Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

hướng dẫn học sinh phân biệt văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật nhằm nâng cao chất lượng môn ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.41 KB, 28 trang )

BẢN TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Tên đề tài: “Hướng dẫn học sinh phân biệt văn thuyết minh
với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật nhằm nâng cao chất
lượng môn Ngữ văn 9”.
Người thực hiện: Cao Thuý Phượng.
Đơn vị công tác: Trường Trung học cơ sở Bàu Năng.
1. Lí do chọn đề tài:
Trước đây phân môn làm văn trong nhà trường với những
phương thức cơ bản và biệt lập: tả, kể, cảm nghĩ, nghị luận và các văn
bản hành chính thông dụng chưa đề cập đến đối thoại, độc thoại và
độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự. Đó là phương thức thuyết minh
và thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật vào trong chương
trình. Là phương thức mới giúp các em biết kết hợp linh hoạt và sáng
tạo các phương thức khác cũng như vận dụng các yếu tố nghệ thuật.
Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh
phân biệt văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ
thuật nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 9.”
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hướng dẫn học sinh biết
phân biệt văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ
thuật.
Thực hiện đề tài ở lớp 9A
1
, 9A
2
Trường Trung học cơ sở Bàu
Năng năm học 2010- 2011.
Khi thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau:
Phương pháp thống kê.
Phương pháp đọc tài liệu.


1
Phương pháp so sánh.
Phương pháp khái quát, tổng hợp.
3. Đề tài đưa ra giải pháp mới:
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học văn trong nhà trường đồng
thời giúp học sinh lĩnh hội kiến thức đầy đủ nhất, tối ưu nhất trong các
tiết học mới và khó để vận dụng vào thực hành đạt hiệu quả cao nhất.
4. Hiệu quả áp dụng:
Khi áp dụng đề tài, kết quả tăng dần khá cao số học sinh có sự
so sánh và biết phân biệt giữa văn thuyết minh và văn thuyết minh có
yếu tố nghệ thuật.
5. Phạm vi áp dụng:
Đề tài có thể áp dụng trong môn Ngữ văn lớp 9 Trường Trung
học cơ sở Bàu Năng nói riêng và cấp Trung học cơ sở toàn ngành nói
chung.
Người thực
hiện
Cao Thuý
Phượng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
Nhịp độ phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại đòi hỏi một sự
đổi mới cao độ về phương pháp dạy học nhằm nâng cao hơn nữa
2
chất lượng thông tin, đồng thời có thể xây dựng con người năng động,
sáng tạo làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại. Đây cũng là một đòi hỏi
chiến lược của chủ nghĩa xã hội trong nhiệm vụ đào tạo ra những
công dân vừa có phẩm chất chính trị, vừa có năng lực làm chủ khoa
học kỹ thuật.
Trước đây phân môn làm văn trong nhà trường với những

phương thức cơ bản và biệt lập: tả, kể, cảm nghĩ, nghị luận và các văn
bản hành chính thông dụng. Chương trình cũ dạy nhiều về tự sự,
miêu tả nhưng không đề cập đến cách dạy kết hợp tự sự với các
phương thức khác như: miêu tả, nghị luận, biểu cảm… chưa đề cập
đến đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự… Đó
là những kiến thức hết sức bổ ích, không chỉ giúp học sinh viết văn tự
sự hay hơn mà còn cung cấp những công cụ giúp các em khám phá
thêm được nhiều lý thú trong các tác phẩm truyện, kể cả truyện thơ
như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu.
Đó là những phương thức biểu đạt giúp các em thể hiện cảm
nhận của mình trong quá trình lĩnh hội tác phẩm văn chương. Còn
việc lĩnh hội những tri thức khách quan để trang bị cho các em cách
ứng xử, cách thuyết trình một vấn đề mang tính khoa học sao cho
tương thích với sự hội nhập trong điều kiện kinh tế của thời đại thì
chương trình cũ chưa đề cập đến. Nói như vậy để khẳng định một lần
nữa cái hay, cái mới và sự cập nhật kịp thời của chương trình hiện
nay theo chuẩn kiến thức và kỹ năng là phải đưa phương thức thuyết
minh và thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật vào trong
chương trình.
Là phương thức mới, đòi hỏi học sinh phải vận dụng tri thức
khách quan để thể hiện, đặc biệt là phải biết kết hợp linh hoạt và có
3
sáng tạo các phương thức khác cũng như vận dụng các yếu tố nghệ
thuật để thể hiện. Nên không tránh khỏi những khó khăn, thậm chí bị
bế tắt trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như vận dụng thực hành.
Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh
phân biệt văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ
thuật nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 9.”
2. Mục đích nghiên cứu:

Từ việc đổi mới phương pháp giảng dạy ở tất cả các bậc học và
xác định phải khuyến khích học sinh tự học, tự nghiên cứu. Áp dụng
những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng học sinh năng lực
tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.Giáo viên phải thường
xuyên nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp dạy học có hiệu quả
nhằm giúp học sinh biết so sánh, phân biệt được sự khác nhau của
văn thuyết minh và thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật được rõ
ràng và sâu sắc hơn. Để phần nào tháo gỡ, giải quyết được những
khó khăn mà thầy - trò gặp phải trong tình hình học tập và chất lượng
bộ môn hiện nay, với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy
– học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hướng dẫn học sinh biết
phân biệt văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ
thuật.
Đặc biệt tập trung cho học sinh biết sắp xếp định hướng khi
thực hành có hiệu quả từ khâu tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết đoạn, liên
kết đoạn, viết văn bản thuyết minh hoàn chỉnh theo phương thức mới,
khó và hay.
Thực hiện đề tài ở lớp 9A
1
, 9A
2
Trường Trung học cơ sở Bàu
Năng năm học 2010- 2011.
4
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khi thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp thống kê:

Thống kê các tiết có liên quan đến thể loại văn thuyết minh và
văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật như :
Khối 8 các tiết: 44, 47, 51, 54, 55, 56, 61, 76, 80, 83, 84
Khối 9 các tiết: 4, 5, 9, 10, 14, 15
4.2. Phương pháp đọc tài liệu:
Tiến hành đọc các tài liệu, giáo trình, sách giáo khoa, chuẩn
kiến thức kĩ năng… xác định mục tiêu cần đạt, kiến thức trọng tâm
theo chuẩn kiến thức kỹ năng… để hướng dẫn học sinh biết cách
phân biệt.
4.3. Phương pháp so sánh:
Tôi dùng phương pháp tích hợp tiến hành, phân biệt so sánh để
làm nổi bật được bài văn thuyết minh với thuyết minh có kết hợp các
yếu tố nghệ thuật.
4.4. Phương pháp khái quát, tổng hợp:
Khái quát, tổng hợp lại vấn đề nghiên cứu chương trình,
Dự giờ, tham khảo, tổng hợp lại ý kiến của anh, chị, em đồng
nghiệp,
Hệ thống, tổng hợp, thống kê lại chất lượng.
Ngoài ra tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu hỗ trợ
khác nữa để có những kết quả cao mang tính khách quan, khoa học.
5.Giả thuyết khoa học:
Quá trình dạy và học sẽ bị tẻ nhạt, nhàm chán, nặng nề hơn nếu
như giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học sinh biết phân biệt
giữa văn thuyết minh với văn thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ
5
thuật và các em sẽ dễ nhầm lẫn khi làm bài. Do đó việc giúp học sinh
biết phân biệt được văn thuyết minh với văn thuyết minh có kết hợp
yếu tố nghệ thuật là việc làm rất quan trọng, qua đó các em sẽ có
được kỹ năng phân biệt, so sánh trong việc thực hành làm văn thuyết
minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật đạt được chất lượng tốt hơn.

6
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Các văn bản chỉ đạo:
Nghị quyết Trung ương IV khoá VII năm 1993 đã đề ra nhiệm vụ:
“Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp bậc học và xác định
phải khuyến khích tự học, tự nghiên cứu”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định phát huy tinh thần
độc lập, sáng tạo của học sinh, sinh viên để nâng cao năng lực tự học,
tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. . . đổi mới dạy và học, phát huy tư
duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực
hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét,
học vẹt.
Điều 24 Luật Giáo dục (do Quốc hội khoá X thông qua) đã chỉ rõ
phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh.
1.2.Vai trò và đặc điểm của văn thuyết minh và thuyết minh có
kết hợp các yếu tố nghệ thuật:
Văn thuyết minh là loại văn bản có khả năng cung cấp tri thức xác
thực, hữu ích cho con người.
Văn bản thuyết minh hay là một văn bản trình bày rõ ràng hấp dẫn
đặc điểm cơ bản của đối tượng thuyết minh.Sử dụng ngôn ngữ chính
xác, cô đọng, chặt chẽ,sinh động, không hư cấu, bịa đặt, tưởng
tượng.
Thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật là một phương
thức biểu đạt mới, khó và có tính tỉ mĩ. Mới là lần đầu tiên áp dụng vào
7

chương trình cấp Trung học cơ sở và khó là ở chỗ đòi hỏi học sinh
phải biết kết hợp các yếu tố nghệ thuật vào,vận dụng các tri thức
khách quan để thực hiện. Điều này đòi hỏi các em phải có sự quan
sát, tổng hợp sự việc hiện tượng dưới gốc nhìn của những tri thức vốn
có từ đời sống cũng như học tập qua sách vở.
Phương thức thuyết minh trong chương trình học gồm tất cả
14 tiết (8 tiết ở khối lớp 8 và 6 tiết ở khối lớp 9 – có 2 tiết bài viết) có
sự liên kết và tích hợp rất chặt chẽ (từ thuyết minh đến thuyết minh có
kết hợp) đòi hỏi học sinh phải có khả năng cũng như kĩ năng phân
tích, đúc kết kiến thức một cách khoa học.
Học văn, làm văn phải bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, phải rèn
luyện kĩ năng cảm thụ. Đôi khi mình phải đồng điệu với nhân vật, cùng
nhập cuộc với hoàn cảnh. Cũng như nhà văn (nhà thơ) muốn sáng tác
tác phẩm thì phải có vốn sống vì “thực tế cuộc sống chính là linh hồn
của tác phẩm”. Thực tế cuộc sống đi vào trong tác phẩm phải thông
qua lăng kính chủ quan của tác giả. Tác giả tạo ra tác phẩm bằng vốn
sống không chưa đủ mà phải tạo ra tác phẩm bằng tâm hồn, sự nhạy
cảm trước cuộc sống nữa. Nhà văn muốn thực hiện tác phẩm thì phải
có vốn sống, vốn tổng hợp tri thức khách quan về cuộc sống. Điều
này có ý nghĩa: dù nhìn ở góc độ nào thì phương thức thuyết minh
vẫn là phương thức biểu đạt quan trọng trong việc học và làm văn ở
trường phổ thông.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Thực tiễn vấn đề nghiên cứu:
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 9, hiện tại tôi đang
phụ trách giảng dạy lớp 9A
1
, 9A
2
, bản thân tôi nhận thấy kĩ năng phân

biệt giữa văn thuyết minh và văn thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ
8
thuật ở các em đạt mức độ thấp, rất hạn chế, mặc dù là học sinh cuối
cấp.
Cụ thể trong bài viết số 1 ở lớp 9 là văn thuyết minh có sử dụng
yếu tố nghệ thuật mà các em chỉ biết viết một bài văn thuyết minh
suông, chưa kết hợp các yếu tố nghệ thuật trong bài làm mà chỉ viết
theo cảm hứng và sở thích của mình cho đủ bài, hết giờ thì thôi-
không kể đó là dạng bài gì? Kiểu bài gì? Yêu cầu ra sao?
Do cấu trúc chương trình, lớp 8 các em học và làm văn thuyết
minh, đầu năm lớp 9 không tìm hiểu lại mà tiếp tục nâng cao thêm
việc kết hợp các yếu tố nghệ thuật cho bài viết.
Trước tình hình thực tế như thế thì giáo viên chúng ta cần phải
bám sát và thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng đã được hướng
dẫn, thực hiện. Điều lưu ý là khi soạn giảng ta cần phải linh động,
sáng tạo sắp xếp hệ thống kiến thức cho phù hợp với khả năng tiếp
nhận của học sinh, từ đó giúp các em thoải mái, nhẹ nhàng và có
hứng thú khi học đến dạng văn này, các em hoạt động nhiều hơn, tích
cực hơn mà không có tâm trạng bị áp đặt hay nặng nề.
Nếu như giáo viên không có sự chuẩn bị để hướng dẫn học sinh
biết phân biệt, so sánh những điểm khác nhau cơ bản giữa văn
thuyết minh và văn thuyết minh có kết hợp các yếu tố nghệ thuật thì
liệu các em có được sự hứng thú trong giờ học, kết quả cao trong
thực hành không.
2.2. Sự cần thiết của đề tài:
Chính những việc đã nêu trên, bản thân của mỗi giáo viên chúng
ta phải lựa chọn cách thức truyền đạt, hướng dẫn sao cho phù hợp,
nhẹ nhàng mà dễ hiểu, dễ phân biệt, nắm bắt và so sánh được giữa
văn thuyết minh khác với thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật.
Ngoài ra, khi soạn giáo án để thực hiện tiết dạy, giáo viên cần phải

9
bám theo chuẩn kiến thức và theo quan điểm mới: “không phải là bản
đề cương để ghi nhận những điều thầy cảm mà là bản thiết kế những
việc làm cho học sinh nhằm phát huy được tính năng động, tư duy
sáng tạo của các em trong học tập, trong làm bài."
3. Nội dung vấn đề:
3.1.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hướng dẫn học sinh biết
phân biệt giữa văn thuyết minh với văn thuyết minh có kết hợp
yếu tố nghệ thuật thì trước tiên giáo viên phải cung cấp những tri
thức cơ bản về văn thuyết minh và thuyết minh có kết hợp các yếu tố
nghệ thuật cho các em
3.2.Những tri thức cơ bản:
3.2.1.Văn thuyết minh:
Đặc điểm và yêu cầu của văn thuyết minh:
Trong cuộc sống, con người luôn có nhu cầu tìm hiểu các sự
vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội. Một sự vật, một phong cảnh, một
con người, một buổi biểu diễn nghệ thuật, một bài thơ, một cuốn sách,
. . . đều khơi gợi ở người tiếp xúc những mong muốn tìm hiểu bản
chất, đặc điểm, nguyên nhân, sự hình thành, . . . Khi chúng ta đáp ứng
những nhu cầu đó, tức là phải tiến hành trình bày, giới thiệu, giải thích.
Chúng ta đã sử dụng văn bản thuyết minh.
Những bản hướng dẫn cấu tạo, tính năng, cách dùng và bảo
quản một dụng cụ nào đó (máy bơm, quạt điện, tivi, phích, tủ lạnh, );
những hướng dẫn một cách chế biến một món ăn theo kiểu Việt Nam,
Trung Quốc, Pháp, ; những hướng dẫn cách làm một đồ chơi cho
các cháu thiếu nhi; hướng dẫn tham quan du lịch đối với một thắng
cảnh; trình bày cách làm thí nghiệm; giải thích tiểu sử nhà văn, trình
bày về đặc điểm thể loại văn học, đều là văn bản thuyết minh.
10
Văn bản thuyết minh khác với văn bản tự sự ở chỗ nó không kể

sự việc và diễn biến; cũng khác với miêu tả ở chỗ nó không tả tỉ mỉ,
chi tiết theo chủ quan của người miêu tả (không nhằm mục đích làm
cho người đọc cảm thấy mà chủ yếu là cho họ hiểu được); khác với
văn bản biểu cảm vì nó cố gắng trình bày một cách khách quan,
không bộc lộ tình cảm riêng của người viết; khác với văn bản nghị
luận vì nó trình bày nguyên lí, quy luật, cách thức,… chứ không trình
bày luận điểm, lí lẽ; văn bản thuyết minh cũng khác với văn bản hành
chính - công vụ ở chỗ nó không giải quyết các mối quan hệ giữa cá
nhân và tổ chức, mà hướng tới việc làm cho người ta hiểu bản chất
của sự vật, hiện tượng.
Văn bản thuyết minh cung cấp tri thức khách quan về sự vật,
hiện tượng, giúp người đọc, người nghe hiểu được chúng một cách
đúng đắn, đầy đủ. Cung cấp tri thức, văn bản thuyết minh đặt mục
đích làm cho người ta hiểu lên hàng đầu, yếu tố cảm nhận hay thưởng
thức được đặt xuống hàng thứ yếu. Ngôn ngữ trong văn bản thuyết
minh yêu cầu chính xác, chặt chẽ, tường minh. Nó không đa nghĩa mà
càng đơn nghĩa càng tốt; tuy nhiên không loại trừ việc thuyết minh hấp
dẫn nhờ cách đặt vấn đề, cách nêu tình huống độc đáo và một số biện
pháp nghệ thuật khác.
Cách làm bài văn thuyết minh:
Tri thức để làm bài văn thuyết minh:
Bài văn thuyết minh là bài cung cấp tri thức cho người đọc
(người nghe) để họ có thể hiểu, nắm được đặc điểm, bản chất của
một sự vật, hiện tượng nào đó. Vì thế muốn thuyết minh được mạch
lạc, rõ ràng, người viết phải có vốn tri thức nhất định về điều mình viết.
Muốn có tri thức, người viết phải trực tiếp tìm hiểu sự vật, quan sát,
ghi chép, hỏi những người am hiểu, Đó là cách tích luỹ kiến thức
11
trực tiếp. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề cần thuyết minh đều đòi
hỏi phải đi thực tế và cũng khó mà đi thực tế. Bởi vậy, tri thức cũng có

thể tích luỹ một cách gián tiếp thông qua sách vở, thông qua mạng in-
tơ-nét,… Cũng có khi phải kết hợp sử dụng các nguồn tri thức với
nhau.
Qui trình làm bài văn thuyết minh:
Bài văn thuyết minh cũng được làm theo qui trình chung của
một bài tập làm văn, gồm 4 bước: tìm hiểu đề, tìm ý; lập dàn ý; viết bài
và sửa chữa. Muốn viết được bài văn thuyết minh thành công cần
phải tìm hiểu đề và tìm được các ý cho bài viết. Sau khi tìm được ý,
phải chọn phương pháp thuyết minh cho phù hợp. Sau đó là lập dàn ý
và viết bài. Trong khi viết, có thể bổ sung, thêm bớt ý cho dàn bài
hoàn chỉnh. Bước cuối cùng là sửa lại bài viết, nhất là sửa các lỗi
chính tả, lỗi ngữ pháp.
Các phương pháp thuyết minh:
Đối với bài văn thuyết minh về sự vật, hiện tượng có thể sử dụng
những phương pháp thuyết minh sau đây:
- Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích:
+ Đây là phương pháp thuyết minh khá phổ biến. Người thuyết
minh sẽ xác định đối tượng thuộc loại sự vật, hiện tượng gì, đặc điểm
của nó là thế nào. Chẳng hạn, nếu văn bản trữ tình chú ý đến vẻ
đẹp của Huế: Đường vô xứ Huế quanh quanh - Non xanh nước
biếc như tranh hoạ đồ - Ai vô xứ Huế thì vô (Ca dao) thì văn bản
thuyết minh chú ý đến việc nêu vị trí vai trò của Huế: Huế là cố đô
của nước ta, là trung tâm một văn hoá, nghệ thuật của miền
Trung và cả nước.
12
+ Khi nêu định nghĩa hay giải thích, người viết cần chú ý đến giới
hạn chính xác. Không định nghĩa quá hẹp hay quá rộng sự vật khiến
cho người khác khó hình dung và khó hiểu.
- Phương pháp liệt kê:
Đây là một cách để người viết trình bày những tri thức liên quan

đến sự vật, hiện tượng được thuyết minh. Chẳng hạn, thuyết minh
về cây dừa, tác giả Hoàng Văn Huyền viết: Cây dừa cống hiến tất
cả của cải của mình cho con người: thân cây làm máng, lá làm tranh,
cọng lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già làm chõ đồ xôi, nước dừa để
uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm, . . . (Ngữ văn 8,
tập 1). Như vậy, tác giả đã liệt kê về sự cống hiến của cây dừa.
Trong khi nói về nước dừa, tác giả lại liệt kê những ích lợi của nó: để
uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm.
Nguyễn Trọng Tạo khi viết về cây chuối cũng sử dụng phương
pháp liệt: Chuối xanh nấu với các loại thực phẩm có vị tanh như cá,
ốc, lươn, chạch có sức khử tanh rất tốt, nó không chỉ làm cho thực
phẩm ngon hơn mà chính nó cũng có cái ngon bổ riêng không thay
thế đước. Người ta có thể chế biến nhiều món ăn từ quả chuối như
chuối ép, mứt chuối, kẹo chuối, bánh chuối, . . . (Cây chuối Việt Nam)
- Phương pháp nêu ví dụ:
Để thuyết minh, người viết có thể nêu ra một ví dụ có tính chất
tiêu biểu. Ví dụ càng độc đáo, càng chính xác và được đưa ra đúng
lúc, đúng chỗ thì sức thuyết phục càng cao. Nói về khả năng gây
bệnh ung thư của thuốc lá, tác giả Nguyễn Khắc Viện (trong bài
Ôn dịch thuốc lá) nêu ví dụ: Thấm vào các tế bào, chất hắc ín lại
thường gây ra ung thư. Ta đến bệnh viện K sẽ thấy rõ: Bác sĩ viện
trưởng cho biết trên 80 % ung thư vòm họng và ung thư phổi là do
thuốc lá. (Ngữ văn 8, tập 1, trang 119)
13
- Phương pháp dùng số liệu (con số):
Thật ra, nêu các con số cũng là một cách nêu ví dụ. Nhưng ở
đây nhấn mạnh đến ý nghĩa của con số. Các con số thống kê tự bản
thân nó đã có ý nghĩa lớn gây ấn tượng mạnh mà không cần phải
thuyết minh thêm. Trong bài Đấu tranh cho một thế giới hoà bình,
G. Mác-két sử dụng việc nêu số liệu rất ấn tượng: Một ví dụ trong

lĩnh vực tiếp tế thực phẩm: Theo tính toán của FAO, năm 1985, người
ta thấy trên thế giới có gần 575 triệu người thiếu dinh dưỡng. Số lượng
ca-lo trung bình cần thiết cho những người đó chỉ tốn kém không bằng
149 tên lửa MX Chỉ cần 27 tên lửa MX là đủ trả tiền nông cụ cần
thiết cho các nước nghèo để họ có được thực phẩm trong bốn năm tới.
(Ngữ văn 9, tập 1, trang18)
- Phương pháp so sánh:
So sánh là một biện pháp nhằm làm cho người đọc, người nghe
hình dung rõ sự vật được nói tới.So sánh là một trong ba thể tiêu biểu
để triển khai nội dung của bài ca dao: phú, tỉ ( so sánh) và hứng. Diễn
tả vẻ đẹp của cô gái, ca dao viết: Cổ tay em trắng như ngà – Con
mắt em sắc như là dao cau. Ngà làm cho ta cảm nhận được màu
trắng cổ tay, dao cau giúp ta cảm nhận được độ sắc của cặp mắt.
Nhờ so sánh mà đối tượng được hình dung rất cụ thể, sinh động.
Viết về thành phố Sài Gòn ba trăm năm tuổi, muốn nhấn
mạnh Sài Gòn vẫn trẻ, Minh Hương so sánh: Sài Gòn vẫn trẻ […].
Ba trăm năm so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị
này còn xuân chán. Sài gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn
nà, trên đà thay da, đổi thịt (Ngữ văn 7, tập 1, trang 168). So sánh ba
trăm năm với ba ngàn năm; Sài Gòn với cây tơ đương độ nõn nà,
người đọc thấy ngay là Sài Gòn vẫn trẻ.
- Phương pháp phân loại và phân tích:
14
Thuyết minh là văn bản dùng cho nhiều loại đối tượng khác nhau.
Có món ăn, có đồ dùng, có danh lam thắng cảnh, có khi là một loài
động vật, thực vật. Chính điều này đã đòi hỏi phải phân loại để chọn
các phương pháp và cách trình bày phù hợp. Thêm nữa, ngay trong
bản thân đối tượng thuyết minh cũng có những loại phức tạp, nhiều bộ
phận, nhiều mặt. Vì thế phải có sự phân loại, phân tách ra các bộ
phận nhỏ hơn để thuyết minh. Ví dụ về một món ăn, người ta

thường thuyết minh các phần: Nguyên liệu và dụng cụ chế biến;
Cách chế biến; Yêu cầu thành phẩm; Cách ăn món đó thế nào là
ngon nhất.
Như vậy có nhiều phương pháp thuyết minh. Vấn đề đặt ra cho
người viết là biết xác định đối tượng, sử dụng phương pháp kết hợp
như thế nào để làm rõ đối tượng, làm cho người đọc, người nghe hiểu
được đối tượng mà người viết trình bày.
Một số kiểu bài thuyết minh:
- Thuyết minh về một thứ đồ dùng
- Thuyết minh về một loài vật
- Thuyết minh về một phương pháp
- Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
- Thuyết minh về một thể loại văn học
- Thuyết minh về một phong tục, một đồ chơi dân gian. . . .
3.2.2 Các yếu tố nghệ thuật (tự thuật, đối thoại, ẩn dụ, nhân hoá)
và miêu tả trong văn thuyết minh:
Để văn bản thuyết minh sinh động, hấp dẫn, người thuyết minh
thường sử dụng một số yếu tố nghệ thuật như ẩn dụ, nhân hoá và yếu
tố miêu tả. Cách sử dụng rất linh hoạt và đa dạng, tuỳ thuộc vào đối
tượng thuyết minh và dụng ý của người thuyết minh.
Ví dụ như:
15
Trong Hạ Long – Đá và Nước, nhà văn Nguyên Ngọc đã
dùng phép nhân hoá để nói về những khối đá trên vịnh đồng thời
kết hợp với việc miêu tả để làm rõ sắc thái những con người đá:
ánh sáng hắt lên từ mặt nước lung linh chảy khiến những con người
bằng đá vây quanh ta trên mặt vịnh càng lung linh, xao động, như
đang đi lại, đang tụ lại cùng nhau, hay đang toả ra. Hoặc cũng rất có
thể, khi đêm đã xuống, dưới ánh sao chi chít xao động dưới cả mặt
nước bí ẩn nữa, sẽ có cuộc tụ họp của cái thế giới người bằng đá

sống động đó, biết đâu !. . .
Tường Lan khi thuyết minh về ruồi xanh đã tưởng tượng ra
một phiên toà của Ngọc Hoàng có vệ sĩ Nhện, có tội nhân Ruồi
Xanh, có luật sư bào chữa. Lời khai của Ruồi Xanh chính là một
cách thuyết minh về loài ruồi, họ hàng và nơi sinh sống của nó:
Con là Ruồi Xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt lưới. Họ hàng con
rất đông gồm Ruồi trâu, Ruồi vàng, Ruồi giấm Nơi ở là nhà vệ sinh,
chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…., bất kì chỗ nào mà có
thức ăn mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống.
Văn Hùng khi thuyết minh về chiếc kim khâu đã dùng phép
nhân hoá và tự thuật, để cho cây kim tự kể chuyện và giới thiệu
về mình: Trong các dụng cụ của con người, có lẽ chúng tôi thuộc loại
bé nhất. Tuy bé nhưng nhà ai cũng cần đến. Các bạn có biết chúng tôi
là ai không ? Chúng tôi là những cái kim khâu bằng kim loại, bề ngang
độ nửa mi-li-mét, bề dài khoảng hai, ba xăng-ti-mét. . .
Nhìn chung văn bản thuyết minh ở lớp 9 vẫn là kiểu văn bản
thuyết minh đã học ở lớp 8, nhưng được nâng cao hơn về cách thức
và hiệu quả thuyết minh, đặc biệt là việc sử dụng một số yếu tố nghệ
thuật và yếu tố miêu tả làm cho bài văn thuyết minh sinh động, hấp
dẫn. Tuy vậy, cần luôn luôn nhớ rằng các yếu tố trên chỉ là yếu tố phụ
16
trợ, dùng quá nhiều thì bài thuyết minh sẽ không còn là thuyết minh
nữa.
3.2.3 Quá trình thực hiện kinh nghiệm “Hướng dẫn học sinh
phân biệt được văn thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố
nghệ thuật”
VỀ GIÁO VIÊN:
Bám sát và thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng,
Sắp xếp phân nhóm cho học sinh thảo luận,
Hỗ trợ học sinh trong quá trình thảo luận, thuyết trình,

Nhận xét, bổ sung và gút chốt kiến thức trọng tâm. . .
VỀ HỌC SINH:
Ở nhà: Chuẩn bị phần bài tập đã được định hướng và chỉ
định.
Ở lớp: Tham gia thảo luận, góp ý xây dựng và thuyết trình.
Lưu ý đối với các em học sinh lớp 9 cần xem lại kiến thức ở lớp
8 về văn thuyết minh.
Kiểu bài văn thuyết minh ở lớp 9 có yêu cầu cao hơn ở lớp 8,
đòi hỏi có sự kết hợp giữa văn thuyết minh với các yếu tố khác, nhằm
làm cho bài văn thuyết minh hay và sinh động hơn có chất lượng cao
hơn và đạt hiệu quả tốt hơn.
Giáo viên cần phải
Hệ thống lại kiến thức về văn thuyết minh sao cho khoa học.
So sánh, đối chiếu và thấy được tác dụng của tính kết hợp trong
văn thuyết minh nói riêng.
Dựa vào mục “Những điểm cần lưu ý” cũng như khả năng tiếp thu
của học sinh để định hướng thật sát sao cho các em tiếp thu kiến thức
nhẹ nhàng mà sâu sắc, tránh áp đặt, máy móc, rập khuôn.

17

Phần lí thuyết:
Xác định và xoáy trọng tâm bài học để học sinh nắm vững kiến
thức, nhưng quan trọng là định hướng cho các em nắm phương pháp
để vận dụng thực hành có hiệu quả.
Muốn thực hành tốt phải nắm kiến thức vững, đối với những tiết
khó chúng ta phải thật sự linh động sáng tạo sắp xếp hệ thống từ lí
thuyết đến thực hành sao cho phù hợp với tình hình về cơ sở vật chất,
về khả năng tiếp thu của học sinh. . . và trong từng bài giảng làm sao
gút chốt được những trọng tâm cơ bản nhất về:

Vị trí của văn bản thuyết minh:
Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng, có phạm vi
sử dụng rất phổ biến trong đời sống, bất cứ ngành nghề nào cũng
cần đến. Từ lâu nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Nhật
Bản… đã đưa vào chương trình học cho học sinh nhưng lại là văn
bản lần đầu tiên đưa vào chương trình làm văn cấp Trung học cơ
sở ở Việt Nam.
Khác với văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành
chính - công vụ, văn bản thuyết minh trình bày tri thức một cách
khách quan, giúp ta hiểu được đặc trưng tính chất của sự vật, hiện
tượng, và biết cách sử dụng chúng vào mục đích có lợi cho con
người. Văn bản thuyết minh gắn với tư duy khoa học, nó đòi hỏi
tính chính xác rạch ròi. Muốn làm được văn bản thuyết minh phải
tiến hành điều tra, nghiên cứu, học hỏi tri thức thì mới làm được.
Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp cho
học sinh một kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng trình bày
các tri thức có tính khách quan, khoa học, nâng cao năng lực tư
duy biểu đạt cho học sinh. Loại văn bản này vốn không có gì xa lạ
18
đối với học sinh vì thực ra trong từng bài giảng của thầy cô tất cả
các bộ môn đều là lời nhận xét tốt cho văn thuyết minh mà chỉ cần
giáo viên chúng ta có ý thức hướng dẫn là các em làm được.
Sự khác biệt của văn bản thuyết minh với các văn bản
khác:
Khác với văn bản tự sự vì không có sự việc và diễn biến.
Khác với miêu tả vì không đòi hỏi miêu tả cụ thể cho người
đọc cảm thấy, mà cốt làm cho người ta hiểu.
Khác với văn bản nghị luận vì đây cái chính là trình bày
nguyên lí, qui luật, cách thức chứ không phải là luận điểm, suy luận
hay lí lẽ.

Khác với văn bản hành chính – công vụ là văn bản trình bày
quyết định, nguyện vọng, thông báo.
Thực ra trên thực tế, không có một văn bản nào tồn tại độc lập
một phương thức biểu đạt (kể cả các văn bản thuộc loại văn bản
truyền miệng như truyện cổ tích, truyện cười).Một văn bản có sức
thuyết phục cao thường phải kết hợp hợp lí với các phương thức biểu
đạt khác. Nhưng chú ý, không vì phải kết hợp mà làm lu mờ phương
thức chính (tuỳ từng yêu cầu đề bài). Văn thuyết minh cũng vậy, sự
kết hợp các yếu tố nghệ thuật trong văn thuyết minh mục đích để làm
phong phú, nổi bật đối tượng, giúp văn bản hấp dẫn, thuyết phục
người đọc mà vẫn đảm bảo tri thức khách quan có tính riêng của văn
thuyết minh.
Tóm lại Văn bản thuyết minh là một kiểu văn bản riêng, mà các loại
văn bản khác không thay thế được.
Tính chất của văn bản thuyết minh:
19
Văn bản thuyết minh tốt là văn bản trình bày rõ ràng, hấp dẫn
đặc điểm cơ bản của đối tượng đang được nói tới. Sự chính xác là
tiêu chí hàng đầu của văn thuyết minh.
Ngôn ngữ diễn đạt trong văn thuyết minh phải chính xác, chặt
chẽ, cô đúc và sinh động. Cách viết trau chuốt, dài dòng sẽ gây cho
người đọc nghi ngờ, khó chịu nên cần tránh.
Yêu cầu về phương pháp thuyết minh:
Cần hiểu chính xác điều mình cần nói, tránh nói vu vơ, không
chính xác.Người nói và người viết cần nghiên cứu, tìm hiểu sự vật,
hiện tượng cần thuyết minh, nắm chắc bản chất đặc trưng, mối tương
quan của nó để có thể trình bày một cách sáng tỏ, có sức thuyết phục,
tránh xa đề.
Người nói và người viết có thể phối hợp nhiều phương pháp
thuyết minh: nêu định nghĩa, mô tả sự vật, hiện tượng, nêu ví dụ, liệt

kê, so sánh, đối chiếu, phân loại, dùng số liệu. . . .
Hệ thống ví dụ: khi thiết kế giáo án chú ý cho học sinh thực hành
thuyết trình và chỉ ra các em đã vận dụng phương pháp nào và tác
dụng. Sau đó giáo viên cần khẳng định: sự vận dụng các phương
pháp thuyết minh đúng và linh hoạt sẽ làm cho bài văn thuyết minh có
sức thuyết minh và ngược lại.
Giới thiệu một số đề văn thuyết minh và thuyết minh có kết hợp:
Sách giáo khoa cũng như sách tham khảo có hướng dẫn rất
nhiều đề về văn thuyết minh (thuyết minh về vật nuôi, cây trồng,
phong cảnh, thuyết minh thể loại văn học, thuyết minh tác phẩm. . .) ta
nhận thấy đề thuyết minh rất phong phú.
Các kì thi tuyển vào lớp 10, chọn học sinh giỏi cũng đề cập đến
văn thuyết minh dưới dạng đề mở:
20
VD: Đề thi chọn học sinh giỏi vòng huyện DMC - Tây Ninh năm
học 2007-2008 ngày 13/ 01/ 2008: “Thuyết minh vẻ đẹp tư tưởng và
nghệ thuật của hình ảnh vầng trăng trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy… là những đề khơi gợi tính sáng tạo không chỉ hiểu biết về cuộc
sống mà còn tạo cho các em những cơ hội giúp các em biết nhận định
cũng như cảm thụ văn chương.
Những vấn đề mà đề tài đề cập trước khi qua phần thực hành
không được cụ thể trong tiết học nào cả. Chính vì thế ta cần phải vận
dụng phương pháp tích hợp trong soạn giảng, tăng cường khâu củng
cố, dặn dò và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh qua các tiết để nắm
bắt kịp thời khả năng tiếp thu và vận dụng kiến thức của từng học sinh
cho sát sao.
Phần thực hành:
Xác định mục tiêu cần đạt theo chuẩn kiến thức đã được qui
định để thiết kế toàn bộ giáo án cho phù hợp với đối tượng cũng như
đặc điểm trang thiết bị của trường.

Tiết 4: “Sử dụng một biện pháp nghệ thuật trong văn bản
thuyết minh” giúp học sinh hiểu rằng: để cho bài văn thuyết minh
sinh động, hấp dẫn, gây ấn tượng, người ta có thể sử dụng một số
biện pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ,
nhân hoá hoặc các hình thức vè, diễn ca…và cho học sinh biết cách
sử dụng một số biện pháp nghệ thuật vào văn bản thuyết minh.
Tiết 5: “Luyện tập sử dụng một số biện pháp nghệ thuật
trong văn bản thuyết minh” giúp học sinh biết cách vận dụng một số
biện pháp nghệ thuật vào văn bản thuyết minh.
Tiết 9: Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh.
Tiết 10: Luyện tập Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản
thuyết minh.
21
Nhằm: + Củng cố kiến thức đã học về văn thuyết minh.
+ Hiểu vai trò, tác dụng của yếu tố miêu tả trong văn thuyết
minh.
+ Có ý thức và biết sử dụng tốt yếu tố miêu tả trong việc
tạo lập văn bản thuyết minh.
Tiết 79, 80, 163, 164: Ôn tập và tổng kết phần làm văn.
3.2.4.So sánh văn thuyết minh và thuyết minh có yếu tố nghệ
thuật:
Giữa văn thuyết minh và văn thuyết minh có kết hợp yếu tố
nghệ thuật có điểm giống nhau là đều vận dụng tri thức khách quan,
thực dụng.
Điểm khác nhau:
Văn thuyết minh:
Không kết hợp các yếu tố nghệ thuật
Làm nổi bật đối tượng bằng tri thức khách quan nên không tránh
khỏi sự khô khan. . .ít thuyết phục, ít hấp dẫn.
Văn thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật:

Có vận dụng, kết hợp các yếu tố nghệ thuật.
Bài văn thuyết minh có chất lượng, đạt hiệu quả cao hơn.
Bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn, gây ấn tượng.
Vừa gây hứng thú nhưng không làm lu mờ đối tượng thuyết
minh.
Bằng ví dụ cụ thể giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt giữa
các đoạn văn thuyết minh đơn thuần với văn thuyết minh có yếu tố
nghệ thuật như:
Khi thuyết minh về nơi ở và làm việc của Bác thì Lê Anh Trà
chỉ cần viết: Nơi ở của Bác là một ngôi nhà sàn nhỏ với diện tích
700m
2
, mái ngói, vách gỗ, vỏn vẹn vài phòng để tiếp khách, làm việc
22
và ngủ. . . đồ đạc hết sức ít ỏi, đơn sơ, mộc mạc như: một chiếc quạt,
một bộ bàn, ấm chén, lọ hoa, máy đánh chữ, một chiếc đài phát thanh
Liên Xô cũ,. . .
Chỉ mang tính cách là giới thiệu, miêu tả, liệt kê đơn thuần.
Nhưng khi đến với đoạn văn: “Đến thăm nhà Bác với địa điểm
không gian thoáng mát, yên tĩnh, thơm ngát hương hoa, . . . Đến thăm
phòng ngủ của Bác càng thương Bác hơn: chiếc giường nhỏ bằng gỗ
thường, mộc mạc không mùi sơn, trên trải chiếu cói, một chiếc gối vải
đã sờn cũ. Trên gối một chiếc quạt nan nằm lặng lẽ. Chiếc quạt nan
này đã từng thức cùng vị Chủ tịch trong bao đêm hè oi ả, lòng
nặng những lo toan việc nước. Góc phòng, bộ quần áo ka ki bạc
màu, giản dị được treo gọn gàng trên móc áo. Trên ngực áo không
có một tấm huân chương, nhưng bên trong làn áo vải là một trái
tim nóng bỏng, sáng ngời. . .
Đây là thuyết minh có kết hợp yếu tố nghệ thuật nhân hoá, ẩn
dụ, vừa miêu tả, liệt kê. . .

Bài “Hạ Long- đá và nước” là một bài giới thiệu vẻ đẹp của Vịnh
Hạ Long, thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam được công nhận là di sản
văn hoá thế giới.
Nội dung của bài viết là thuyết minh sự kì lạ vô tận của Vịnh Hạ
Long do đá và nước tạo nên. Thông thường, khi giới thiệu về cảnh
đẹp Hạ Long người ta thường nói Vịnh Hạ Long rộng bao nhiêu? Có
bao nhiêu hòn đá? Mang hình thù kì lạ như thế nào?…
Nhưng Nguyên Ngọc giới thiệu Hạ Long theo một phương diện
mà nói tới đó, nước đem đến cho du khách những cảm giác thú vị: thả
cho thuyền nổi trôi hoặc buôn theo dòng, hoặc chèo nhẹ, hoặc lướt
nhanh… trong khi dạo chơi đó, du khách có cảm giác hình thù của các
23
đảo biến đổi kết hợp với ánh sáng, góc nhìn, ban ngày hay ban đêm,
các đảo đá Hạ Long biến thành một thế giới có hồn, một thập loại
chúng sinh sống động.
Trong bài này tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá để
nói về những khối đá trên vịnh đồng thời kết hợp với việc miêu tả
để làm rõ sắc thái những con người đá mà chủ yếu là tưởng
tượng và liên tưởng: tưởng tượng những cuộc dạo chơi (qua những
cụm từ có thể), khơi gợi những cảm giác có thể có (những từ đột
nhiên, bỗng, bỗng nhiên, hoá thân) dùng phép nhân hoá để tả các đảo
đá (gọi chúng là thập loại chúng sinh, là thế giới người, là bọn người
đá hối hả trở về…). Nước tạo như sự di chuyển và khả năng di
chuyển theo mỗi cách tự nhiên, sự thú vị của cảnh sắc thiên nhiên tạo
nên một thế giới sống động biến hoá lạ lùng.
Tường Lan khi thuyết minh về ruồi xanh đã tưởng tượng ra
một phiên toà của Ngọc Hoàng có vệ sĩ Nhện, có tội nhân Ruồi
Xanh, có luật sư bào chữa. Lời khai của Ruồi Xanh chính là một
cách thuyết minh về loài ruồi, họ hàng và nơi sinh sống của nó:
Con là Ruồi Xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh, mắt lưới. Họ hàng con

rất đông gồm Ruồi trâu, Ruồi vàng, Ruồi giấm… Nơi ở là nhà vệ sinh,
chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…, bất kì chỗ nào mà có
thức ăn mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống.
Văn Hùng khi thuyết minh về chiếc kim khâu đã dùng phép
nhân hoá và tự thuật, để cho cây kim tự kể chuyện và giới thiệu
về mình: Trong các dụng cụ của con người, có lẽ chúng tôi thuộc loại
bé nhất. Tuy bé nhưng nhà ai cũng cần đến. Các bạn có biết chúng tôi
là ai không ? Chúng tôi là những cái kim khâu bằng kim loại, bề ngang
độ nửa mi-li-mét, bề dài khoảng hai, ba xăng-ti-mét. . .

24
Bảng so sánh
TT So sánh Giống Khác Tác dụng và hiệu quả
1 Văn
thuyết
minh
- Vận dụng
tri thức
khách
quan.
- Không kết
hợp các yếu
tố nghệ
thuật.
- Làm nổi bật đối tượng
bằng tri thức khách quan
nên không tránh khỏi sự
khô khan… ít thuyết
phục, ít hấp dẫn.
2 Văn

thuyết
minh có
yếu tố
nghệ
thuật.
- Vận dụng
tri thức
khách
quan.
- Có vận
dụng các
yếu tố nghệ
thuật.
- Bài văn thuyết minh có
chất lượng cao hơn, đạt
hiệu quả cao hơn.
- Bài văn thuyết minh
sinh động, hấp dẫn, gây
ấn tượng.
- Vừa gây hứng thú
nhưng không làm lu mờ
đối tượng thuyết minh.
4. Kết quả so sánh số liệu:
So với năm học 2009 - 2010 (khi chưa được sử dụng giải pháp này)
năm học 2010 - 2011 (khi được áp dụng giải pháp).Tôi đã thu được
kết quả - một kết quả khá mĩ mãn - với bảng thống kê như sau:
NĂM
HỌC
LỚP TS
YẾU T. BÌNH KHÁ GIỎI

TS % TS % TS % TS %
2009-
2010
9A
4
9A
5
78 25 32,1 49 62,8 3 3,8 1 1,3
2010-
2011
9A
1
9A
2
73 10 13,7 52 71,2 7 9,6 4 5,5
Khi áp dụng giải pháp “Hướng dẫn học sinh lớp 9 phân biệt văn
thuyết minh với văn thuyết minh có yếu tố nghệ thuật” thì chất
25

×