Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây dựng số 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.99 KB, 92 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
LỜI NÓI ĐẦU
Cạnh tranh xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trường và nó như một tất
yếu khách quan không thể xóa bỏ. Đồng thời, cạnh tranh cũng là một điều
kiện thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với các doanh nghiệp,
cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, nhờ có cạnh
tranh mà họ được thỏa mãn được nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ: chất
lượng sản phẩm ngày càng cao với một mức giá ngày càng phù hợp. Đối
với nền kinh tế quốc dân, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình
đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản
xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội,
đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng
trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và năng động, óc sáng tạo của các
doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới,
nâng cao chất lượng đời sống xã hội.
ở nước ta trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh
hầu như không tồn tại. Mọi quan hệ kinh tế trong giai đoạn này đều do Nhà
nước chi phối, độc quyền quyết định, các doanh nghiệp không có môi
trường cạnh tranh để phát triển và tồn tại một cách bị động phụ thuộc hoàn
cảnh vào nhà Nhà nước. Chính vì vậy, nền kinh tế luôn bị kìm hãm và
không thể phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nước và người ta bắt đầu đề cập nhiều đêná vấn đề cạnh tranh.
Thực tế cho thấy rằng năng lực cạnh tranh của hầu hết các hàng hoá Việt
nam trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn rất yếu kém. Vấn
đề càng trở nên bức xúc khi sản phẩm lực cạnh tranh do quá trình tự do hoá
thương mại, trước hết là thời hạn có hiệu lực của CEPT trong khuôn khổ


Sinh viên: Phan Công Quyền
1
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
AFTA cứ mỗi lúc một gần. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt nam lại tỏ
ra chưa sẵn sàng đối mặt với những thách thứ từ cuộc cạnh tranh gay gắt
ấy. Nếu tình này vẫn tiếp tục được duy trì thì nguy cơ tụt hậu của nền kinh
tế Việt nam sẽ rất nghiêm trọng, nhất là trong bối cảnh xu thế hội nhập kinh
tế khu vực và trên thế giới đang gia tăng. Do vậy, để tồn tại, đứng vững và
phát triển, khẳng định được của mình các doanh nghiệp phải tìm giải pháp
tốt nhất để tăng cường năng lực cạnh tranh của mình trên cả thị trường
trong và ngoài nước. Vấn đề là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy
được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, tận dụng
có hiệu quả những cơ hội có được, nhất là Việt nam đã trở thành thành
viên của ASEAN, APEC và không lâu nữa sẽ gia nhập AFTA, WTO.
Trước tình hình trên, Công ty xây dựng số 7 luôn đặt ra cho mình
mục tiêu là phải nâng cao đựơc năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường. Trong những năm gần đây, công ty đã có quyết định đúng đắn là
phải tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành sản phẩm để có thể duy trì và phát triển uy tín của mình trên
thị trường.
Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được trong thời gian qua
và góp một vài ý kiến trong quá trình đâu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty xây dựng số 7, em đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây dựng số 7 ”.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề phức tạp nên chuyên
đề này chỉ tập trung nghiên cứu một số chỉ tiêu, thực trạng, các vấn đề tồn
tại, khó khăn và đưa ra giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần xây dựng số 7.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

chuyên đề thực tập tốt nghiệp:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư nâng cao năng lực canh tranh tại
doanh nghiệp
Sinh viên: Phan Công Quyền
2
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh và tình hình đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây dựng số 7.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu để đầu tư nâng cao được năng
lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xây dựng số 7.
Trong quá trình viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình của các cô, chú trong Phòng Kế hoạch- Kỹ thuật của Công ty cổ
phần xây dựng số 7, cùng sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong Bộ môn
Kinh tế đầu tư – Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đặc biệt là sự
hướng dẫn nhiệt tình và những ý kiến quý giá của giáo viên hướng dẫn ThS
Phạm Văn Hùng.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó!
Sinh viên: Phan Công Quyền
3
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH TẠI DOANH NGHIỆP
I. Một số vấn đề chung về đầu tư
1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
Xuất phát từ phạm trù phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng
ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư là việc bỏ ra một lượng vốn ban đầu và thu được một số lượng

lớn hơn trong tương lai.
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện
tại để tiến hành các họat động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ qua để đạt được các kết quả đó.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác…), tài
sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn
nhân lực có điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất
xã hội.
Trong kết quả đã đạt được như trên đây, những kết quả là những tài
sản vật chất, trí tuệ.
Trong các kết quả đã đạt được như trên đây, những kết quả là các tài
sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan
trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối
với cả nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử
dụng các nguồn lực ở hiện tại trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn
Sinh viên: Phan Công Quyền
4
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
Đối với một quốc gia, hay một nền kinh tế thì hoạt động đầy tư phát triển
luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh
của chính quốc gia đó. Có thể hiểu đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng
các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ
để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị

và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện
chi phí thường xuyên gắn liền với các hoạt động của các tài sản này nhằm
duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới
cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội. Với những tác dụng to lớn trên, chúng ta nhận thấy rằng
chỉ có đầu tư phát triển mới làm cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển
theo mục tiêu ta lựa chọn.
2. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có các điểm khác biệt với các loại hình
đầu tư khác là:
• Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá
lớn cho đầu tư phát triển.
• Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các
thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với
nhiều biến động xảy ra.
• Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với
các cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi
nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực
và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị,
kinh tế...
Sinh viên: Phan Công Quyền
5
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
• Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử
dụng lâu dài trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại
vĩnh viễn.
• Vị trí của các công trình xây dựng là cố định, các công trình
này sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều

kiện về địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng
như tác động sau này của kết quả đầu tư.
• Ngoài ra, các yếu tố rủi ro đầu tư luôn luôn rình rập. Nếu
người đầy tư, người quản lý không đánh giá đúng hay nhận dạng đủ các
nhân tố rủi ro có thể xảy ra và có kế hoạch quản lý phòng ngừa thì rất dễ
gây ra sự đổ vỡ cho dự án.
3. Vai trò của đầu tư phát triển
3.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước
3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
• Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới,
đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả
các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn
hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho
tổng cầu tăng, kéo theo mức sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các
đầu vào của đầu tư tăng.
• Về mặt cung: khi thành quả cảu đầu tư phát huy tác dụng, các
năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài
hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả giảm.
Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng
đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát
triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng
Sinh viên: Phan Công Quyền
6
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên
trong xã hội.
3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng

cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu
tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng lên làm
cho giá của hàng hoá có liên quan tăng đến mức một mức độ nào đó dẫn
đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ,
đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng
thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng
đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành
này phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, giản tình trạng thất nghiệp,
nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác
động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều
hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ
mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt
này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác
động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
3.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ
tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25%
so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
GDP t¨ng Møc
t­ Çu§ Vèn
=
ICOR
Từ đó suy ra:
Sinh viên: Phan Công Quyền
7
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C

ICOR
t­ Çu§ Vèn
GDP t¨ng Møc
=
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn
đầu tư.
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu
lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng
công nghệ hiện đại có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR
thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể cần phải sử dụng lao
động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có
thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 - 10%) là tăng cường đầu tư
nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với
các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả
năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn.
Như vây, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền
kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối
về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị, ... của những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
3.1.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của
đất nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện
nay.

Sinh viên: Phan Công Quyền
8
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của
Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO,
nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt
nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt nam đang là một trong 90 nước
kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu
không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và
vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự
nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù
là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn
đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư
sẽ là những phương án không khả thi.
3.2. Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở.
Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất
kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm
và lắp đặt thiếu bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng
cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một
chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này
chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ
đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của
các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường
cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ
thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện
hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng

của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho
các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Sinh viên: Phan Công Quyền
9
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản
thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa
lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí
thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt
động đầu tư.
Sinh viên: Phan Công Quyền
10
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
4. Đầu tư xây dựng cơ bản
4.1. Khái niệm
Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân là một bộ phận
của đầu tư phát triển. Đây là quá trình bỏ vốn để tiến hành các hoạt động
xây dựng cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ra các
tài sản cố định trong nền kinh tế. Do vậy đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nền kinh tế nói
chung và của các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Đầu tư xây dựng là
hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản cố định đưa vào hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế xã hội, nhằm thu được lợi ích dưới nhiều hình thức khác nhau. Đầu
tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được thông qua nhiều hình
thức như xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá hay khôi phục tài
sản cố định cho nền kinh tế.
4.2. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản
Để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội không ngừng phát triển, điều kiện

trước tiên và cần thiết là phải đầu tư xây dựng cơ bản. Trong một nền kinh
tế xã hội, đối với bất kỳ một phương thức sản phẩm nào cũng đều phải có
cơ sở vật chất, kỹ thuật tương ứng. Việc đảm bảo tính tương ứng đó là
nhiệm vụ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.
Đầu tư xây dựng cơ bản là điều kiện cần thiết để phát triển tất cả các
ngành kinh tế quốc dân và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng. Những năm
qua, ở nước ta do tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản mà cơ cấu kinh tế đã
có những biến đổi quan trọng. Cũng với việc phát triển các ngành kinh tế
mới đã bắt đầu xuất hiện như bưu điện, hàng không ... Nhiều khu công
nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới đã và đang được hình thành.
Mặt khác, đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề cho việc xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực
sản xuất cho từng nhành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện
Sinh viên: Phan Công Quyền
11
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
phát triển sản xuất xã hội, tăng nhanh giá trị sản xuất và giá trị tổng sản
phẩm trong nước, tăng tích luỹ, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị,
xã hội....
II. Doanh nghiệp - doanh nghiệp ngành xây dựng
1. Khái niệm chung về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các
hoạt động kinh doanh, thực hiện chức năng sản xuất, mua bán hàng hoá,
dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người, xã hội, và kiếm lợi
nhuận thông qua các hoạt động hữu ích đó.
Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày
12/6/1999, "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm

mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh". Theo khái niệm này, trừ
loại hình kinh doanh cá thể, các tổ chức kinh tế đảm bảo các điều kiện về
tài sản, tên riêng, trụ sở giao dịch và có giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh đều được gọi là doanh nghiệp.
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp, nhưng cách phân loại thường
được sử dụng nhiều nhất và có vai trò quan trọng nhất trong việc nghiên
cứu hoạt động của doanh nghiệp là phân loại theo hình thức sở hữu. Theo
đó, doanh nghiệp được phân thành các nhóm sau:
• Doanh nghiệp nhà nước.
• Doanh nghiệp tư nhân.
• Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
• Hợp tác xã.
• Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Sinh viên: Phan Công Quyền
12
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
2. Doanh nghiệp ngành xây dựng
Những năm trước đây, trong thời kỳ bao cấp với nền kinh tế tập trung
mệnh lệnh, dịch vụ xây dựng do các doanh nghiệp của Nhà nước độc quyền
cung ứng theo kế hoạch. Đến nay, mặc dù các doanh nghiệp thuộc sở hữu
Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xây
dựng, nhưng cũng có khá nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân được thành lập. Đặc biệt là có sự tham gia của các nhà cung ứng dịch
vụ nước ngoài.
2.1. Vai trò của doanh nghiệp ngành xây dựng
• Các doanh nghiệp ngành xây dựng có nhiệm vụ tái sản xuất
các tài sản cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất của đất
nước. Có thể nói không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động
văn hoá - xã hội nào là không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng.

• Các công trình xây dựng của các doanh nghiệp có vai trò tăng
năng lực sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đồng thời
tạo sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tạo thêm chỗ làm cho
người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ.
• Các doanh nghiệp ngành xây dựng phải sử dụng một lượng
vốn lớn, do đó một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn
lao rất khó sửa chữa trong nhiều năm.
• Hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng đóng góp
đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
2.2. Đặc điểm và nội dung hoạt động của doanh nghiệp ngành xây dựng
• Tình hình và điều kiện sản xuất trong các doanh nghiệp ngành
xây dựng luôn thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng
và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp xây
dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt
trang bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất
Sinh viên: Phan Công Quyền
13
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
linh hoạt, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn
vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và
liên kết tại chỗ để có thể trúng thầu xây dựng.
• Thời gian xây dựng các công trình thường dài. Đặc điểm này
làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh
nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang còn xây dựng,
các doanh nghiệp xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời
gian, công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vô hình.
• Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có những thời điểm
đòi hỏi một số đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng đến hiện
trương thi công để thực hiện phần việc của mình, trong khi diện tích của

công trình lại có hạn. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có
trình độ tổ chức phối hợp cao trong sản xuất.
• Công việc xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh
hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Đặc điểm này đòi hỏi
doanh nghiệp xây dựng phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết
xấu.
• Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch
do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình
xây dựng, nhưng nếu nó được đặt tại nơi có sẵn nguồn nguyên vật liệu
xây dựng, nguồn máy móc cho thuê và sẵn nhân công, thì doanh nghiệp
nhận thầu xây dựng ở trường hợp này có nhiều cơ hội hạ thấp chi phí
sản xuất và thu được lợi nhuận cao.
Sinh viên: Phan Công Quyền
14
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
III. Cạnh tranh - lợi thế cạnh tranh
1. Cạnh tranh
1.1. Khái niệm
Theo Marx "Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và mua bán hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch".
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là
một yếu tố trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng
phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông
thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả trong cạnh tranh là sẽ có một số doanh
nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi đó một số doanh
nghiệp sẽ tồn tại và phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh
không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng
nâng cao năng suất lao động xã hội. Đó cũng là yếu tố đảm bảo cho sự

thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển.
1.2. Các loại hình cạnh tranh
Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh
làm 3 loại:
• Cạnh tranh giữa người bán và người mua: là cuộc cạnh tranh
diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt.
• Cạnh tranh giữa người mua với nhau: là cuộc cạnh tranh theo
quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa người
mua trở nên quyết liệt, giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ tăng lên.
• Cạnh tranh giữa người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh gay
go và quyết liệt nhất. Đây là cuộc cạnh tranh quyết định sự sống còn của
doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn giành lợi thế cạnh
tranh. Để có thể đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp phải sử
dụng mọi biện pháp khác nhau để tạo cho mình một lợi thế hơn đối thủ.
Sinh viên: Phan Công Quyền
15
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
Nếu căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, người ta chia ra:
• Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh trên
thị trường có nhiều người bán có ưu thế như nhau. Các sản phẩm bán ra
được xem như đồng nhất. Các doanh nghiệp tham gia trên thị trường
này chủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí vào sản xuất một số lượng
sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu
cận biên.
• Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà
phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Người bán có thể
ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm, tuỳ theo khách hàng
cụ thể và mức lợi nhuận mong muốn.
• Cạnh tranh độc quyền là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có

một số người bán một số sản phẩm thuần nhất.
Tóm lại, cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ
thể hoạt động, nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi
tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất hàng hoá phát triển.
1.3. Vai trò của cạnh tranh
• Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường.
• Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thoả mãn nhu cầu
về hàng hoá và dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng với
mức giá cả ngày càng phù hợp với khả năng của họ.
• Đối với nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh là động lực thúc
đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để
phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện
Sinh viên: Phan Công Quyền
16
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
đại hoá nền sản xuất xã hội. Đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền
bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo
vát, năng động và óc sáng tạo trong các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu
thông qua việu tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng chất lượng đời sống xã
hội, phát triển nền văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh.
Để khắc phục được những tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nước là hết sức
quan trọng.
2. Lợi thế cạnh tranh
Đạt được một lợi thế cạnh tranh trên thị trường là mục đích của mọi

doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Việt nam hiện đang trong tình
trạng cạnh tranh kém. Nhưng có phải mọi lợi thế cạnh tranh đều có ý nghĩa
chiến lược hay có thể duy trì trong thời gian dài và liệu một lợi thế cạnh
tranh có đảm bảo cho một chiến lược kinh doanh thành công hay không?
Lợi thế cạnh tranh có phải là ở vốn, công nghệ, lao động hoặc các kỹ năng
sản xuất không? Có thể thấy rằng, nguồn lực về vốn luôn là một nhân tố tác
động đến lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp. Ở đây, không thể chỉ
hiểu nguồn lực này là số lượng vốn có được mà trước hết nó phải là khả
năng sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm cho nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp giảm tương đối, do đó sẽ cần ít vốn hơn cho những nhu cầu
kinh doanh nhất định, từ đó chi phí cho sử dụng vốn sẽ giảm đi, tăng lợi thế
cạnh tranh về chi phí. Khi đã có vốn, một việc làm không thể thiếu của
doanh nghiệp là đầu tư vào trang thiết bị, máy móc, công nghệ. Công nghệ
được đầu tư phải không quá lạc hậu và phù hợp với quy mô cũng như phạm
vi hoạt động của doanh nghiệp thì mới có thể nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh vốn và công nghệ
thì có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, năng lực và một đội ngũ công
Sinh viên: Phan Công Quyền
17
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
nhân lành nghề, có kỷ luật lao động cao sẽ tạo ra cho doanh nghiệp một lợi
thế cạnh tranh không chỉ trước mắt mà còn trong dài hạn.
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp làm thế nào để nhận biết và đạt được lợi
thế cạnh tranh dài hạn. Doanh nghiệp cũng cần phải biết xây dựng chiến
lược kinh doanh khi có một lợi thế cạnh tranh và biết cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác có một lợi thế cạnh tranh dài hạn mà mình không có.
Lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải luôn luôn dễ dàng xác định
được. Các hãng sản xuất bột giặt đều cố gắng xây dựng các lợi thế, nhưng
nó nhanh chóng bị bắt chước ngay sau đó. Trong thị trường hàng điện tử có

hãng đã cố gắng lợi dụng một lợi thế hơn so với đối thủ của mình, nhưng
lợi thế đó lại sớm trở nên không quan trọng với mong muốn của người tiêu
dùng.
Như vậy mọi nhà kinh doanh cần phải khám phá xem một lợi thế cạnh
tranh dài hạn và sự thể hiện thực sự có ý nghĩa đối với cạnh tranh và chiến
lược kinh doanh là gì?
2.1. Các điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn
Mọi doanh nghiệp cần hiểu là họ cần một lợi thế cạnh tranh trước
những khách hàng, người chọn hàng hoá của họ, chứ không phải trước
các đối thủ cạnh tranh. Một lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa chiến lược khi
nó thoả mãn ba điều kiện sau:
• Khách hàng phải nhận biết được sự khác biệt rõ ràng trong
những đặc điểm quan trọng giữa sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và
sản phẩm, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.
• Sự khác biệt đó là kết quả trực tiếp của sự chênh lệch về khả
năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng giữa doanh nghiệp và các đối thủ
cạnh tranh.
• Sự khác biệt trong những đặc điểm quan trọng và khoảng cách
về khả năng có thể hy vọng duy trì được lâu dài.
Sinh viên: Phan Công Quyền
18
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
2.2. Lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh
Khái niệm chiến lược cạnh tranh như "một tập hợp các hoạt động
được thiết kế để tạo ra một lợi thế lâu dài trước các đối thủ cạnh tranh" có
thể chỉ ra rằng: có một lợi thế cạnh tranh dài hạn đồng nghĩa với thành
công. Nói cách khác, những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh dài hạn sẽ
chắc chắn chiến thắng. Những đối thủ cạnh tranh thiếu một lợi thế cạnh
tranh dài hạn nên rút lui khỏi thương trường để tránh các thảm hoạ tài

chính…
Tất nhiên, các kết luận có vẻ hiển nhiên này là sai lầm. Mặc dù một
lợi thế cạnh tranh dài hạn là một công cụ rất hiệu quả cho việc xây dựng
các chiến lược kinh doanh xuất sắc, nó vẫn chỉ là một trong những nhân tố
cần thiết mà thôi. Qua thực tế, các doanh nghiệp Việt nam đã rút ra kết
luận:
• Có lợi thế cạnh tranh dài hạn không chắc đã đảm bảo sự thành
công về tài chính.
• Doanh nghiệp có thể thành công thậm chí khi đối thủ cạnh
tranh có một lợi thế cạnh tranh dài hạn.
• Mưu cầu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nhiều khi mâu thuẫn
với chiến lược kinh doanh hợp lý.
a. Thất bại với một lợi thế cạnh tranh dài hạn
Lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể giúp một doanh nghiệp đạt được kết
quả cao hơn so với đối thủ cạnh tranh, nhưng có ít nhất là 3 trường hợp mà
người sở hữu nó sẽ thất bại:
• Nếu các nhu cầu thị trường không tồn tại: Trong rất nhiều
trường hợp chi phí tối thiểu để sản xuất và tiêu thụ của một loại sản
phẩm hay dịch vụ cụ thể vượt quá giá trị mà người tiêu dùng nhận được.
Trong tình huống này, một lợi thế cạnh tranh dài hạn không thể cứu
được người có nó. Nó chỉ có thể đảm bảo rằng tình trạng của các đối thủ
cạnh tranh còn tồi tệ hơn nhiều.
Sinh viên: Phan Công Quyền
19
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
• Nếu doanh nghiệp gặp phải một số rắc rối trong vận hành: Một
lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể cho phép quản lý tập trung hơn hoạt
động của doanh nghiệp. Nhưng hàng ngàn doanh nghiệp thất bại do sự
vận hành, hơn là do các lý do chiến lược. Nhiều doanh nghiệp Việt nam

rõ ràng là rơi vào trường hợp này.
• Nếu các đối thủ cạnh tranh phản ứng mạnh mẽ: Một lợi thế
cạnh tranh dài hạn ít khi đặt doanh nghiệp hoàn toàn vượt tầm với của
các đối thủ cạnh tranh chẳng hạn như các chính sách giảm giá để tăng tỷ
phần thị trường có thể mất tác dụng do các đối thủ hạ theo.
Trong những trường hợp này, doanh nghiệp phải lựa chọn cách hành
động rất cẩn thận. Các hoạt động dễ bị bắt trước chỉ dẫn đến sự cạnh tranh
mạnh mẽ và khi ấy những lợi thế của doanh nghiệp là mục tiêu của những
đòn phản công của đối thủ.
b. Cạnh tranh với đối thủ có một lợi thế cạnh tranh dài hạn
Không phải mọi người sản xuất đều có thể có một lợi thế cạnh tranh
dài hạn, có những người sản xuất phải đương đầu với sự cạnh tranh trong vị
trí bất lợi. Trong một số trường hợp họ vẫn có khả năng thành công.
Những thị trường phát triển mạnh mẽ tạo ra tình huống như vậy. Sự
tăng trưởng thị trường thực sự trong những thời kỳ nhất định… khiến các
đối thủ yếu cũng có thể phát đạt. Ví dụ, sự bùng nổ trong thị trường phần
mềm máy vi tính trong 5 năm gần đây đã làm cho nhiều công ty nhỏ bế trở
nên giàu có. Chỉ khi thị trường tăng trưởng chậm lại hay các đối thủ có lợi
thế tăng lên, thị trường sẽ điều chỉnh sự cạnh tranh và tác động của lợi thế
cạnh tranh và tác động của lợi thế cạnh tranh dài hạn mới thể hiện.
Nếu doanh nghiệp dẫn đầu thị trường chỉ có một lợi thế hời hợt hay
không quan trọng, nhiều đối thủ bất lợi có thể có khả năng thu hẹp khoảng
cách. Mỗi đối thủ cạnh tranh đều có khả năng về một khía cạnh nào đó. Sau
khi xem xét mọi khía cạnh, mỗi doanh nghiệp có thể tìm ra được lợi thế
cạnh tranh trong phục vụ một số khách hàng nhất định. Những đối thủ bất
Sinh viên: Phan Công Quyền
20
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
lợi này có thể phải nhận những thu nhập thấp hơn so với đối thủ số một,

nhưng những thu nhập này chắc chắn tồn tại.
Trong thực tế, một số doanh nghiệp nhỏ vẫn có thể tồn tại có hiệu quả
bên cạnh đối thủ số một khi thoả mãn hai điều kiện sau:
• Nếu lợi thế của đối thủ số một bị hạn chế do giới hạn khả năng
quá nhỏ so với quy mô thị trường. Do vậy, họ có thể mở rộng thị trường
hơn nhưng sẽ không giữ được lợi thế dài hạn. các cản trở như: sự khan
hiếm các vật liệu chính, giới hạn khả năng hạ giá thành sản xuất, chi phí
vận tải đắt đỏ, luật chống độc quyền… cũng giới hạn khả năng mở rộng
lợi thế.
• Nếu kích thích của mỗi đối thủ là nhỏ bé so với quy mô thị
trường, trong trường hợp này các đối thủ mạnh có thể mở rộng khả năng
bằng cách chiếm tỷ phần từ các đối thủ yếu. Sự lựa chọn của doanh
nghiệp nhỏ có thể là:
+ Rút lui khỏi thị trường.
+ Cố gắng chịu đựng tới khi các lợi thế bị xoá bỏ.
+ Tìm cách tạo ra một lợi thế mới: nếu một doanh nghiệp yếu chọn
một lợi thế mới, nó phải chắc chắn rằng lợi thế này ưu việt hơn, hay các đối
thủ khác không thể đối phó được cho tới khi doanh nghiệp củng cố được vị
trí của mình. Nếu không các lợi thế của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị
bắt chc và sẽ bị loại bỏ.
c. Tìm kiếm một lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Mặc dầu việc đạt được lợi thế cạnh tranh dàn hạn là mục tiêu của lược
cạnh tranh, nhưng lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải là mục đích mà chỉ
là một phương tiện để đạt đực mục đích. Các doanh nghiệp tham gia
thương trường không phải để chống lại các đối thủ cạnh tranh mà để làm
giàu có thêm cho mình. Do đó, việc tạo ra một lợi thế cạnh tranh dài hạn
nhưng làm giảm sự gia tăng tài sản có thể là một chiến lược tốt theo quan
niệm cạnh tranh nhưng lại là một chiến lược tồi với doanh nghiệp.
Sinh viên: Phan Công Quyền
21

Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
Rõ ràng vấn đề chủ yếu mà mỗi doanh nghiệp Việt Nam quan tâm là
làm thế nào để đạt được một lợi thế cạnh tranh dài hạn, hơn nữa doanh
nghiệp phải biết sử dụng chúng trong xác lập chiến lược kinh doanh. Các
điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn và những tác động của lợi thế cạnh
tranh dài hạn và những tác động của lợi thế cạnh tranh dài hạn tới chiến
lược phân tích ở trên đã cung cấp một cơ chế hoạt động cơ bản cho doanh
nghiệp. Tất nhiên kết quả cuối cùng phụ thuộc vào sự vận dụng của từng
doanh nghiệp.
3. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp.
3.1. Giá cả.
Giá cả sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua
chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường có sự kết
hợp với một số điều kiện khác. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả mà
doanh nghiệp có thể kiểm soát là chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán
hàng, chi phí lưu thông. Để bán được hàng và nâng cao ưu thế trong cạnh
tranh, các doanh nghiệp phải đưa ra giá cả sản phẩm thấp hơn các đối thủ
cạnh tranh. Chính vì vậy, doanh nghiệp phải tìm mọi cách để hạ giá thành
sản phẩm như thuê nhân công với giá thấp, đặt nhà máy tại nơi có nguồn
nguyên liệu vật liệu để tránh mọi chi phí vận chuyển…
3.2. Mẫu mã và chất lượng sản phẩm
Mẫu mã và chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế sản
phẩm cho đến khâu hoàn thành sản xuất sản phẩm và đem ra tiêu thụ sản
phẩm. Có nhiều yếu tố tác động đến mẫu mã và chất lượng sản phẩm như
trình độ thiết kế sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu làm nên sản phẩm
đó, chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị, tình trạng ổn định của công
nghệ chế tạo và đặc biệt là chất lượng lao động của đội ngũ công nhân.
Các doanh nghiệp muốn cạnh tranh cần phải tuân thủ nguyên tắc chất
lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao khi. Ngoài ra, để có được lợi

Sinh viên: Phan Công Quyền
22
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
thế cạnh tranh thì các doanh nghiệp cũng phải luôn thay đổi mẫu mã phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và đặc biệt nó phải có sức thu hút lớn
đối với mọi đối tượng là khách hàng.
3.3. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
Đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm của doanh nghiệp từ nơi sản
xuất đến nơi tiêu thụ. Tuỳ theo từng đặc điểm của doanh nghiệp, của hàng
hóa và thị trường tiêu thụ mà các doanh nghiệp áp dụng một loại kênh hoặc
tập hợp các kênh tiêu thụ, sử dụng chúng như một công cụ cạnh tranh để
đẩy mạnh hoạt động tiêu thu hàng hóa.
3.4. Hoạt động giao tiếp khuyếch trương.
Hoạt động này bao gồm chào hàng, quảng cáo, tiếp thị, khuyến thị,
chiêu khách và một số hình thức khác.Trước hết, doanh nghiệp phải xác
định xem bằng cách nào, với chi phí bao nhiêu để đưa sản phẩm đến tay
người tiêu dùng và khuyến khích họ mua sản phẩm của mình mà không
mua sản phẩm của người khác. Tiếp đến, doanh nghiệp phải nghiên cứu
được khách hàng là ai ? Ai là người mua chủ yếu? Sở thích của họ đối với
sản phẩm nào? Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải nghiên cứu các
phương án giới thiệu sản phẩm và các phương thức thanh toán linh hoạt,
hợp lý.
3.5. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín là một công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp trước
các đối thủ cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp phải luôn nâng cao uy tín
của mình trên thị trường. Khi doanh nghiệp có uy tín cao thì chắc sản phẩm
của doanh nghiệp sẽ được khách hàng tiêu dùng nhiều hơn và như vậy thì
doanh nghiệp đã đạt được lợi thế trong cạnh tranh.
Sinh viên: Phan Công Quyền

23
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
IV. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
1. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư hợp lý.
Vốn và cơ cấu vốn đầu tư là một trong những yếu tố quyết định đến
năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động
nếu như thiếu vốn thì không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Nhưng
ngược lại nếu doanh nghiệp có nhiều vốn mà không có một cơ cấu vốn phù
hợp với thực trạng hoạt động của công ty thì cũng không thể nâng cao được
lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính vì thế, để có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh thì trước
hết đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, và đồng thời
phải luôn có một cơ cấu vốn hợp lý.
2. Đầu tư vào tài sản cố định.
Đầu tư vào TSCĐ đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi hai lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn
đầu tư.
Thứ hai, Đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm – hoạt động chính của
mỗi doanh nghiệp.
Như vậy, hoạt động đầu tư vài tài sản cố định đóng vai trò quan trọng
nhất nếu không muốn nói là quyết dịnh đối với phần lợi nhuận thu được
cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các hãng thường tăng
cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được cơ hội có lợi để mở
rộng sản xuất hoặc vì họ có thể giảm bớt chi phí bằng cách chuyển sang
những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn. Nhưng việc đầu tư quá
lớn cho tài sản cố định lại đồng nghĩa với việc vốn khê đọng lớn. Do vậy,
doanh nghiệp cần phải xác định mức hợp lý cho tài sản cố định, phù hợp
với khả năng cũng như quy mô hoạt động của doanh nghiệp.

Sinh viên: Phan Công Quyền
24
Chuyên đề tốt nghiệp Lớp: Kinh tế Đầu tư
41C
Như chúng ta đã biết, trong quá trình sử dụng, tài sản cố định có sự
giảm dần về giá trị, đây chính là sự hao mòn tài sản cố định . Chính vì đặc
điểm này mà trong quá trình vận hành sử dụng các tài sản loại này, cần
phải có sự tính toán khấu hao và dành một phần lợi nhuận của doanh
nghiệp để hình thành nên quỹ đầu tư cho tài sản cố định. Khi tiến hành
trích khấu hao cần phải xem xét các yếu tố:
- Tình hình tiêu thụ sản phẩm do tài sản cố định đó tạo ra trên thị
trường.
- Hao mòn vô hình của tài sản.
- Vốn đầu tư cho tài sản cố định
3. Đầu tư vào nguồn nhân lực.
Nếu như tài sản cố định là một bộ phận quan trọng hình thành nên
năng lực sản xuất của doanh nghiệp thì có thể coi nguồn nhân lực là bộ
phận quyết định đến việc vận hành quá trình sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại nhưng không
có đội ngũ lao động có trình độ thì việc vận hành hoạt động sản xuất kinh
doanh không hiệu quả và dẫn đến việc đưa doanh nghiệp thất bại trước các
đối thủ cạnh tranh.
Nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường đóng vai trò hết sức quan
trọng, vì thế, trong chiến lược phát triển, doanh nghiệp không thể không đề
cập đến vấn đề đầu tư đào tạo cho đội ngũ lao động của mình. Để hoạt
động đầu tư có hiệu quả cần phân chia nguồn nhân lực ra thành đội ngũ cán
bộ quản lý, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học và đội ngũ
nhân công trực tiếp lao động.
Trong các doanh nghiệp, đội ngũ quản lý, đặc biệt là hàng ngũ giám
đốc là một trong các yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động có hiệu

quả, tuy nhiên phải thừa nhận rằng chúng ta chưa có những nhà quản lý
doanh nghiệp giỏi theo cơ chế thị trường, vì vậy việc tổ chức đào tạo có
Sinh viên: Phan Công Quyền
25

×