cùng một lúc. Người sản xuất hàng
hóa ở xa người tiêu dùng, nhưng người tạo ra dịch vụ thường có mặt cùng khách
hàng.
Tính chất không tồn kho (Perishability): Dịch vụ không thể tồn kho được nên
khó có thể cân đối giữa cung và cầu dịch vụ.
Tính chất thay đổi ( variability): chất lượng và kết quả của dịch vụ khác nhau
thùy thời điểm nơi, chỗ, người tạo ra dịch vụ. (Vì vậy, người cung ứng dịch vụ giáo
dục phải chú ý, luôn luôn chăm chút, giữ chất lượng dịch vụ phát triển bền vững).
1.1.2. Các hình thức đào tạo nghề
Luật dạy nghề (2006) quy định:
Đào tạo nghề chính quy: Được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề,
trung cấp nghề và cao đẳng nghề.

Đào tạo nghề thường xuyên: Được thực hiện với các chương trình dạy nghề
thường xuyên như bồi dưỡng, nâng cao, cập nhật kiến thức và kỹ năng nghề;
chương trình dạy nghề kèm theo hình thức kèm cặp nghề, truyền nghề.
7
1.2. Chất lượng dịch vụ và chất lượng đào tạo nghề
1.2.1. Chất lượng dịch vụ
Đối với hàng hóa tiêu dùng thông thường thì việc đáng giá và đo lường chất
lượng của sản phẩm rất dễ dàng vì căn cứ vào hình dáng, chất liệu, tính năng,…
Nhưng đối với dịch vụ thì việc đánh giá chất lượng của nó khó khăn hơn nhiều.
Khái niệm chất lượng dịch vụ ngày nay thường phụ thuộc vào đối tượng sử dụng.
Chất lượng có thể xem như là một mục tiêu động, biến thái linh hoạt theo hoàn cảnh
và thể hiện ý nghĩa theo mục tiêu của chủ thể. Chất lượng sản phẩm phản ánh mức
độ đáp ứng và yêu cầu do khách hàng đặt ra và được khách hàng chấp nhận. Theo
tiêu chuẩn ISO 9000 thì “chất lượng lượng là toàn bộ những đặc tính của một thực
thể, tạo cho thực thể ấy khă năng thỏa mãn các nhu cầu đã được công bố hay tiềm
ẩn” (Được trích bởi Đỗ Ngọc Sơn, 2011). Như vậy, có thể nói chất lượng là tập hợp
những thuộc tính bên trong sự vật hiện tượng, tạo cho nó đặc tính riêng biệt làm
thỏa mãn yêu cầu mong muốn. Vì vậy, việc đo lường và đánh giá chất lượng dịch
vụ được thực hiện theo phạm vi và góc độ tiếp cận khác với sản phẩm vật chất.
Ngày nay, chất lượng dịch vụ đã trở thành một nhân tố quan trọng trong cạnh tranh
thương mại. Người ta định nghĩa chất lượng dịch vụ là những gì mà khách hàng
cảm nhận được. Mỗi khách hàng thường cảm nhận khác nhau về chất lượng, do đó
việc tham gia của khách hàng trong việc phát triển và đánh giá chất lượng dịch vụ là
rất quan trọng. Trong lĩnh vực dịch vụ, chất lượng là một hàm nhận thức của khách
hàng. Nói cách khác, chất lượng của dịch vụ được xác định dựa vào nhận thức, hay
cảm nhận của khách hàng liên quan đến nhu cầu cá nhân của họ. Theo ISO-8402
“Chất lượng dịch vụ là tập hợp các đặc tính của một đối tượng, tạo cho đối tượng
đó khả năng thõa mãn những yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn” (Được trích bởi Đỗ
Ngọc Sơn, 2011).
Đánh giá chất lượng dịch vụ không dễ dàng, cho đến nay còn rất nhiều tranh cãi

giữa các nhà lý thuyết cũng như các nhà nghiên cứu trong việc định nghĩa, đánh giá
chất lượng dịch vụ. Zeithaml (1987) (Được trích bởi Đỗ Ngọc Sơn, 2011)giải thích:
Chất lượng dịch vụ là sự đánh giá của khách hàng về tính siêu việt và sự tuyệt vời
8
nói chung của một thực thể. Nó là một dạng của thái độ và các hệ quả từ một sự so
sánh giữa những gì được mong đợi và nhận thức những thứ ta nhận được. Lewis và
Booms phát biểu: Dịch vụ là sự đo lường mức độ dịch vụ được đưa đến khách hàng
tương xứng với mong đợi của khách hàng tốt đến đâu. Việc tạo ra một dịch vụ chất
lượng nghĩa là đáp ứng mong đợi của khách hàng một cách đồng nhất. Tác giả
Nguyễn Đình Thọ (dẫn theo Parasuraman và ctg, 2003) đã định nghĩa: Chất lượng
dịch vụ là khoảng cách mong đợi về sản phẩm dịch vụ của khách hàng và nhân
thức, cảm nhận của họ khi sử dụng sản phẩm dịch vụ đó. Parasuraman (1991) giải
thích rằng để biết được sự dự đoán của khách hàng thì tốt nhất là nhận dạng và thấu
hiểu những mong đợi của họ. Việc phát triển một hệ thống xác định những mong
đợi của khách hàng là cần thiết. Và ngay sau đó ta mới có một chiến lược chất
lượng dịch vụ có hiệu quả. Đây có thể xem là một khái niệm bao quát nhất, bao hàm
đầy đủ ý nghĩa của dịch vụ đồng thời cũng chính xấc nhất khi xem xét chất lượng
dịch vụ đứng trên quan điểm khách hàng, xem khách hàng là trung tâm.
Một số lý thuyết khác như Lehinen (1982) (Được trích bởi Đỗ Ngọc Sơn,
2011) cho là chất lượng dịch vụ phải được đánh giá trên hai khía cạnh: (1) Quá trình
cung cấp dịch vụ; (2) kết quả dịch vụ. Gronroos (1984) (Được trích bởi Đỗ Ngọc
Sơn, 2011) cũng đề nghị hai lĩnh vực của chất lượng dịch vụ, đó là: (1) Chất lượng
kỹ thuật và (2) chất lượng chức năng. Chất lượng kỹ thuật liên quan đến những gì
phục vụ và chất lượng chức năng nói lên chúng được phục vụ như thế nào (dẫn theo
Nguyễn Đình Thọ & ctg.,2003). Tuy nhiên mô hình này mang tính khái niệm nhiều
hơn và các giả thuyết trong mô hình cần hàng loạt các nghiên cứu kiểm định. Ngày
nay, có hai mô hình thông dụng dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ là: Mô hình
Gronroos (1984) cho rằng chất lượng dịch vụ được đánh giá trên hai khía cạnh: (1)
Chất lượng kỹ thuật và (2) chất lượng chức năng, và mô hình Parasuraman et, al.
(1985) (Được trích bởi Đỗ Ngọc Sơn, 2011) chất lượng dịch vụ được đánh giá dựa

vào năm khác biệt. Có lẽ mô hình Parasuraman được sử dụng phổ biến hơn cả, bởi
tính cụ thể, chi tiết và công sụ đánh giá luôn được các tác giả và đồng nghiệp kiểm
định, cập nhật. Mô hình năm khác biệt là mô hình tổng quát, mang tính lý thuyết về
9
chất lượng dịch vụ gồm năm thành phần mà có thể ứng dụng trong đánh giá chất
lượng dịch vụ ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Khoảng cách thứ nhất : xuất hiện khi kỳ vọng của khách hàng về chất lượng
dịch vụ có sự khác biệt với cảm nhận của nhà quản trị chất lượng dịch vụ cảm nhận
về kỳ vọng này của khách hàng. Sự khác biệt này được hình thành do công ty dịch
vụ chưa tìm hiểu hết những đặc điểm nào tạo nên chất lượng dịch vụ, và có những
nhận định về kỳ vọng của khách hàng chưa đúng thực tế (xem hình 1.1).
Khoảng cách thứ hai: Xuất hiện khi công ty dịch vụ gặp khó khăn trong việc
xây dựng những tiêu chí chất lượng dịch vụ sao cho phù hợp với những nhận định
về kỳ vọng của khách hàng. Sự cách biệt về tiêu chí này là do khả năng chuyên môn
của đội ngũ nhân viên nghiệp vụ cũng như yêu cầu về dịch vụ tăng cao trong mùa
cao điểm làm cho các công ty dịch vụ không đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng (xem
hình 1.1).
Hình 1.1 Mô hình năm khác biệt dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ
Nguồn: Parasuraman & ctg (1995)
10
Khoảng cách 4
Khoảng
cách 1
KHÁCH
HÀNG
TỔ CHỨC
DỊCH VỤ
Dịch vụ kỳ vọng
Dịch vụ cảm nhận
Dịch vụ chuyển

giao
Chuyển đổi cảm
nhận của công ty
thành tiêu chuẩn
chất lượng
Nhận thức của công
ty về kỳ vọng của
khách hàng
Thông tin
đến khách
hàng
Khoảng cách 5
Khoảng cách 3
Khoảng cách 2
Khoảng cách thứ ba: Chính là sự khác biệt giữa chất lượng dịch vụ cung cấp
thực tế với những tiêu chí chất lượng dịch vụ mà công ty đưa ra. Trong dịch vụ, các
nhân viên có liên hệ trực tiếp với khách hàng đóng vai trò quan trọng trong quá
trình tạo ra chất lượng. Khoảng cách này liên hệ trực tiếp đến năng lực phục vụ của
nhân viên, bởi vì không phải lúc nào tất cả nhân viên đều hoàn thành hết tất cả các
tiêu chí chất lượng dịch vụ mà công ty đưa ra.
Khoảng cách thứ tư: Biểu hiện cho sự khác biệt về những hứa hẹn trong các
chương trình quảng cáo khuyến mại với những thông tin thực tế về dịch vụ cung
cấp mà khách hàng nhận được. Những hứa hẹn qua các chương trình truyền thông
có thể gia tăng kỳ vọng của khách hàng nhưng cũng sẽ làm giảm sự hài lòng về chất
lượng mà khách hàng cảm nhận những điều nhận được không đúng với những gì
mà công ty đã hứa. Nghĩa là khoảng cách này xuất hiện khi có sự so sánh chất
lượng mà khách hàng cảm nhận được với những thông tin dịch vụ đã được truyền
tải đến họ.
Khoảng cách thứ năm: Là khoảng cách xuất hiện khi có sự khác biệt giũa
chất lượng kỳ vọng bởi khách hàng và chất lượng họ cảm nhận được. Chất lượng

dịch vụ phụ thuộc vào khoảng cách thứ năm này. Một khi khách hàng nhận thấy
không có sự khác biệt giữa chất lượng họ kỳ vọng và chất lượng họ cảm nhận được
khi tiêu dùng một dịch vụ thì chất lượng dịch vụ được xem là hoàn hảo.
Parasuaraman & ctg (1985) (được trích bởi Đỗ Ngọc Sơn, 2011) cho rằng chất
lượng dịch vụ là một hàm số của khoảng cách thứ năm. Khoảng cách thứ năm này
phụ thuộc vào các khoảng cách trước đó, nghĩa là các khoảng cách 1,2,3 và 4. Vì
thế, để rút ngắn khoảng cách thứ năm, hay làm gia tăng chất lượng dịch vụ, nhà
quản trị phải nỗ lực rút ngắn các khoảng cách này.
Mô hình chất lượng dịch vụ theo Parasuaraman được biểu diễn như sau:
QC = F(G5)= f (G.1, G.2, G.3, G.4, G.5)
Trong đó : - QC là chất lượng dịch vụ
- G.1, G.2, G.3, G.4, G.5 là khoảng cách chất lượng 1,2,3,4,5)
11
Như đã trình bày ở trên, nói đến chất lượng dịch vụ người ta không thể không
nói đến sự đóng góp to lớn của Parasuaraman & ctg (1988 và 1991). Ông cho rằng
chất lượng dịch vụ là khoảng cách giữa giá trị cảm nhận và chất lượng kỳ vọng về
dịch vụ được đánh giá dựa trên năm khoảng cách và thành phần chất lượng dịch vụ.
Theo từ điển tiếng Việt (1999): Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì; tính ổn định tương đối của sự vật
phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất
lượng biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của
sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và
không tách rời sự vật. Sự vật khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất đi chất
lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật. Về căn bản,
chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với tính quy định về số lượng của nó và
không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng thống nhất giữa
số lượng với chất lượng.
1.2.2. Một số quan điểm về chất lượng đào tạo và đào tạo nghề:
Nhiều năm trở lại đây các phương tiện truyền thông đại chúng của Việt Nam
nói rất nhiều về Chất lượng đạo tạo, nhưng vẫn là một khái niệm khó xác định, khó

đo lường và cách hiểu của người này khác so với người kia. Khái niệm chất lượng
trong giáo dục đã được đưa ra từ nhiều góc độ khác nhau.
Hệ thống kiểm định quốc gia Việt Nam quan niệm: “Chất lượng sẽ được đánh
giá bằng cách khách hàng xếp hạng tầm quan trọng của các đặc trưng phẩm chất đối
nghịch với tính nhất quán và giá trị bằng tiền”. Đào tạo nghề sẽ đảm bảo nâng cao
chất lượng nếu thực hiện tốt các nhân tố như: Đáp ứng yêu cầu của khách hàng, tập
trung vào con người và mọi đóng góp xây dựng tổ chức của mình, có tầm nhìn dài
hạn, quản lý sự thay đổi một cách có hiệu quả, có đổi mới, hữu hiệu, tổ chức tiếp thị
tốt với thị trường.
Phạm Xuân Thanh (2004): Chất lượng đào tạo là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của
trường học. Mục tiêu trong định nghĩa này được hiểu theo nghã rộng bao gồm sứ
mạng, các mục đích, đặc điểm của chương trình đào tạo. Mục tiêu phải phù hợp với
12
chức năng nhiệm vụ và các nguồn lực của nhà trường nhưng đồng thời mục tiêu đào
tạo phải đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế- xã hội – đất nước.
Trần Khánh Đức (2003): Chất lượng đào tạo nghề là kết quả tác động tích cực
của tất cả các yếu tố cấu thành hệ thống đào tạo nghề và quá trình vận hành trong
môi trường nhất định.
Luật dạy nghề (2006): Theo định nghĩa về mục tiêu dạy nghề, chất lượng đào
tạo ở cấp độ nghề là sự đáp ứng các mục tiêu đề ra của Nhà trường. Đó là đào tạo
nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề
tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật,
tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi
tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề:
Theo Quy định được ban hành theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BLĐTBXH
ngày 17/01/2008 của Bộ trưởng về hệ thống tiêu chí tiêu chuẩn kiểm định chất
lượng trường Cao đẳng nghề, các tiêu chí đánh giá bao gồm: Mục tiêu và nhiệm vụ;
tổ chức và quản lý; hoạt động dạy và học; giáo viên và cán bộ quản lý; chương

trình, giáo trình; thư viện; cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học; quản lý tài
chính; các dịch vụ cho người học nghề.
Như vậy, chất lượng đào tạo nghề bị ảnh hưởng bởi các nhân tố: Chất lượng
đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, người học nghề, đội ngũ
quản lý và chính sách quản lý, nguồn lực tài chính của nhà trường.
Cơ sở vật chất: Bao gồm: Hệ thống giảng đường, xưởng thực hành, phòng thí
nghiệm, các phương tiện hỗ trợ dạy và học, thư viện và nguồn tài liệu đáp ứng nhu
cầu người học. Đã có rất nghiều nghiên cứu, bài viết, văn bản, quan điểm đề cập
đến cơ sở vật chất trong đó điển hình:
Luật dạy nghề (2006): Kiểm định chất lượng trong giáo dục thì yếu tố cơ sở vật
chất được xem là tiêu chuẩn đầu tiên của quá trình kiểm định. Phòng học, máy móc,
13
trang thiết bị là những thứ không thể thiếu trong quá trình đào tạo, nó giúp cho
người học có điều kiện để thực hành có thể hoàn thiện kỹ năng.
Phạm Thị Cúc Phương (2008): Cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học đóng vai
trò tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy và học, đảm bảo chất lượng đào tạo
của một trường. Để đảm bảo sau khi tốt nghiệp, người học đáp ứng được yêu cầu
của người sử dụng lao động, đó là tiếp cận ngay và làm chủ cộng nghệ sản xuất nơi
công tác một cách có hiệu quả, thì cơ sở đào tạo nghề phải có cơ sở vật chất – trang
thiết bị thực hành đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, phù hợp với nội dung chương trình đào
tạo; thậm chí, công nghệ phải đi trước công nghệ của nền sản xuất. Trường đào tạo
nghề phải có các phòng học bộ môn phù hợp với từng ngành học, cấp học, phải có
thư viện hiện đại; các trung tâm thông tin; nối mạng internet để hỗ trợ công tác
nghiên cứu của giáo viên và tìm hiểu của người học. Hệ thống sách và tài liệu giáo
khoa cho người học; sách tham khảo, giáo trình, tạp chí chuyên ngành, cho giáo
viên cũng cần được trang bị đầy đủ.
Như vậy, có thể thấy trong đào tạo nghề nếu chương trình đào tạo được đánh
giá là tốt, đội ngũ giáo viên có chuyên môn kinh nghiệm, mà hệ thống cơ sở vật chất
không đáp ứng được nhu cầu đào tạo sẽ ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả đào tạo dẫn
đến chất lượng đào tạo thấp. Mặt khác để có được hệ thống cơ sở vật chất đáp ứng

tốt cho nhu cầu đào tạo thì nguồn tài chính để hình thành nên nó cũng trở nên vô
cùng cần thiết và không thể thiếu trong đào tạo. Tài chính cho đào tạo nghề cũng là
một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo chất lượng đào tạo, tác động gián tiếp tới
chất lượng đào tạo nghề thông qua khả năng trang bị về cơ sở vật chất, phương tiện,
thiết bị giảng dạy, khả năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên. Tài chính
đầu tư cho đào tạo nghề càng dồi dào thì càng có điều kiện đảm bảo chất lượng đào
tạo nghề.
Đội ngũ giáo viên: là nhân tố được đề cập nhiều nhất trong các nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo nghề. Cụ thể: Luật giáo dục (2005): Giáo
viên dạy nghề phải có các tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, đủ sức khỏe, đạt trình
độ chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ; Luật dạy nghề (2006): Giáo viên dạy nghề là
14
người dạy lý thuyết, dạy thực hành hoặc song song cả hai hình thức trên trong các
cơ sở dạy nghề; Theo Chairman (2003) (được trích bởi Abby Ridell, 2008): Giáo
viên dạy nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức lý thuyết cũng như các
kỹ năng, kinh nghiệm cho người học trên cơ sở trang thiết bị dạy học hiện có. Vì
vậy, năng lực giáo viên dạy nghề ảnh hưởng trực tiếp và cùng chiều đến chất lượng
đào tạo nghề. Đào tạo nghề có nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền giáo
dục, đó là ngành nghề đào tạo rất đa dạng và người học có trình độ văn hóa rất khác
nhau. Bên cạnh đó, hoạt động đào tạo nghề có nhiều cấp khác nhau (chưa có nghề,
sơ cấp nghề, trung cấp nghề, Cao đẳng nghề, bồi dưỡng nâng bậc thợ). Sự khác biệt
này dẫn đến trình độ của đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng rất đa dạng. Giáo viên
dạy nghề luôn luôn phải đáp ứng cả hai điều kiện đó là số lượng và chất lượng; có
đủ về số lượng để có thể tận tình hướng dẫn, theo sát người học, có đủ chất lượng
thì mới có thể giảng dạy và truyền đạt cho người học một cách hiệu quả.
John Ralph (2000) (được trích bởi Nguyễn Thị Đang, 2011) cho rằng: Chất
lượng đào tạo là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó đội ngũ giáo viên giữ
vai trò quan trọng. Trong mỗi chương trình đào tạo, chất lượng của đội ngũ giảng
dạy có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Nhiều nghiên cứu cho
thấy rằng chất lượng đào tạo phụ thuộc nhiều vào khả năng sư phạm, kiến thức và

trình độ chuyên môn mà giáo viên được đào tạo, kinh nghiệm thực tế và kinh
nghiệm giảng dạy mà giáo viên tích lũy.
Trên thực tế cũng cho thấy giáo viên đóng vai trò quyết định trong việc đảm
bảo chất lượng đào tạo. Thầy cô là người gợi mở, khuyến khích sự đam mê sáng tạo
nghề nghiệp, là người luôn tích cực hỗ trợ cho người học trong quá trình hình thành
nhân cách, tác phong công nghiệp. Trong các buổi thực hành, thầy là người huấn
luyện viên tận tụy, mẫu mực và bao dung. Vai trò của giáo viên dạy nghề là trang bị
kiến thức, hướng dẫn kỹ năng, tạo lập nhân cách cho người học. Người giáo viên
dạy nghề trước hết phải yêu nghề, có trình độ chuyên môn, tay nghề giỏi, có tài
năng sư phạm và sử dụng thành thạo các phương tiện hỗ trợ dạy học.
15
Từ các quan điểm và sự phân tích trên đây cho thấy, tiêu chuẩn để dánh giá một
giáo viên dạy nghề cần phải có đó là: Kiến thức tốt, kỹ năng giảng dạy và truyền đạt
tốt, muốn có được điều này lại cần có kinh nghiệm thực tế. Bên cạnh đó, giáo viên
dạy nghề phải là người hòa nhã, thân thiện, biết cách lắng nghe, chia sẻ với người
học. Một điều không thể thiếu đối với tất cả những người làm công tác sư phạm đó
là phẩm chất đạo đức hay còn gọi là sự tâm huyết đối với nghề.
Mặt khác, thông tư số 30/2010/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động thương binh
Xã hội quy định về chuẩn giáo viên, giảng viên dạy nghề (Xem phụ lục 9)
Thực tế hiện nay ở nước ta đội ngũ giáo viên, giảng viên của các trường dạy
nghề trong cả nước vẫn còn nhiều bất cập do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau. So với tốc độ gia tăng quy mô đào tạo nghề, sự ra đời của nhiều
trường nghề trong cả nước thì tốc độ tăng số lượng giáo viên giảng viên chưa đáp
ứng được yêu cầu; bên cạnh đó chất lượng giáo viên còn thấp, kỹ năng sư phạm
nghề chưa cao, nhất là các giáo viên trẻ mới ra trường, các trường nghề địa phương
mới thành lập đội ngũ giáo viên còn mỏng chưa có nhiều kinh nghiệm. Một bộ phận
giáo viên dạy thực hành nghề chưa qua thực tế sản xuất, chưa cập nhật kiến thức, kỹ
năng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Khả năng ngoại ngữ và tin học của nhiều giáo
viên còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến việc tham khảo và khai thác tài liệu ngước
ngoài phục vụ giảng dạy.

Người học nghề: Người học nghề vừa là đối tượng, vừa là mục tiêu và vừa là
một trong những chủ thể của quá trình đào tạo nghề. Cho dù cơ sở vật chất tốt, trình
độ đội ngũ giáo viên cao, nhưng khả năng, ý thức, thái độ người học nghề không
cao thì nó cũng ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề.
Môi trường học tập: là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy và
học, tác động trực tiếp tới tinh thần, tâm lý người học. Khi môi trường học tập tốt,
thân thiện, cởi mở, nơi đào tạo thể hiện đúng trách nhiệm, người học có ý thức thì
chất lượng đào tạo đạt hiệu quả và ngược lại, nếu nhà trường không tạo điều kiện tốt
sẽ khiến người học nản lòng, không khi học tập nặng nề tạo ra áp lực tâm lý dẫn đến
16
sự nhìn nhận không khách quan về đào tạo và hiệu quả của đào tạo thấp. Điều này
càng trở nên quan trọng và thiết thực khi đó là môi trường giáo dục nghề.
Chương trình đào tạo: là một trong những điểm khởi đầu cho đào tạo, không
có chương trình đào tạo thì hoạt động đào tạo không thể thực hiện. Từ tầm quan
trọng của nó, có nhiều quan điểm đề cập tới lĩnh vực này dưới nhiều góc độ khác
nhau, cụ thể:
Tracy Chao, Tami Saj, Felicity Tessier (2006) (được trích bởi Nguyễn Thị
Đang, 2011): Việc thiết kế chương trình đào tạo liên quan đến việc xây dựng kết
cấu và nội dung đào tạo sẽ định hướng cho kết quả đầu ra của một chương trình đào
tạo. Ngược lại, kết quả đầu ra gắn kết chặt chẽ với các khoa học trong chương trình
đào tạo. Sự gắn kết này chính là nền tảng của chất lượng đào tạo bởi nó hướng tới
lợi ích và nhu cầu của người học.
Abby Riddell, 2008 (được trích bởi Nguyễn Thị Đang, 2011): Trong lĩnh vực
dạy nghề, chương trình đào tạo chuẩn mực để đánh giá chất lượng đào tạo. Chương
trình đào tạo gắn với nghề đào tạo, không có chương trình chung cho các nghề mà
mỗi loại nghề đều có chương trình riêng. Do vậy, một cơ sở dạy nghề có thể có
nhiều chương trình đào tạo nghề nếu như cơ sở đó đào tạo nhiều nghề. Điều này đòi
hỏi việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng về chương trình đào tạo nghề xét ở mức độ
có hay không có không thể chỉ căn cứ vào cơ sở đào tạo nghề mà phải căn cứ vào
nghề mà cơ sở đó đào tạo.

Để giải quyết những khó khăn trong xây dựng chương trình đào tạo nhằm đáp
ứng yêu cầu trên thì trước tiên phải xây dựng một chương trình đào tạo chuẩn cấp
quốc gia, phù hợp với nền công nghiệp hiện nay, chương trình đào tạo phải đạt được
mục tiêu đào tạo nghề như Luật Giáo dục (2005) đã xác định: “Mục tiêu của giáo
dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các
trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong
công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khă năng tìm
việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh”.
Chương trình đào tạo nghề cấp quốc gia là “phần cứng” của chương trình mà bất cứ
17
trường dạy nghề nào trên toàn quốc có cùng cấp đào tạo chung ngành nghề đều phải
áp dụng như nhau. Ngoài ra tùy thuộc vào đặc điểm của vùng miền thuộc từng địa
bàn từng trường mà mỗi trường cần phải xây dựng thêm một nội dung gọi là “phần
mềm”. Phần mềm của chương trình do Nhà trường xây dựng phải dựa vào kết quả
nhà trường khảo sát, tìm hiểu, xem xét các yêu cầu của người sử dụng lao động để
đưa ra chuẩn mực đào tạo hợp lý, cải tiến chương trình. Trong khi nhu cầu và yêu
cầu của xã hội, của người sử dụng lao động luôn thay đổi theo sự phát triển của nền
kinh tế đất nước, điều quan trọng là phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và
người sử dụng lao động trong quá trình đào tạo để người học làm quen công nghệ
mới khi thực tập tại các cơ sở. Tuy nhiên, việc gắn kết này còn hạn chế ở nhiều
trường, ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra của người học.
Như vậy, chương trình đào tạo cần phải đúng, đủ, sát thực tế, đáp ứng nhu cầu
về chất lượng của thị trường lao động là kiến thức và tay nghề, chứ không chỉ đơn
thuần về số lượng các môn học cũng như số tiết từng môn học
Chất lượng dịch vụ hỗ trợ: Dịch vụ hỗ trợ là một trong những nhân tố làm
tăng sự thỏa mãn, sự cảm nhận của khách hàng khi sử dụng sản phẩm dịch vụ đó.
Chất lượng dịch vụ hỗ trợ trong hoạt động đào tạo nghề chủ yếu dựa vào thái độ
phục vụ của đội ngũ nhân viên ở các phòng, ban, khoa, bộ phận; sự quan tâm của
Nhà trường định hướng nghề nghiệp, dịch vụ sinh hoạt. Sự phục vụ thân thiện,
chuyên nghiệp sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

Ngoài ra, các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề bao gồm
các điều kiện môi trường của hệ thống đào tạo nghề, với một số yếu tố cơ bản: Hội
nhập kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thể chế
chính trị, sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế - chính sách, quy mô – cơ cấu lao
động, nhận thức xã hội về đào tạo nghề.
1.3. Một số mô hình về chất lượng đào tạo
- Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học nghề ở Đức và
Thụy Điển – Lundahh & Sander (1998).
18
Hoạt động dạy nghề tại Đức và Thụy Điển dựa trên những nhân tố cơ bản ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo. Sự thành công quả quá trình đào tạo chịu sự ảnh
hưởng của các nhân tố như: Cơ sở vật chất, chương trình giáo dục dạy nghề, đội ngũ
giáo viên, người học. Ở đây yếu tố nhân lực để thực hiện quá trình dạy và học là
quan trọng nhất. Sự tác động của chương trình và phương pháp giảng dạy giúp
người học có động lực học tập và học cách học hỏi.
Hình 1.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học
Theo mô hình này, đội ngũ giáo viên được quan tâm hàng đầu bởi họ là nhân tố
đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo. Giáo viên không
những thể hiện đóng vai trò là người hướng dẫn nội dung lý thuyết, kỹ năng thực
hành mà còn giúp người học nhận thức được tầm quan trọng của nghề nghiệp, tạo ra
động lực học tập và nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp.
Cũng theo quan điểm này đội ngũ giáo viên dạy nghề trước khi thực hiện công
tác giảng dạy được bồi dưỡng, huấn luyện bởi một chương trình đào tạo giáo viên
theo trình tự thống nhất, căn bản. Các tiêu chí đối với giáo viên được đặt ra:
- Kiến thức giáo viên đối với hoạt động giảng dạy.
- Phương pháp giảng dạy.
19
Chương
trình giáo
dục dạy

nghề
Cơ sở
vật chất
Đội ngũ
giáo viên
Người học
Chất lượng
dạy và học
- Sử dụng thành phạo các phương tiện hỗ trợ dạy học.
- Kinh nghiệm thực tế của giáo viên.
Bên cạnh đó thì mức độ trang bị phòng học, các loại máy móc thiết bị, phương
tiện dạy học cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Đối với người học: Cần xem xét đến khả năng, kiến thức của họ trước khi đào
tạo đồng thời nắm bắt được những khó khăn mà người học đối diện để từ đó đưa ra
phương pháp đào tạo, giáo dục hợp lý. Mặt khác, phải đánh giá kiến thức, kỹ năng
mà người học đạt được sau quá trình đào tạo. Ở đây, người học được nhắc đến với
các yếu tố: Chất lượng đầu vào của người học; Quyền và nghĩa vụ của người học; Ý
thức của người học; Khả năng tự nghiên cứu của người học; Kiến thức, kỹ năng,
vốn, kinh nghiệm sau khi đào tạo để đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của Đặng Quốc Bảo
(2001): Theo Đặng Quốc Bảo, chất lượng đào tạo là kết quả cuối cùng đạt được bởi
sự tác động tích cực của các yếu tố cấu thành quá trình đào tạo. Quan niệm trên
được khái quát bởi mô hình sau:
Hình 1.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Trong đó :
Q : Chất lượng đào tạo, chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố :
20
Q
Môi trường
Giáo viên Sinh viên

Phương pháp
và phương tiện
đào tạo
Cơ sở vật chất,
tài chính
Nội dung
đào tạo
Mục tiêu đào tạo: Là kiến thức, kỹ năng mà người học đạt được sau khi tốt
nghiệp, ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả đào tạo. Mục tiêu đào tạo giúp cho
giáo viên xác định nội dung giảng dạy, mức độ kiến thức để lựa chọn phương pháp
giảng dạy hợp lý.
Phương pháp đào tạo, phương tiện phục vụ đào tạo: Thực tế quá trình đào
tạo là sự kết hợp chủ yếu của hoạt động dạy và học, phương pháp đào tạo là sự lựa
chọn về việc phối hợp giữa phương pháp dạy và phương pháp học, yếu tố này giữ
vai trò quyết định đến chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, hoạt động đào tạo muốn
thực hiện tốt thì đòi hỏi phải có sự liên kết giữa phương pháp đào tạo và phương
tiện phục vụ đào tạo.
Giáo viên: Những tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, sự tâm huyết với nghề,
kiến thức chuyên môn, tác phong, lối sống của giáo viên là những yếu tố giữ vai trò
quyết định trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo. Các tiêu chuẩn trên càng tốt thì
quá trình dạy và học càng hiệu quả, dẫn đến chất lượng đào tạo càng cao và ngược
lại.
Sinh viên: là nhân tố trung tâm của hoạt động đào tạo; kiến thức trước khi đào
tạo, nhận thức, khả năng, thái độ học tập của người học tác động mạnh mẽ đến chất
lượng đào tạo. Nếu tất cả những yếu tố trên là tốt thì chất lượng đào tạo càng được
nâng cao và ngược lại.
Nội dung đào tạo: Nội dung đào tạo toàn khóa học ở mỗi trình độ của từng
ngành đào tạo được thể hiện thông qua chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo
gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian giữa lý
thuyết với thực hành. Sự phù hợp và logic trong chương trình đào tạo sẽ giúp cho

quá trình đào tạo được vận hành một cách thuần thục, tăng cường khả năng nhìn
nhận vấn đề cho người dạy cũng như người học qua đó góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo.
Cơ sở vật chất, tài chính phục vụ đào tạo: Bao gồm phòng học lý thuyết,
phòng thực hành, xưởng thực tập, thư viện và các phương tiện phục vụ hoạt động
dạy học và học, các yếu tố này càng hiện đại thì chất lượng đào tạo càng tốt.
21
Các tiêu chí kiểm định và điểm chuẩn cho từng tiêu chí kiểm định đánh giá
chất lượng của trường cao đẳng nghề của Bộ lao động thương binh xã hội hiện nay
(Quyết định số 02/2008/QĐ-BLĐTBXH), cụ thể như sau:
1) Mục tiêu và nhiệm vụ 6 điểm
2) Tổ chức và quản lý 10 điểm
3) Hoạt động dạy và học 16 điểm
4) Giáo viên và cán bộ quản lý 16 điểm
5) Chương trình, giáo trình 16 điểm
6) Thư viện 6 điểm
7) Cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học 14 điểm
8) Quản lý tài chính 10 điểm
9) Các dịch vụ cho người học nghề 6 điểm
Tổng số điểm đánh giá tối đa cho tất cả các tiêu chí là 100
Từ các mô hình nghiên cứu trên đây, các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo
nghề của Bộ lao động thương binh xã hội và cơ sở lý thuyết nêu trên, ta có thể thấy
những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề tại trường Cao đẳng nghề Tp
Hồ Chí Minh thông qua sự đánh giá của người học là : Chương trình đào tạo; Cơ sở
vật chất; Đội ngũ giảng viên; môi trường học tập; Dịch vụ hỗ trợ; Người học nghề.
Nhưng để biết chính xác trong những nhân tố nêu trên, những nhân tố ảnh hưởng
chính thức và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới chất lượng đào tạo nghề tại
Nhà trường thì ta cần phải lập mô hình nghiên cứu và tiến hành phân tích định
lượng thì mới có được sự đánh giá sát đáng. Trước tiên, tác giả xin đề xuất mô hình
các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề như sau (Hình 1.4):

1/ Chương trình đào tạo:
- Thông tin về chương trình đào tạo được thông báo đầy đủ cho người học.
- Các môn học được phân bổ hợp lý.
- Các môn học bổ sung kiến thức lẫn nhau.
- Thời lượng dành cho lý thuyết được đảm bảo.
22
- Nội dung lý thuyết được đảm bảo là cơ sở cho việc vận dụng vào thực hành.
- Thời lượng dành cho thực hành được đảm bảo.
2/ Cơ sở vật chất đào tạo:
- Phòng học đảm bảo âm thanh, ánh sáng và độ thông thoáng.
- Nguồn tài liệu trong thư viện đáp ứng tốt nhu cầu học tập của người học.
- Bạn dễ dàng tiếp cận các tài liệu học tập và tham khảo tại thư viện.
- Thiết bị thực hành, phòng thí nghiệm phục vụ tốt.
- Nhà trường có đầy đủ trang thiết bị phương tiện hỗ trợ giảng dạy và học tập.
Mô hình nghiên cứu
Hình 1.4 Mô hình đề xuất các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề
3/ Đội ngũ giáo viên:
- Giáo viên có sự chuẩn bị bài tốt.
- Kiến thức của giáo viên vững vàng về nghề được phân công giảng dạy.
- Thường xuyên cập nhật thông tin mới trong bài giảng.
- Bồi dưỡng cho người học năng lực tự học.
- Giáo viên có nhiều kinh nghiệm thực tế .
23
Chương trình đào tạo
Cơ sở vật chất
Đội ngũ giảng viên
Môi trường học tập
Dịch vụ hỗ trợ
Người học nghề

Chất lượng đào
tạo nghề
- Chủ động dẫn dắt người học vận dụng thực tế.
- Luôn phát huy tính tích cực của người học.
- Phương pháp giảng dạy sinh động thu hút.
- Sẵn sàng giúp đỡ người học trong học tập.
4/ Môi trường học tập:
- Thể hiện thân thiện với người học.
- Nơi đào tạo luôn có trách nhiệm đối với người học.
- Thường xuyên tìm hiểu đáp ứng tâm tư nguyện vọng của người học.
- Bầu không khí trong hoạt động rèn luyện và học tập được tâm thế tích cực
cho người học.
5/ Chất lượng dịch vụ hỗ trợ:
- Hoạt động tư vấn học tập, nghề nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu tốt nhu cầu tìm
hiểu và lựa chọn của người học.
- Nhân viên các phòng, khoa, ban có thái độ phục vụ tốt.
- Hoạt động tư vấn và chăm sóc sức khỏe tốt.
- Dịch vụ ăn ở đáp ứng tốt nhu cầu của người học.
6/ Người học nghề:
- Kiến thức trước khi học đảm bảo đáp ứng được yêu cầu trong đào tạo nghề.
- Có sự nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp.
- Người học luôn có thái độ học tập tích cực.
- Người học có ý thức tự học cao.
+ Các giả thiết nghiên cứu: tương ứng với mỗi nhân tố là một giả thiết nghiên cứu:
N1: Chương trình đào tạo sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo.
N2: Cơ sở vật chất đào tạo sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo.
N3: Đội ngũ giảng viên sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo.
N4: Môi trường học tập sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo.
N5: Chất lượng dịch vụ hỗ trợ sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo.
N6: Người học nghề sẽ có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng đào tạo.

24
+ Việc đo lường, đánh giá chất lượng đào tạo nghề: Chất lượng đào nghề được nhìn
nhận, đánh giá dưới nhiều góc độ và các tiêu chí khác nhau:
Kirkpatrick (1975) (được trích bởi Nguyễn Thị Đang 2011): Giới thiệu mô
hình bốn mức đánh giá hiệu quả đào tạo đó là sự phản hồi của người học, nhận thức
của người học, hành vi của người học trước và sau khi được đào tạo và kết quả đào
tạo.
Luật dạy nghề (2006) quy định các tiêu chí để đo lường, đánh giá chất lượng
đào tạo nghề bao gồm: Mục tiêu và nhiệm vụ; tổ chức và quản lý; các hoạt động dạy
và học; cơ sở vật chất; chương trình; quản lý tài chính và các dịch vụ cho người
học.
Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labor
Organization)- Một tổ chức có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo nghề, chất
lượng đào tạo nghề của một cơ sở đào tạo được đánh giá theo tiêu chuẩn ILO-500
(ILO-500 điểm, đề xuất cho các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Malaysia, Singapore, gồm 9 tiêu chuẩn với 100 tiêu chí; khi đánh giá mỗi tiêu chí
nếu đạt cho 5 điểm, không đạt cho 0 điểm, tổng số điểm tối đa là 500 điểm) như
sau(được trích bởi Nguyễn Thị Đang 2011):
1. Vai trò, chức năng, mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà trường : 25 điểm.
2. Tổ chức và quản lý: 45 điểm.
3. Chương trình đào tạo: 135 điểm.
4. Đội ngũ nhân sự : 85 điểm.
5. Thư viện và học liệu: 25 điểm.
6. Tài chính: 50 điểm.
7. Khuôn viên nhà trường và cơ sở hạ tầng: 40 điểm.
8. Xưởng thực hành, thiết bị và vật tư: 60 điểm.
9. Dịch vụ người học: 35 điểm.
Cách đánh giá của ILO chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, chất lượng đào tạo nghề
phụ thuộc vào nhiều nhân tố, nhiều điều kiện, trong đó chương trình đào tạo, đội
ngũ giáo viên, xưởng, trang thiết bị dạy và học, dịch vụ hỗ trợ là những yếu tố quan

25

×