Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.52 KB, 68 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày
càng đầy đủ thì nhu cầu của con người ngày càng cao. Các quốc gia trên thế
giới đều cố gắng tạo cho dân cư nước mình một cuộc sống no đủ cả về vật
chất và tinh thần. Các quốc gia cũng quan tâm đến nhau hơn cùng nhau giải
quyết các vấn đề kinh tế và xã hội. Toàn cầu hoá trở thành một xu thế tất yếu
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển.
Việt Nam cũng hội nhập vào nền kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu
hoá và không ngừng đổi mới để theo kịp sự phát triển của loài người. Từ khi
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề phát triển kinh tế ngày càng
được quan tâm. Hàng hoá của chúng ta đã có mặt ở rất nhiều quốc gia trên thế
giới và cũng có nhiều nước biết đến Việt Nam như một điểm đến đầy hấp
dẫn.
Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước ngành dệt may luôn đóng một
vai trò quan trọng. Đây là một trong bảy ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động nhàn rỗi
mang về nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Ngành dệt may đã thể hiện được
lợi thế cạnh tranh của nước ta với một nguồn lao động trẻ dồi dào, giá nhân
công rẻ và chi phí sản xuất tương đối thấp. Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất
ngành còn đặt ra mục tiêu phải mở rộng thị trường tiêu thụ, đa dạng hoá thị
trường, giải quyết được đầu vào và đầu ra cho sản phẩm. Ngày nay khi Việt
Nam đã là thành viên của WTO sẽ đem lại cho dệt may nhiều cơ hội mới
nhưng ngành cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Toàn ngành đang
nỗ lực hết sức mình để dệt may Việt Nam có thể cất cánh bay lên một tầm cao
mới.
1
Công ty Cổ phần may Sông Hồng đã có hơn 20 năm công tác xuất khẩu
dệt may ra thị trường thế giới.Trong những năm qua Công ty đã có rất nhiều
nỗ lực và cố gắng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ra thế giới. Hiện nay
sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều quốc gia lớn trên thế giới hàng năm


đem về nguồn thu ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Những thị trường lớn của
Công ty là Mỹ, Nhật, EU trong đó Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm đa phần
kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Năm 2006 kim ngạch xuất vào thị trường
Mỹ đạt 17.892.221,62 USD chiếm 45,33% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Công ty. Nhận thấy đây là một thị trường đầy tiềm năng với Công ty Cổ
phần may Sông Hồng nên em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu
hàng dệt may của Công ty Cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ” cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của thị trường Mỹ đối với sản phẩm may công ty
Cổ phần may Sông Hồng
Chương II: Thực trạng xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ của
Công ty cổ phần may Sông Hông giai đoạn 1995 – 2007
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hang dệt may của
công ty cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ
2
CHƯƠNG I :VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM
MAY CÔNG TY CỔ PHẦN MAY SÔNG HỒNG
I. Tổng quan về công ty Cổ phần may Sông Hồng
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty Cổ phần May Sông Hồng tiền thân là Xí nghiệp May 1-7 (thành
lập năm 1988). Xí nghiệp trực thuộc sự quản lý của Công ty Dịch vụ Thương
nghiệp Nam Định, chủ yếu là gia công xuất khẩu may mặc.
Những năm đầu, cơ sở vật chất của xí nghiệp còn rất nghèo nàn. Mặt
hàng lúc đó chủ yếu là đồ bảo hộ lao động, xuất chủ yếu sang Liên Xô cũ và
Đông Âu. Cán bộ quản lý cũng làm việc theo kiểu bao cấp, thiếu sự linh hoạt,
nhạy bén với thị trường.
Ngày 24 tháng 11 năm 1992 xí nghiệp đổi tên thành Công ty May
Sông Hồng. Từ năm 1992 đến năm 1997, những cố gắng của công ty đã
mang lại nhiều kết quả bất ngờ: sản phẩm của công ty bắt đầu có uy tín trên

thị trường xuất khẩu, nhiều khách hàng khó tính nhất đã ký kết làm ăn lâu
dài với công ty…
Tháng 7 năm 2004 vừa qua, công ty đã chuyển thành Công ty Cổ phần
May Sông Hồng với 100% vốn là do các cổ đông đóng góp. Đây là một bước
ngoặt đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của Công ty. Rất nhiều thương
hiệu may mặc nổi tiếng thế giới đã đặt hàng sản xuất với số lượng lớn tại
Sông Hồng như: GAP, Old Navy, Timberlands, JcPenny, Diesel, Spyder,
Champion, Sag Harbor, Liz Claiborne, Reset, Cabela’s, Benetton, C&A….
Tháng 10 năm 2005 Công ty đã mở rộng quy mô sản xuất về thị trấn
Xuân Trường huyện Xuân trường với diện tích hơn 7 ha.
Tháng 11 năm 2006, Công ty đã mở một văn phòng đại diện tại Hồng
Kông với mục tiêu nhận trực tiếp đơn hàng từ khách hàng mà không qua các
3
hệ thống trung gian (trực tiếp lo từ đầu vào là nguyên vật liệu,thiết kế,… để
cuối cùng đầu ra một sản phẩm hoàn chỉnh) gọi tắt là hàng FOB, xu hướng sẽ
bỏ dần kiểu truyền thống là gia công cố hữu.
Chức năng chính của công ty là gia công may mặc các loại áo jacket, quần
Short và sản xuất chăn ga gối đệm cao cấp, siêu cao cấp đáp ứng nhu cầu theo
đơn đặt hàng xuất khẩu trong và ngoài nước
2. Chứ năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức:
Công ty cổ phần may Sông Hông được thành lập vào năm 1988.Tổng
giám đốc của công ty là ông Bùi Đức Thịnh.Diện tích của công ty (theo năm
2007) là160.000m2.Trong đó đến 90.000m2 là diện tích nhà xưởng.Công ty
có 10 xưởng may,trên 6.200 thiết bị may và các thiết bị chuyên dùng cho sản
xuất bông,chăn,giặt thuộc các thế hệ thiết bị mới nhâtSố công nhân của công
ty theo năm 2007 là 5.700 người.Công ty có các loại sản phẩm may mặc
chính : áo jacket, gilê, lông vũ các loại, quần, quần short nam nữ, trẻ em, áo
vest nữ, váy.Các sản phẩm của công ty chủ yếu để xuất khẩu sang nước ngoài
và các thị trường xuất khẩu chính là : Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, Hàn
Quốc,Colombia.

4
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó Tổng
Giám đốc
điều hành
May
Đại diện lãnh
đạo Hệ thống
quản lý chất
lượng và Hệ
thống quản lý
TNXH
Giám đốc
Điều hành
Sợi kiêm
Giám đốc
công ty CP
Dệt May
SH
Giám đốc
điều hành
Dệt
Nhuộm
Giám đôc
Điều hành
TTNĐ
Giám đốc
Điều hành
công tác
XNK

Giám đốc
Điều hành
Quản trị
NNL &
Hành Chính
Phòng Kế
hoạch thị
trường
Phòng Kỹ
thuật Đầu

Phòng Kế
toán tài chính
Phòng
xuất nhập
khẩu
Phòng Tổ
chức hành
chính
Đại diện lãnh
đạo về sức
khoẻ và an
toàn
Phòng
Thương Mại
Nhà máy
Sợi
TTTN &
KTCLSP
Nhà máy

May 1
Phòng Đời
sống
Nhà máy
May 2
Trung tâm Y
tế
Chi nhánh
công ty tại
TPHCM
Nhà máy
May 3
Nhà may
May thời
trang
Công ty CP
Dệt may
HTL
Ghi chú:
Điều hành trực tuyến
Điều hành Hệ thống quản lý Chất lượng và Hệ thống TNXH
Quản lý Vốn của CTCPM Sông Hồng tại các công ty CP thông qua người đại diện
5
II. Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường
Mỹ của Công ty cổ phần may Sông Hồng
1.Cơ sở lý luận về Xuất khẩu
1.1.Khái niệm
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ ra thị
trường nước ngoài hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho người nước ngoài ở trong
nước hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho các thuộc các khu công nghiệp, khu chế

xuất ở trong nước trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán, với mục
tiêu là lợi nhuận. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc
với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của
từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá
giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng
hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của
hoạt động ngoại thương . Nó đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển
của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu.
Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá nhưng cho
đến nay nó đã phát triển rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của
nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc
hàng hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu
đem lại lợi ích cho quốc gia nói chung và các doanh nghiệp tham gia nói
riêng.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng về không gian và thời gian. Nó có
thể diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể
được diễn ra trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. Mục
6
tiêu của xuất khẩu khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao
động quốc tế, và thực hiện mục tiêu chủ yếu quan trọng là xuất khẩu thu
ngoại tệ để nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế nước nhà bao gồm:
nhu cầu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá cho tiêu dùng và tạo thêm
nhiều công ăn việc làm.
1.2. Vai trò
Trong xu thế hội nhập và quốc tế hoá hiện nay xuất khẩu là điều kiện tồn
tại, tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia trong một trật tự chung của thế
giới. Mỗi quốc gia không thể nào có đủ các nguồn lực, các yếu tố đầu vào để
đáp ứng cho sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời một quốc gia cũng

không thể nào tự sản xuất ra tất cả các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để đáp
ứng nhu cầu của người dân trong nước. Vì vậy mà xuất hiện hình thức thương
mại quốc tế, mỗi quốc gia thông qua đó để trao đổi mua bán hàng hoá, dịch
vụ với các quốc gia khác nhằm thoả mãn nhu cầu của mình.
1.2.1 Đối với nền kinh tế toàn cầu
Đối với nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia
trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau bắt nguồn từ
hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Hoạt động xuất khẩu nó tác động đến các quốc gia tham gia vào sự phân công
lao động quốc tế. Các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất các sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ mà mình có lợi thế về nhân công, kỹ thuật, đầu vào, tài nguyên
thiên nhiên...Được gọi là lợi thế tuyệt đối hay tương đối để xuất khẩu ngược
lại sẽ nhập khẩu những sản phẩm, hàng hoá mà mình không có lợi thế tạo ra
chuyên môn hoá sản xuất. Như vậy nguồn lực của xã hội được sử dụng có
hiệu quả hơn và sản phẩm của toàn xã hội được tăng lên. Quan hệ đối ngoại
của các nước ngày càng được gắn chặt hơn và từ đó đã xuất hiện các liên kết
7
kinh tế quốc tế điển hình như: EU, ASEAN, các tổ chức kinh tế quốc tế như:
WTO, OPEC, WB.
Như chúng ta đã biết xuất khẩu hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là
hoạt động buôn bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau(quốc tế). Nó
không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ, đơn phương mà ta có cả một hệ
thống các quan hệ buôn bán trong tổ chức thương mại toàn cầu. Với mục tiêu
là tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp nói riêng cả quốc gia nói chung.
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương
và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên
toàn thế giới.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá là một trong
bốn khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và tiêu

dùng của nước này với nước khác. Có thể nói sự phát triển của của xuất khẩu
sẽ là một trong những động lực chính để thúc đẩy sản xuất.
Trước hết, xuất khẩu bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của
sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và
nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi
thế hơn thì chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuần lớn hơn.
1.2.2 Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều
khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có
bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ. Nhưng
8
hầu hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật
công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ
1.2.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước
Đối với nước ta hiện nay để thực hiện để thực hiện đường lối của Đảng
và nhà nước đến năm 2020 thực hiện xong công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
cần một nguồn vốn ngoại tệ lớn để nhập các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ
hiện đại. Ngoài những nguồn vốn viện trợ chúng ta cần phải tăng cường xuất
khẩu để đảm bảo cho khả năng thanh toán, cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế, tạo được một khối lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh
tế của nước ta trong thời kỳ mới này.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc
hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng
vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng
nguồn vốn huy động chính như sau:

+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ
+ Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận
được, song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này,
các nước đi vay phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ
phải trả sau này.
Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng
9
nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ
tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó
họ cho nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và
viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy
được khả năng sản xuất và xuất khẩu –nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành
hiện thực .
1.2.2.2 Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất
phát triển
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới
đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
các quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng
nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất
về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản
xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó
các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan
điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất

khẩu. Nó thể hiện:
+ Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều
này có thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các
ngành khác như bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy…sẽ có điều kiện phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phầnổn
10
định sản xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, mở rộng thị trường tiêu dùng của một quốc gia. Nó cho phép một quốc
gia có rthể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lương lớn hơn nhiều lần giới
hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ
không có khả năng sản xuất được.
+ Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả
sản xuất của từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển
cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu
hoá như ngày nay, mỗi loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước
thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư
và thanh toán thực hiện ở nước thứ 5. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở mỗi
quốc gia và tiêu thụ ở một quốc gia cho thấy sự tác động ngược trở lại của
chuyên môn hoá tới xuất khẩu.
Với đặc điêm quan trọng là tiền tệ sản xuất sử dụng làm phương tiện
thanh toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc
biệt với các nước đang phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì
ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về
cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
1.2.2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân
Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông
qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập

khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của
nhân dân.
11
1.2.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động
qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc
để xây dựng các mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các
mối quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng
quốc tế… ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt
động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói
chung sẽ dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của
nền kinh tế bằng hai cách:
+ Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá được
sản xuất ra.
+ Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác
động của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau.
1.2.3 Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra
thị trường quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các
doanh nghiệp. Xuất khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các
doanh nghiệp thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị
trường của mình.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của
doanh nghiệp không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có
mặt ở thị trường nước ngoài.
12

Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó
nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu… phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK
cũng như các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong
khả năng xuất khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi
thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm.
Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị
tham gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên
nhân buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng
hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá
thành của sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết
kiệm các nguồn lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được thu hút được
nhiều lao động bán ra thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân
viên và tăng thêm thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên
và tăng thêm lợi nhuận.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ
buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên
cùng có lợi.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
2.1. Các nhân tố vĩ mô
Thực chất của chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước bao gồm
một hệ thống các nguyên tắc và biện pháp thích hợp được áp dụng để điều
13
chỉnh các hoạt động ngoại thương cho phù hợp với lợi ích chung của Nhà
nước trong từng giai đoạn.
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống chính sách của Nhà nước

nó phục vụ đắc lực cho đường lối phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Nó
ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất của xã hội và sự tham gia vào nền kinh tế
quốc dân vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Chính sách thương mại quốc tế có quan hệ mật thiết với chính sáchđối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nó là công cụ có hiệu lực để thực hiện chính
sách đối ngoại mở mang quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Đồng thời chính sách đối ngoại tạo điều kiện giúp các tổ
chức kinh tế tiếp cận với thị trường khách hàng để mở rộng hoạt động thương
mại quốc tế. Đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, chính sách thương mại quốc tế
của Nhà nước ta là tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham
gia vào phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất nhập khẩu và
bảo vệ thị trường nội địa nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu kinh tế, chính trị,
xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
2.1.1 Thuế quan xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan xuất khẩu là một loại thuế đánh
vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Nó áp dụng cho hàng xuất khẩu từ nội
địa ra thị trường nước ngoài và nó làm cho giá cả hàng hoá bị đánh thuế vượt
quá giá trị trong nước hay nói một cách khác, nó làm hạ thấp tương đối mức
giá cả trong nước của hàng hóa có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả
quốc tế. Điều này phù hợp với thực tiễn thương mại của các nước nhỏ. ở
nhiều nước phát triển khi nói tới thuế quan tức là đồng nhất với thuế nhập
khẩu. Tuy nhiên ở những nước đang phát triển người ta vẫn sử dụng khá phổ
biến thuế xuất khẩu đặc biệt là đánh vào các sản phẩm truyền thống nhằm
14
tăng thêm lợi ích cho quốc gia. Ví dụ: Zambia đánh thuế đồng xuất khẩu của
mình theo các mức thuế khác nhau.
Thuế quan xuất khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho Ngân sách, nhưng nó
lại làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế cao hơn mức giá cả trong
nước. Tuy nhiên tác động của thuế quan xuất khẩu nhiều khi lại trực tiếp đưa
đến cho khả năng xuất khẩu. Do quy mô xuất khẩu của một nước thường là

nhỏ so với dung lượng của thị trường thế giới cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm
hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu
xuống so với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ làm sản lượng trong nước của
mặt hàng có thể xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất
lợi cho những mặt hàng này. Trong một số trường hợp, việc đánh thuế xuất
khẩu làm cho khối lượng xuất khẩu giảm đi nhiều mà vẫn có lợi cho nước
xuất khẩu, nếu như họ có tác động đáng kể đến giá quốc tế. Ví dụ: có sự độc
quyền việc xuất khẩu sâm của Triều Tiên.
Như vậy, thuế xuất khẩu sẽ làm giảm lượng cung quá mức trong nước
đối với hàng có thể xuất khẩu, đồng thời chúng sẽ tác động đến hoạt đông
thương mại khác cũng như phân phối lại lợi ích. Vì vậy Nhà nước tuỳ theo
những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu hay không khuyến khích xuất
khẩu mà có biểu thuế khác nhau do đó nó tác động rất lớn đến các mặt hàng
xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu.
2.1.2 Hạn ngạch
Các nước thường áp dụng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước. Ví
dụ: hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ, EU nó ảnh
hưởng đến lượng hàng xuất khẩu của nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Để đảm bảo cho mục tiêu phát triển của các ngành xuất khẩu mũi nhọn Nhà
nước thường phải đàm phán để nâng cao số lượng hàng hoá trong hạn ngạch
15
hoặc xoá bỏ hạn ngạch. Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số
lượng còn giá trị của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất
khẩu sang hoặc nhập khẩu từ một thị trường nhất định. Ví dụ như Nhà nước
có thể hạn chế mức nhập khẩu xe hơi Nhật ở mức tối đa 100.000 xe trong
một năm. Như vậy hạn ngạch nó hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời nó
cũng ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Do mức cung thấp giá cân bằng
sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Như vậy hạn ngạch tương đối
giống với thuế nhập khẩu. Giá hàng nhập nội địa đối với người tiêu dùng tăng
lên và chính giá cao này cho phép các nhà sản xuất nội địa kém hiệu quả sản

xuất ra một sản lượng cao hơn so với điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch
cũng dẫn tới sự lãng phí của xã hội giống như đối với thuế nhập khẩu.
Xét về ý nghĩa bảo hộ hạn ngạch cũng có tác động như thuế quan. Hạn
ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay
thế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với chính phủ và các nhà doanh
nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu. Đối với thuế quan
lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung cầu và
thường không thể biết trước được. Như vậy xét về mặt bảo hộ không có sự
khác biệt chủ yếu nào giữa thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên sự tác động
của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai mặt. Mức
thuế quan tối thiểu ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chính phủ, có thể cho
phép giảm những loại thuế khác và do đó nó bù đắp được một phần nào cho
người tiêu dùng trong nước. Một hạn ngạch nhập khẩu lại đưa lại lợi nhuận có
thể rất lớn cho những người may mắn xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn
ngạch. Vì vậy thường có sự "chạy chọt" và hối lộ để xin được hạn ngạch nhập
khẩu. Sự khác biệt thứ hai là hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy
nhất trong nước thành một doanh nghiệp độc quyền có thể đặt mức giá bán
cao để họ thu lợi nhuận tối đa.
Từ sự khác nhau đó các nhà kinh tế nhìn nhận nói chung hạn ngạch có
16
hại nhiều hơn thuế quan. Nhưng theo họ có thể giải quyết bằng cách là chính
phủ thực hiện bán đấu giá giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch thì sẽ khắc
phục được tình trạng nói trên.
Hạn ngạch nhập khẩu thường được quy định theo một loại sản phẩm đặc
biệt hay sản phẩm và thị trường đặc biệt. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch
nhập khẩu chỉ áp dụng với 4 loại hàng: ô tô 12 chỗ ngồi, xe 2 bánh gắn máy,
kinh kiện điện tử dạng LKD, SKD, nguyên liệu phụ liệu sản xuất thuốc lá.
Để quản lý nhập khẩu các nước cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn
ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và thời gian nhất
định. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy định đối với mặt

hàng gạo.
2.1.3 Trợ cấp xuất khẩu
Bên cạnh các công cụ nhằm hạn chế nhập khẩu còn có những công cụ
dùng để nâng đỡ hoạt động xuất khẩu. Chính phủ có thể áp dụng các biện
pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu
trong nước. Bên cạnh đó Chính phủ còn có thể thực hiện một khoản cho vay
ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm
do nước mình sản xuất ra, và để xuất khẩu ra bên ngoài. Đây chính là các
khoản tín dụng "viện trợ" mà Chính phủ các nước công nghiệp phát triển áp
dụng, khi cho các nước đang phát triển vay (thường có kèm theo các điều kiện
chính trị).
Giả sử để nâng đỡ một ngành sản xuất nào đó, Chính phủ sẽ trợ cấp trực
tiếp một khoản tiền nhất định cho bộ phận sản phẩm được đem vào xuất khẩu.
Khi ấy các nhà sản xuất trong nước sẽ thu lợi về chính khoản tiền trợ cấp đó.
Nhưng tác động của việc trợ cấp sẽ lan tràn sang các khâu khác. Cụ thể là:
- Mức cung thị trường nội địa bị giảm do giảm quy mô xuất khẩu, giá cả thị
17
trường tăng lên, người tiêu dùng trong nước sẽ bị thiệt một khoản tiền nhất định.
- Chi phí ròng của xã hội phải bỏ ra để bảo hộ việc khuyến khích xuất
khẩu gây thiệt hại cho xã hội gồm có chi phí nội địa do sản xuất thêm nhiều
sản phẩm để xuất khẩu (chi phí cận biên nội địa tăng lên), đồng thời gồm cả
chi phí do giảm mức tiêu dùng trong nước. Lưu ý là lợi ích mà nhà sản xuất
thu được nhỏ hơn chi phí mà xã hội phải bỏ thêm. Như vậy là trợ cấp xuất
khẩu đưa đến cái hại nhiều hơn là cái lợi. Nhưng trong thực tế nó vẫn được sử
dụng để phục vụ cho một mục đích cụ thể nào đó. Bởi vậy cần phải cân nhắc
thận trọng khi áp dụng các công cụ này.
2.1.4 Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu là một chương trình kinh tế quan trọng của mỗi
nước. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có những chính sách và biện

pháp hữu hiệu để các nhà kinh doanh thu được lợi nhuận khi hướng hoạt động
kinh doanh ra thế giới.
Điều kiện cần thiết đầu tiên là duy trì tỷ giá hối đoái phù hợp để cho các
nhà sản xuất kinh doanh thương mại trong nước khi bán các sản phẩm, dịch
vụ của họ ra thị trường thế giới. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển
thực hiện chiến lược xuất khẩu (sản xuất hướng về xuất khẩu) cũng như ở
Việt Nam trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá thường kỳ để đạt được
mức tỷ giá cân bằng được thị trường chấp nhận và sau đó duy trì giá tương
quan với chi phí và giá cả đang bị lạm phát ở trong nước.
Thứ hai, nếu chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh hướng ra thị
trường thế giới, thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản xuất cho
thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ
đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và tránh quy định hạn ngạch số
18
lượng nhập khẩu, các nhà sản xuất kinh doanh thường đầu tư vào lĩnh vực có
lợi nhất cho nên lợi nhuận sản xuất thay thế nhập khẩu phải giữ ở mức độ phù
hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan
không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thấp nhất đối với
các mặt hàng.
Thứ ba, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chính sách
đẩy mạnh xuất khẩu phải duy trì giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất
trong nước ở mức độ phản ảnh sự khan hiếm của chúng. Nguyên tắc cơ bản
là xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều nhất yếu tố sản xuất có sẵn của
nền kinh tế. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp bất cứ thành phần nào của
nền kinh tế quyết định đầu tư hay sản xuất phù hợp với nguyên tắc đó thì
giá cả tương đối họ trả cho lao động, vốn, đất đai không được quá chênh
lệch với giá được hình thành bởi những lực lượng thị trường cạnh trên cơ
sở quan hệ cung cầu các nguồn lực đó. Nếu lao động dồi dào thì tiền lương
và các chi phí khác về nhân công phải thấp, còn vốn khan hiếm thì giá phải
cao đối với nhà đầu tư.

2.2. Các nhân tố vi mô
2.2.1 Tiềm lực tài chính
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua
khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh,
khả năng phân phối (đầu tư) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có
hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các
chỉ tiêu:
- Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
- Vốn huy động
- Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận
19
- Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn
- Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
2.2.2 Tiềm năng con người
Trong kinh doanh (đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu) con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để
bảo đảm thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn
đúng cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ
thuật công nghệ… một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội.
2.2.3 Trình độ tổ chức quản lý
Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những liên kết chặt chẽ với
nhau hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của
mình thì đồng thời phải đồng thời phải đạt tới một trình độ tổ chức, quản lý
tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng
hợp, bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ
phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp.
2.2.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có
thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xưởng… Nếu doanh nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin

cũng như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện
và có hiệu quả.
2.2.5 Các nhân tố khác
Các yếu tố xã hội: hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một
điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội có ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy
20
để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này có thể nghiên cứu ảnh hưởng của
yếu tố văn hoá, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng.
Nền văn hoá tạo nên phong cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết
định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho các nhu cầu mong muốn được
thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy, văn
hoá là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan
tâm tìm hiểu yếu tố văn hoá ở các thị trường mà mình tiến hành các hoạt
động xuất khẩu.
Các yếu tố chính trị pháp luật: các yếu tố chính trị pháp luật có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu
đều phải tuân thủ các quy định của các Chính phủ có liên quan, tập quán và
luật pháp quốc gia, quốc tế:
- Các quy định của luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu (thuế, thủ tục
quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ…).
- Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất
khẩu tham gia.
- Các quy định nhập khẩu của các quôc gia mà doanh nghiệp có quan hệ
làm ăn.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan đến việc xuất khẩu
(Công ước Viên 1980, Incoterm 2000…).
Ngoài những vấn đề nói trên, Chính phủ còn thực hiện các chính sách
ngoại thương khác như: hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan…
Chính sách ngoại thương của Chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay

đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh
xuất khẩu. Vì vậy, họ phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất
21
nước để nắm được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của
Nhà nước.
Yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu: các yếu tố hạ tầngphục
vụ cho hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt đông xuất khẩu,
chẳng hạn như:
- Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị, hệ
thống xếp dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hoá xuất khẩu.
- Hệ thống ngân hàng: sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép
các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn.
Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng
các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
- Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng hàng hoá cho phép các hoạt
động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt
mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra…
Nhu cầu của thị trường nước ngoài: do khả năng của nước nhập khẩu
không đủ để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, hoặc do các mặt
hàng trong nước sản xuất không đa dạng nên không thoả mãn được nhu cầu
của người tiêu dùng, nên đòi hỏi các nước phải nhập khẩu hàng hoá của các
nước khác. Chính điều này cũng là một trong các nhân tố để thúc đẩy xuất
khẩu của các nước có khả năng đáp ứng được nhu cầu trong nước và cả nhu
cầu của nước ngoài.
Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may không hạn ngạch có tiềm năng
lớn thứ hai của Việt Nam. Chỉ bằng 2/3 dân số EU nhưng mức tiêu thụ vải
của người Mỹ lại gấp 1,5 lần EU. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn đối với
ngành dệt may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới
đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt
22

Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất
khẩu của ta sang Mỹ phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh
tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Thực tế trong thời
gian qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ rất nhỏ
bé, chỉ chiếm 0,06 kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Trong những
năm tới Mỹ vẫn được coi là thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam đặc biệt là
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết và Mỹ đã tiến hành bình
thường hoá thương mại với Việt Nam.
3.Vai trò của thị trường Mỹ đối với xuất khẩu của công ty Cổ phần
may Sông Hồng
3.1. Tổng quan nền kinh tế Mỹ
Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn có diện tích 9.327.614 km2 với số dân
280 triệu (năm 2000). Với diện tích đứng thứ 4 thế giới và đông dân thứ 3 thế
giới nên có thể nói Mỹ là thị trường riêng lẻ lớn nhất thế giới. Mỹ lại là nước
tham gia và giữ vai trò chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quốc tế quan trọng
như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), là thành viên lớn nhất của khu vực mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA),...Hiện nay Hoa Kỳ cũng là thị trường xuất khẩu quan trọng
nhất của các nước ASEAN chính vì vậy việc tìm hiểu về nền kinh tế Mỹ và hệ
thống luật pháp của Mỹ là yếu tố tiên quyết cho chiến lược thâm nhập thị
trường Mỹ.
Nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị
trường. Với vị thế to lớn của mình trên thế giới Mỹ thống trị thế giới với hơn
24 nước gắn trực tiếp các đồng tiền của họ vào đồng USD, 55 nước neo giá
vào đồng USD, các nước còn lại vẫn dựa vào sự biến động của đồng USD để
định giá đồng tiền của nước mình. Mỹ là môi trường thuận lợi cho đầu tư
nước ngoài cũng là nơi đầu tư ra nước ngoài hàng đầu thế giới. Có thể nói
23
mọi sự biến động của nền kinh tế Mỹ đều ảnh hưởng lớn đến sự biến động
của nền kinh tế thế giới. Và chắc chắn rằng trong hiện tại và cả trong những

thập kỷ tới Mỹ vẫn tiếp tục là nền kinh tế mạnh nhất, có ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế toàn cầu.
Hệ thống chính trị của Mỹ hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân
lập, quyền lập pháp tối cao được quốc hội thực hiện thông qua Thượng nghị
viện và Hạ nghị viện. Hệ thống luật pháp của Mỹ được phân thành hai cấp đó
là các bang và trung ương. Mỗi bang lại là một đơn vị độc lập có quyền tự
quyết và hệ thống luật pháp riêng. Một đặc điểm lớn trong chính sách đối
ngoại của Mỹ là thường hay sử dụng chính sách cấm vận và trừng phạt kinh tế
để đạt được mục đích của mình, điều này khiến cho nhiều người dân vô tội
phải chịu cảnh bần hàn.
Hệ thống luật pháp của Mỹ là khá chặt chẽ, chi tiết và phức tạp. Đây
được coi là vũ khí thương mại lợi hại của Mỹ. Muốn đặt chân vào thị trường
Mỹ trước hết phải hiểu biết về luật pháp Mỹ. Một vấn đề cần lưu ý mà các
doanh nghiệp Việt Nam hay mắc phải về luật pháp của Mỹ đó là Luật thuế bù
giá và Luật thuế chống bán phá giá. Đây được coi là hai đạo luật phổ biến
nhất bảo hộ các ngành công nghiệp của Mỹ chống lại hàng nhập khẩu. Điều
lợi hại của hai đạo luật này là nó quy định phần thuế bổ sung sẽ được ấn định
đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị phát hiện là được trao đổi không công
bằng.
Hoa Kỳ cũng là một nước có nền văn hoá đa dạng gồm nhiều cộng đồng
người. Các cộng đồng người này đã đem vào Hoa Kỳ những phong tục tập
quán, ngôn ngữ và đức tin riêng của họ. Do đó nền văn hoá Mỹ phong phú, đa
dạng và phức tạp. Từ bao đời nay chủ nghĩa thực dụng vẫn là nét tiêu biểu của
văn hoá Mỹ và lối sống Mỹ. Người Mỹ coi trọng sự chính xác, cách làm việc
cẩn thận, tỉ mỉ và khoa học vì vậy họ đánh giá đối tác dựa vào hiệu quả và
24
năng suất làm việc, coi trọng trình độ chuyên môn và khả năng cá nhân. Tôn
giáo chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Mỹ
bởi Mỹ có 219 tôn giáo lớn nhỏ nhưng chỉ có 3 tôn giáo chính là Kito giáo
chiếm 40%, Thiên chúa giáo chiếm 30%, Do thái giáo 3,2%. Tuy đa số dân số

theo đạo nhưng tôn giáo ở Mỹ không được coi trọng bằng chủ nghĩa cá nhân.
Người Mỹ coi trọng sự tự do cá nhân và dân chủ vì vậy các doanh nghiệp ít
khi gặp trở ngại nào do yếu tố tín ngưỡng hay tôn giáo khi muốn xâm nhập thị
trường Mỹ, không như một số thị trường khác.
3.2. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Mỹ
3.2.1. Tình hình sản xuất hàng dệt may tại Mỹ
Công nghiệp sản xuất hàng dệt may giữ một vị trí quan trọng trong nền
kinh tế Mỹ. Đây là ngành có trình độ công nghệ kỹ thuật tiên tiến do luôn được
đầu tư máy móc hiện đại. Ngành đã đạt đến trình độ phân hoá cao thoát khỏi
tình trạng tập trung nhiều lao động. Các doanh nghiệp dệt may của Mỹ chủ yếu
hoạt động theo quy mô lớn. Đặc biệt đồ lót và jean là thế mạnh của Mỹ, rất
nhiều Công ty của Mỹ thành công trong lĩnh vực này, đạt được thương hiệu
quốc tế và điều hành cả một thị trường lớn. Các hãng thời trang cao cấp của
Mỹ luôn được đánh giá cao tại nhiều nước trên thế giới. Lợi thế cạnh tranh của
các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ là: nhãn hiệu, chất lượng và đáp ứng nhanh.
Ngành dệt may Mỹ hiện tại đang tập trung vào các loại vải cao cấp và
bán với giá cao hơn. Các sản phẩm vải cho may mặc đang bị giảm bớt và ít
được sản xuất ở Mỹ. Trong khi đó ngày càng nhiều nhà bán lẻ Mỹ chọn các
mặt hàng kém chất lượng hơn được nhập từ nước ngoài với giá rẻ để kinh
doanh do hàng trong nước trở nên quá đắt. Đây là một điều thuận lợi cho các
nước xuất khẩu dệt may vào Mỹ.
3.2.2. Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Các mặt
hàng may mặc nhập khẩu vào Mỹ cũng rất đa dạng và phong phú, chủ yếu là
25

×