Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.99 KB, 25 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ
quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ
của mình.
Trong những năm qua, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã
đem lại những kết quả nhất định. Thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối với người có
thu nhập cao góp phần tạo nguồn thu ngày càng đáng kể cho ngân sách nhà nước,
góp phần đảm bảo công bằng xã hội, góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo
đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị.
Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng
tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được
mức sống cải thiện hơn. Việc áp dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
trong nhiều năm qua đã làm cho người dân “quen” dần với loại thuế này. Tâm lí
quen thuộc cùng với những hiểu biết ngày càng nhiều hơn về thuế TNCN cũng như
trách nhiệm công dân trong việc thực thi nghĩa vụ thuế sẽ góp phần đáng kể cho
quá trình triển khai hiệu quả Luật thuế TNCN. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm
quý trong việc thực thi thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ giúp cho các
cơ quan quản lí nhà nước trong việc quản lí thu nhập và quản lý quy trình thu nộp
thuế, đảm bảo hạn chế phát sinh tiêu cực trong quá trình áp dụng Luật thuế TNCN
hiện nay.
1
B. NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Lần
đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng như một hình
thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và
được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó thuê thu nhập cá nhân đã nhanh
chóng được lan truyền sang các nước công nghiệp khác như: Nhập(1887), Mỹ
(1913), Pháp (1914), Liên Xô (1922), Trung Quốc (1936)… Các quốc gia có nền


kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc
thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực
hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được thu
nhập dưới bất cứ hình thái nào(hiện vât hay giá trị) và bất kể từ nguồn nào(do lao
động hay đầu tư…) đều phải trích một phần từ thu nhập đó để nộp cho Nhà nước
dưới dạng thuế thu nhập.
Như vậy, có thể khái niệm thuế Thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh
vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm).
2. Sự cần thiết xây dựng luật thuế Thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân ra đời bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo sự công bằng
trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện kinh tế thị
trường vì thu nhập của một cá nhân hay tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào việc cung
cấp các yếu tố sản xuất như vốn, lao động, công nghệ… Trong điều kiện có sự
phân hóa giàu nghèo khi phân phối thu nhập là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, cần áp
2
dụng thuế thu nhập cá nhân để thực hiện điều tiết thu nhập nhằm rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội. Mặc khác, trong hệ thống thuế thông thường áp dụng
hai loại thuế: thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực
thu, tức là đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế theo khả năng của họ. Vì
thế, thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng theo chiều dọc. Nếu chỉ áp dụng các
loại thuế gián thu thì mới thực hiện được công bằng theo chiều ngang tức là tất cả
mọi người đều phải nộp thuế như nhau không phân biệt khả năng của họ. Để đảm
bảo sự công bằng theo cả chiều ngang và chiều dọc trong chính sách thuế khóa thì
cần thiết phải ban hành thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập theo khả năng
đóng góp của người nộp thuế.
Do nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước, sự giảm dần của thuế
quan do yêu cầu tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế của các nước tư bản
chủ nghĩa đòi hỏi phải tăng nguồn thu tài chính nhà nước thông qua các loại thuế

khác như thuế hàng hóa, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân được sử dụng như một công cụ linh hoạt đểu điều tiết
vĩ mô, kích thích tiêu dùng hoặc đầu tư để phát triển kinh tế. Một trong những lý
thuyết căn bản của Kenyes về tính hữu dụng giảm dần của thu nhập cho rằng mức
thu nhập càng cao thì tính hữu dụng của nó càng thấp. Do vậy, để tăng phúc lợi xã
hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của những đối tượng có thu nhập thấp hơn.
Bên cạnh đó, thông qua chính sách miễn giảm, ưu đãi, thuê thu nhập có thể
tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện
mục tiêu điều chỉnh kinh tế của Nhà nước.
3. Vai trò của thuế Thu nhập cá nhân
3.1. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của kinh tế thị trường là sự phân phối không
công bằng và đi liền với nó là quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Thuế
thu nhập cá nhân là một hình thức thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập nhận
được của từng cá nhân. Thông qua đánh thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước thực
3
hiện điều tiết thu nhập của người cao, nhờ đó sang bằng tương đối sự chênh lệch về
thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội.
3.2. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng cho
Ngân sách nhà nước
Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thu quan trọng của Ngân sách Nhà
nước, loại thuế này đóng vai trò rất quan trọng, đôi khi nó còn được nói so sánh
hình ảnh là “nữ hoàng của các loại thuế”. Hiện nay, ở các nước phát triển tỷ trọng
thu ngân sách của thuế TNCN chiếm rất cao từ 30 – 40%, có nước trên 50% như
Mỹ, Nhật, Canada, Australia, Niuzilan…, các nước đang phát triển chiếm từ 15 –
30% như Thái Lan, Malaixia, Philipin…
Ở nước ta thuế thu nhập cá nhân tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu
NSNN, song trong điều kiện phát triển kinh tế và toàn cầu hóa, thu nhập của cá
nhân có xu hướng tăng nhanh, nên tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu
NSNN sẽ có khả năng tăng lên.

3.3. Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thuế TNCN không chỉ là công cụ huy động nguồn thu NSNN, thực hiện
công bằng xã hội, mà còn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ở mỗi
thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau, tùy theo yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế
mà chính sách thu nhập cá nhân ở mỗi nước được xây dựng phù hợp.
M.Keynes là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã đề xướng tư tưởng can
thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế để đạt được “cầu hiệu quả”
thông qua chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Ông cho rằng, tồn
tại một quy luật tâm lý cơ bản mà theo ông, con người có xu hướng tăng tiêu dùng
của mình theo tốc độ tăng của thu nhập nhưng không phải tăng theo cùng mức tăng
của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc độ tiết kiệm tăng nhanh
hơn. Đây chính là nguyên nhân làm cho cầu không đạt hiệu quả. Bởi vậy, cần thiết
phải có chính sách thuế đánh vào thu nhập đưa vào tiết kiệm để kích thích tiêu
dùng và tăng đầu tư phát triển kinh doanh. Theo ông, khuynh hướng tiêu dùng ở
4
người có thu nhập thấp sẽ cao hơn ở người có thu nhập cao. Vì vậy, nhà nước phải
đánh thuế thu nhập theo kiểu thuế suất lũy tiến để phân phối lại thu nhập của
những người có thu nhập cao đưa vào tiết kiệm. Sự tiết kiệm thừa cần được thu
bằng thuế để định hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế.
4. Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế Thu nhập cá nhân
4.1. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân
a/ Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
Mặc dù cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, nhưng trong thực tế
không phải toàn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu
nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Thu
nhập chịu thuế là phần thu nhập quy định cơ sở đánh thuế thu nhập. Mọi hệ thống
thu nhập dù đánh trên từng loại thu nhập hay trên tổng thu nhập nói chung đều tính
thuế trên thu nhập ròng để phản ánh đúng đắn khả năng kinh tế của người nộp
thuế.
Vì vậy, thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập

nhận được sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế.
b/ Đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến
Đặc trưng quan trọng nhất của thuế thu nhập cá nhân là áp dụng biểu thuế
lũy tiến, tức là mức thuế tăng lên một cách lũy tiến theo mức thu nhập tăng lên.
Thuế suất lũy tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo “khả
năng nộp thuế” của cá nhân. Tuy nhiên trong thực tế để tính được mức lũy tiến đó
là điều không đơn giản.
Xung quanh vấn đề áp dụng nguyên tắc lũy tiến đối với thuế thu nhập cũng
có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính lũy tiến của thuế thu nhập
cũng cần có giới hạn và khi áp dụng nguyên tắc lũy tiến cũng cần phân biệt nguồn
gốc của các loại thu nhập để phát huy vai trò điều chỉnh của thuế thu nhập. Nhưng
cũng có quan điểm cho rằng làm như vậy sẽ gây phức tạp trong việc thiết kế thuế
5
suất, vì không nên dùng các loại thuế khác nhau cho thu nhập phát sinh từ các
nguồn thu nhập khác mà nên áp dụng các khoản miễn, giảm thuế để đảm bảo chức
năng của thuế thu nhập hoặc áp dụng thuế lũy tiến từng phần.
4.2. Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân
Về lý thuyết, tồn tại ba mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân:
a/ Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập
Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập là phương pháp áp dụng
một thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát sinh. Tương ứng với mỗi
nguồn thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí được trừ của từng loại thu
nhập( nhiều trường hợp chi phí có thể được trừ hoặc không được trừ) và gán cho
mỗi loại thu nhập đó các mức thuế suất phân biệt. Số thuế phải nộp là tổng hợp số
thuế thu nhập mà người nộp thuế phải nộp theo từng nguồn.
Các nhà kinh tế cho rằng, phương pháp này khó trốn thuế hơn, vì nó thu
“theo sát từng nguồn thu nhập”.
b/ Đánh thuế trên tổng thu nhập
Phương pháp này tiến hành thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất cả các
khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập và chi phí tạo

ra thu nhập. Tổng thu nhập và tổng chi phí sẽ được xem xét trên một tổng thể và
đánh thuế trên phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Việt phân ra
từng loại thu nhập không có ý nghĩa.
Do đó ưu điểm là đơn giản và có thể áp dụng được biểu thuế lũy tiến khi
đánh thuế nên phương pháp này đang được áp dụng rất rộng rãi ở các nước phát
triển.
c/ Đánh thuế hỗn hợp
Thuế thu nhập cá nhân có thể được đánh theo cách kết hợp cả hai phương
pháp kể trên. Ban đầu đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập, sau đó tổng
6
hợp tất cả các nguồn lại và đánh trùm lên tổng thu nhập một mức thuế nữa. Phương
pháp này cho phép áp dụng thuế suất lũy tiến ngoài thuế suất thông thường đánh
trên từng loại thu nhập. Cách đánh thuế này đảm bảo sự chính xác nhưng lại phức
tạp khi tính toán.
5. Cơ sở xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân.
Mặc dù ở mỗi nước, Luật thuế thu nhập cá nhân được xây dựng khác nhau
tùy theo tính đặc thù của từng nước. Bởi vậy, giữa các nước sẽ có sự khác nhau
trong xác định thu nhập chịu thuế, thuế suất, miễn, giảm thuế… Tuy nhiên, khi xây
dựng chính sách, luật thuế thuế thu nhập cá nhân các quốc gia đều quan tâm giải
quyết các vấn đề sau đây:
5.1. Xác định thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong ký tính thuế là tổng thu nhập trừ
đi tổng các khoản được giảm trừ.
Tổng thu nhập của đối tượng nộp thuế là tổng thu nhập được xác định cơ sở
để tính thu nhập chịu thuế mà đối tượng nộp thuế đó kiếm được trong kỳ tính thuế.
Do đó, tổng thu nhập của một đối tượng sẽ không bao gồm những khoản miễn
giảm thuế. Để xác định tổng thu nhập cần phải xác định từng khoảng cấu thành
tổng thu nhập theo từng loại thu nhập cụ thể, tức là xem xét tổng thu nhập được
hình thành từ những nguồn nào.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa vào

đối tượng tính thuế. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập không đưa
vào đối tượng đánh thuế. Trong thực tế, khi xây dựng các quy định tính thuế cần
xác định rõ ràng những khoản nào nằm trong tổng thu nhập chịu thuế và những
khoản nào nằm trong tổng thu nhập không chịu thuế. Muốn xác định thu nhập chịu
thuế chính xác cần phải xem xét các khoản sau đây:
- Nguồn gốc của thu nhập:
+ Thu nhập từ lao động
+ Phúc lợi của người làm công
7
+ Thu nhập từ hoạt động kinh doanh
+ Thu nhập từ vốn, tài sản hay gọi là thu nhập từ đầu tư
+ Các khoản thu nhập bất thường khác
- Đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập
5.2. Xác định các khoản thu nhập miễn trừ
Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế thu nhập cá nhân là có tính
tới hoàn cảnh của từng cá nhân cần phải được xem xét khi xác định thu nhập chịu
thuế. Các khoản được giảm trừ có thể được thực hiện dưới hai dạng: miễn trừ cá
nhân và miễn trừ tiêu chuẩn.
Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực tế
phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Đối với phương pháp này, một số
khoản chi phí kê khai sẽ đòi hỏi phải có chứng từ chứng minh, một số khoản được
thực hiện theo phương pháp định mức và một số khoản có thể được thực hiện theo
phương pháp “giới hạn tối đa”. Thông thường, có hai loại giảm trừ cá nhân là:
giảm trừ có tính chất kinh tế và giảm trừ có tính chất xã hội.
Phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn tuy không công bằng vì mức chi phí cần
thiết được cân bằng giữa các đối tượng nộp thuế nhưng lại đảm bảo cho thuế thu
nhập cá nhân dễ tính toán, đơn giản hơn trên cơ sở đó tiết kiệm chi phí hành thu và
chi phí chấp hành, tuân thủ luật thuế.
5.3. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân
Đối với thuế thu nhập cá nhân, thông thường người ta áp dụng biểu thuế suất

lũy tiến. Có hai loại thuế suất lũy tiến là lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần
(còn gọi là thuế suất đơn nhất kết hợp với ngưỡng tính thuế). Mỗi loại thuế suất lũy
tiến có hiệu quả điều tiết khác nhau, trong đó biểu thuế lũy tiến từng phần được coi
là đảm bảo công bằng hơn và không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của thuế lớn hơn
mức tăng của căn cứ tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế.
8
5.4. Phương pháp quản lý thu nộp thuế
Thuế thu nhập có thể được thu theo phương pháp khấu trừ tại nguồn hoặc
phương pháp thu trực tiếp.
- Phương pháp khấu trừ tại nguồn được áp dụng cho các khoản thu nhập phát sinh
có tính chấp ổn định như thu nhập từ lương, tiền công. Theo phương pháp này,
người hoặc cơ quan chi trả thu nhập phải tiến hành khấu trừ trước số thuế phải nộp
của cá nhân để nộp cho cơ quan thuế, sau đó mới tiến hành chi trả phần còn lại cho
người được hưởng. Cơ quan hoặc người được ủy nhiệm khấu trừ thông thường
được trích lại một tỷ lệ thù lao nhất định song phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập trước khi chi trả thu nhập.
- Phương pháp thu trực tiếp: Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào phần thu nhập
của cá nhân, do đó để thuế thu được sát đúng với mức thu nhập của từng cá nhân
thì cần để cho người nộp thuế tự khai thu nhập của mình. Đó là cơ sở ra đời
phương pháp thu trực tiếp. Phương pháp thu trực tiếp được thực hiện trên cơ sở
người nộp thuế tự kê khai thu nhập và gửi cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế xác định
số thuế phải nộp dự trên số liệu kê khai về thu nhập, về các khoản được phép khấu
trừ, giảm trừ … kết hợp với sự thẩm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Phương pháp
này tuy phức tạp nhưng đảm bảo tính chính xác vì khả năng tổng hợp nhiều nguồn
thu nhập và gắn với hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế.
II/ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI
VIỆT NAM
1. Những đặc trưng cơ bản của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện nay
Thuế thu nhập là sắc thuế trực thu được ban hành nhằm phân phối một phần thu
nhập của các cá nhân, doanh nghiệp cho nhà nước. Thuế thu nhập thường được

phân chia thành hai loại là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập doanh nghiệp có đối tượng chịu thuế là thu nhập từ hoạt động kinh
9

×