Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xây dựng và chuyển giao kỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.55 KB, 86 trang )

Trần Thu Thủy 1 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, nước ta đã liên tục thu được những thành
tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao…đặc biệt đầu
năm 2007 nước ta chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Trong một thập kỷ qua, các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và số lượng. Tuy nhiên, bên cạnh
những cơ hội, quá trình hội nhập cũng đang đặt ra những thách thức lớn cho
các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể nói rằng luật chơi cơ bản của WTO là cắt
giảm thuế quan, xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan, xoá bỏ trợ cấp, mở cửa thị
trường, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt
về chủ sở hữu, quốc gia, đảm bảo tài sản trí tuệ và bản quyền…Những quy
định đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị
trường, thâm nhập vào thị trường của nhau, thu hút vốn đầu tư, công nghệ, kỹ
năng quản lý…Nền kinh tế nước ta còn rất non trẻ, xuất phát điểm là nghèo
nàn, lạc hậu, các doanh nghiệp tuy đã có những bước phát triển lớn cả về quy
mô và số lượng, song năng lực cạnh tranh hiện còn rất yếu. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp được nhìn nhận trên các mặt cơ bản như: vốn, năng
suất lao động, máy móc thiết bị, công nghệ, nguồn nhân lực, trình độ quản lý,
khả năng tiếp cận, chiếm lĩnh thị trường và thương hiệu. Về các mặt trên, nhìn
chung doanh nghiệp của chúng ta còn rất yếu, nhất là những doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Sự yếu kém đó thể hiện qua nhiều yếu tố:
- Về quy mô vốn và năng lực tài chính của đại bộ phận doanh nghiệp
còn rất nhỏ, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
- Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý còn nhiều hạn
Trần Thu Thủy 2 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
chế về kiến thức và kỹ năng quản lý, một bộ phận cán bộ quản lý còn thiếu
kiến thức kinh tế xã hội và kỹ năng quản trị. Từ đó dẫn đến khuynh hướng
chủ yếu là hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược,


thiếu kiến thức trên các phương diện khác: quản lý, tổ chức, phát triển thương
hiệu, chiến lược cạnh tranh, trình độ tin học và công nghệ thông tin…
- Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao
làm yếu năng lực cạnh tranh.
- Nhận thức và sự chấp hành pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là các quy
định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở
hữu công nghiệp…
- Sự yếu kém về thương hiệu cũng góp phần làm yếu năng lực cạnh
tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa xây
dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng
trên thị trường khu vực và quốc tế.
Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường, do đó nâng cao năng
lực cạnh tranh là vấn đề sống còn trong hoạt đông kinh doanh và phát triển
của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh càng có nhiều cơ hội hoặc xuất
hiện các nguy cơ thì cạnh tranh để tồn tại và phát triển ngày càng trở nên gay
gắt giữa các doanh nghiệp. Cạnh tranh không phải sự huỷ diệt mà là sự thay
đổi, thay thế những doanh nghiệp không biết đón nhận cơ hội kinh doanh
bằng những doanh nghiệp biết nắm bắt thời cơ và phát huy tối đa sức mạnh
của mình. Chính vì vậy, cạnh tranh là động lực phát triển không những của
mỗi doanh nghiệp mà suy rộng ra còn cho cả mỗi quốc gia.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện sức mạnh
của doanh nghiệp về nhiều mặt. Các doanh nghiệp ngày càng phải duy trì
được lợi thế cạnh tranh của mình, có như vậy thị trường mới có thể cung cấp
những dịch vụ hay sản xuất có hiệu quả cao hơn. Hơn nữa vấn đề cạnh tranh
Trần Thu Thủy 3 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
của các doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam vẫn là bài
toán khó đối với các nhà quản lý khi phải dần hoà nhập vào sân chơi chung
của thế giới và là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới.
Công ty Cổ phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật là một doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, là doanh nghiệp có quy mô vừa.

Tham gia vào thị trường xây dựng từ năm 1988, qua gần hai thập kỷ, đơn vị
không ngừng gia tăng tốc độ tăng trưởng cả về quy mô và chất lượng tăng
trưởng. Tuy nhiên, với đặc thù là một doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc
Tổng Công ty Xây dựng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong những
năm qua năng lực cạnh tranh của Công ty còn những hạn chế nhất định.
Chính vì thế việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp nhằm
xây dựng và đưa ra các giải pháp đồng bộ giúp các doanh nghiệp nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường là một yêu cầu bức xúc trước mắt và lâu
dài cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý nghĩa đó, đề tài “ Nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật”
được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp cao học Quản trị kinh doanh.
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xây dựng với điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Xây
dựng và Chuyển giao kỹ thuật trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và các
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Do giới hạn của đề tài nên ở đây chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của Công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực kinh
doanh xây lắp (từ năm 2005 đến năm 2007), các lĩnh vực hoạt động khác
chưa được nghiên cứu đầy đủ trong luận văn này.
Trần Thu Thủy 4 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
1.3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thị
trường xây dựng, cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây
dựng. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp xây dựng trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập khu vực
và quốc tế.
- Khảo sát, phân tích tổng quát năng lực cạnh tranh của một số doanh

nghiệp xây dựng trong một số năm vừa qua, qua đó đi sâu phân tích và đánh
giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong hoạt động xây dựng
của Công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật nhằm chỉ ra được
những mặt mạnh, yếu, những thành quả đạt được, những tồn tại và nguyên
nhân chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Xây
dựng và Chuyển giao kỹ thuật.
- Dự báo tình hình phát triển và những chỉ tiêu phát triển cơ bản của
công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật trong một số năm tới trên
cơ sở phân tích các kết quả đã đạt được của công ty qua một số năm và những
ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế xã hội đến việc lập chiến lược kinh
doanh của công ty như: chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước của Chính phủ và Tổng Công ty Xây dựng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đối với đơn vị; bối cảnh nền kinh tế nước ta trong xu thế hội nhập
sâu với khu vực và quốc tế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thực
hiện chiến lược kinh doanh của Công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao
kỹ thuật trong những năm sắp tới.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp phân tích tổng hợp vấn
đề; nghiên cứu định tính, mô hình hoá các số liệu điều tra thực tế, tiếp cận hệ
Trần Thu Thủy 5 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
thống, lựa chọn tối ưu, phương pháp chuyên gia .
1.5. Đóng góp của Luận văn
- Thứ nhất, góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
- Thứ hai, khảo sát và phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh
của Công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật trong thời điểm hiện
tại.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh của Công

ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao kỹ thuật trong thời gian tới.
1.6. Kết cấu của Luận văn
Đề tài bao gồm các nội dung sau:
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Đóng góp của luận văn
1.6. Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
2.1. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp xây dựng
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG
TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT
3.1. Tổng quan về công ty
Trần Thu Thủy 6 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
3.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Xây dựng và
Chuyển giao kỹ thuật
3.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Xây dựng và
Chuyển giao kỹ thuật
3.4. Vị thế cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Xây dựng và Chuyển giao
kỹ thuật trên thị trường
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ CHUYỂN
GIAO KỸ THUẬT
KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN

Trần Thu Thủy 7 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
2.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
2.1.1. Khái niệm chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là thuật ngữ gắn liền với nền kinh tế hàng hóa, vận hành
theo cơ chế thị trường. Ở đó, người sản xuất phải giải quyết cho được ba vấn
đề lớn: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào?. Bất kỳ một
sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội nào đều đem đến cho các nhà sản xuất,
cung ứng những rủi ro đầy thách thức và những cơ hội hết sức hấp dẫn dù là
trước mắt hay tiềm năng. Môi trường kinh tế hiện đại luôn tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp đối phó với các tình huống rủi ro và đồng thời tạo điều kiện
cho họ tìm hiểu thời cơ để đưa ra sản phẩm, dịch vụ mới để chiếm lĩnh thị
trường, thỏa mãn các nhu cầu của thị trường đòi hỏi để đạt mục đích của nhà
sản xuất là tìm kiếm lợi nhuận và tối đa hóa lợi nhuận. Trong bức tranh kinh
tế có muôn ngàn doanh nghiệp đó, họ sẽ ra sức tìm kiếm các giải pháp kinh
tế, kỹ thuật nhằm giành ưu thế so với các doanh nghiệp khác. Đối thủ đó được
coi là các đối thủ cạnh tranh, quan niệm về cạnh tranh được nhiều nhà kinh tế
học khái quát lại trên các giác độ khác nhau:
Thời kỳ đầu, hoàng kim của cơ chế thị trường, ông Adam Smith cho
rằng: Cạnh tranh như là một "Bàn tay vô hình" để điều khiển các hoạt động
của các thành viên kinh tế trong xã hội. Theo quan điểm của trường phái này
thì cạnh tranh chủ yếu về giá, coi trọng về lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối.
Các nhà kinh tế học hiện đại như: Samuelson, David Begg, Weken và
KantenBach đưa ra lý thuyết cạnh tranh trên giác độ tính chất và tác động của
cạnh tranh như: Cạnh tranh không hoàn hảo, cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh
Trần Thu Thủy 8 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
mang tính chất độc quyền.
Quan điểm về cạnh tranh của Joesphhupter và Clark thiên về giác độ

hiệu quả, coi đó như là tiền đề và hệ quả của việc thu lợi nhuận tối đa bằng
việc đi tiên phong trong việc tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm có kỹ thuật -
công nghệ mới, sản phẩm thay thế Quan điểm này đang phát huy sức mạnh
của nó và tồn tại chủ yếu ở dạng cạnh tranh độc quyền, cạnh tranh trong môi
trường có nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng lại có tiềm lực rất khác nhau.
Trong cuộc chạy đua để các doanh nghiệp tồn tại, phát triển và tối đa
hóa lợi nhuận, có rất nhiều phương diện cạnh tranh cần xem xét: Cạnh tranh
giữa các nhà sản xuất với nhau, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất với nhà cung
ứng, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất hàng truyền thống với các nhà sản xuất
hàng thay thế, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất với khách hàng.
Các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì phải chấp nhận cơ
chế thị trường: Có nghĩa là phải đưa ra thị trường và được thị trường chấp
nhận hàng hóa đó, kết quả cuối cùng phải trang trải chi phí sản xuất và thu lợi
nhuận. Để đạt được điều đó, họ phải làm sao thỏa mãn nhu cầu khách hàng
một cách tốt nhất so với các đối thủ cạnh tranh khác và cuộc cạnh tranh không
mong muốn đã xảy ra. Trong cuộc chiến này có kẻ thắng, người thua nhưng
khách hàng lại được đề cao và hưởng lợi.
Muốn chiến thắng, các doanh nghiệp phải dùng đến các "vũ khí cạnh
tranh" (Nhà xuất bản Thống kê - 1996), là sự kết hợp những năng lực nội tại
(nội lực) như tiềm lực tài chính, kỹ thuật công nghệ, nguồn nhân lực với khai
thác và chịu tác động của các yếu tố bên ngoài kể cả bất lợi và có lợi (ngoại
lực) như mối quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp, quan hệ với các cơ quan
quản lý, địa phương, môi trường sinh thái. Doanh nghiệp phải đưa ra được
những chiến lược cạnh tranh ngắn hạn, dài hạn để giúp doanh nghiệp tiêu thụ
được nhiều sản phẩm với đích cuối cùng là doanh nghiệp trụ vững, thu được
Trần Thu Thủy 9 Quản trị kinh doanh tổng hợp K15
lợi nhuận tối đa, và phát triển mở rộng sản xuất.
Các tác giả: Trần Hoàng Kim và Lê Thu trong sách "Vũ khí cạnh tranh"
đã đưa ra khái niệm cạnh tranh: "Thực chất cạnh tranh của các doanh nghiệp
là sự giành giật các lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ nhằm

thu lợi nhuận lớn nhất".
Với các vấn đề đã đưa ra, có thể có một quan niệm đầy đủ về cạnh
tranh là quá trình bao gồm các hành vi và các phản ứng, trong đó các doanh
nghiệp tham gia sử dụng các phương thức, các nguồn lực của mình dưới sự
tác động của các yếu tố bên ngoài, nhằm tạo cho doanh nghiệp một lợi thế
cạnh tranh tuyệt đối và tương đối so với các đối thủ khác với mục tiêu chiếm
được thị phần và tối đa hóa lợi nhuận, đưa doanh nghiệp phát triển về quy mô
và ảnh hưởng của mình trong thị trường.
Khái niệm năng lực cạnh tranh (competitiveness) thường dùng để nói
đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các
hãng khác nhờ có chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ trong so sánh
quốc tế (theo nhà kinh tế Alan V. Deardorff)
Năng lực cạnh tranh là khả năng tạo cho doanh nghiệp một lợi thế cạnh
tranh tuyệt đối và tương đối so với các đối thủ khác với mục tiêu chiếm được
thị phần và tối đa hóa lợi nhuận, đưa doanh nghiệp phát triển về quy mô và
ảnh hưởng của mình trong thị trường.
Năng lực cạnh tranh là “năng lực duy trì được lợi thế cạnh tranh là lợi
nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”.
Tuy nhiên, có thể nói khái niệm nổi tiếng nhất thế giới về năng lực
cạnh tranh là của Michael Porter. Ông đã đưa ra rất nhiều khái niệm nhưng “
suy cho cùng năng lực cạnh tranh chính là năng suất – productivity”.
Năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên năng suất, giá trị của hàng
hoá và dịch vụ làm ra tính trên một đơn vị nhân lực, vốn, tài nguyên của một
Trần Thu Thủy 10 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
quốc gia. Năng suất cao tạo ra mức lương cao (cho người làm công), đồng
tiền mạnh (cho một quốc gia), lợi nhuận hấp dẫn trên nguồn vốn và cuối cùng
là mức sống cao cho người dân.
2.1.2. Các hình thức cạnh tranh, phương thức cạnh tranh
Cạnh tranh được xem xét dưới nhiều khía cạnh, hình thức khác nhau

như: Cạnh tranh tự do; cạnh tranh thuần túy; cạnh tranh hoàn hảo; cạnh tranh
không hoàn hảo; cạnh tranh lành mạnh; cạnh tranh không lành mạnh Các
hình thức cạnh tranh phụ thuộc vào tính chất của thị trường và bản chất của
nền kinh tế.
2.1.2.1. Cạnh tranh tự do được hiểu như là một nền kinh tế phát triển một
cách tự do, không có sự can thiệp của nhà nước, trong đó giá cả lên xuống
theo sự chi phối của các quy luật thị trường. Cùng với các quy luật kinh tế thị
trường, đặc biệt là quy luật giá trị, cạnh tranh tự do dẫn đến sự phân hóa hai
cực giàu, nghèo rõ rệt.
2.1.2.2. Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect competition) hay còn gọi là cạnh
tranh thuần túy (Pure competition) là hình thức cạnh tranh trong đó giá cả của
một loại hàng hóa là không đổi trong toàn bộ một địa danh của thị trường; các
yếu tố sản xuất được tự do luân chuyển từ ngành này sang ngành khác; chi phí
vận tải không đáng kể và không đề cập tới.
Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi không một người sản xuất nào có thể
tác động đến giá cả trên thị trường. Mỗi người sản xuất đều phải bán sản
phẩm của mình theo giá thịnh hành mà thị trường đã chấp nhận thông qua
quan hệ cung - cầu. Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh
nghiệp nhỏ sản xuất một mặt hàng y hệt nhau và sản lượng từng doanh nghiệp
quá nhỏ không thể tác động đến giá cả thị trường. Cạnh tranh hoàn hảo muốn
tồn tại cần phải có các điều kiện:
- Tất cả các hãng kinh doanh trong ngành đó có quy mô tương đối nhỏ;
Trần Thu Thủy 11 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
- Số lượng các hãng kinh doanh trong các ngành đó phải rất nhiều.
Trong điều kiện như vậy không có công ty nào có đủ sức mạnh để có
thể ảnh hưởng đến giá cả của các sản phẩm của mình trên thị trường. Sản
phẩm của các hãng đưa ra trên thị trường giống nhau tới mức cả người sản
xuất và người tiêu dùng đều rất khó phân biệt.
2.1.2.3. Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect competition): là hình thức

cạnh tranh, mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức
mạnh và thế lực để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị
trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh
mang tính chất độc quyền.
Độc quyền nhóm (Oligopoly): tồn tại trong những ngành sản xuất, mà
ở đó chỉ có một số ít người sản xuất hoặc số ít người bán sản phẩm. Sự thay
đổi về giá của một doanh nghiệp gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhu
cầu đối với sản phẩm của các doanh nghiệp khác và ngược lại. ở các nước
phát triển, các ngành công nghiệp có độc quyền nhóm là những ngành như
sản xuất ô tô, cao su, chế biến thép
Cạnh tranh mang tính độc quyền (Monopolistic competition): là hình
thức cạnh tranh mà ở đó những người bán có thể ảnh hưởng đến những người
mua bằng sự khác nhau của các sản phẩm mà mình sản xuất ra về hình dáng,
kích thước, chất lượng và nhãn hiệu. Trong nhiều trường hợp, người bán có
thể bắt người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ định ra. Trong hình thức
cạnh tranh này có nhiều người bán và nhiều người mua. Các sản phẩm của
người bán về cơ bản là giống nhau song khác nhau về mẫu mã, chất lượng,
màu sắc Các hãng kinh doanh thường cố gắng tạo ra các sản phẩm của họ
phong phú, có nhiều điểm khác biệt so với các sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh. Trong ngành công nghiệp cạnh tranh kiểu này, quy mô của các doanh
Trần Thu Thủy 12 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
nghiệp có thể là lớn, vừa, nhỏ vì vậy việc nhập và bỏ ngành hàng dễ dàng
hơn.
2.1.2.4. Cạnh tranh lành mạnh (Healthy competition): là hình thức cạnh
tranh lý tưởng, trong sáng thúc đẩy sản xuất phát triển, không có những thủ
đoạn hoặc âm mưu đen tối trong sản xuất, kinh doanh của các nhà doanh
nghiệp, thể hiện phẩm chất đạo đức trong kinh doanh, không trái với các quy
định của các văn bản pháp luật và không đi ngược lại lợi ích xã hội. Việc tính

toán thu lợi nhuận trên cơ sở cải tiến, sáng tạo để sản xuất và cung cấp cho xã
hội nhiều sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, đáp
ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
2.1.2.5. Cạnh tranh không lành mạnh (Unfair competition): là hình thức
cạnh tranh mà trong quá trình sản xuất và kinh doanh các nhà doanh nghiệp
luôn có thái độ không trung thực, gian dối như: biếu xén, hối lộ để giành ưu
thế trong kinh doanh; vu khống về chất lượng sản phẩm hàng hóa của đối tác
cạnh tranh; tung ra thị trường sản phẩm kém chất lượng mang nhãn hiệu của
đối thủ cạnh tranh; ngăn cản việc phân phối sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
bằng các hành vi trái pháp luật, sử dụng "chiến tranh giá cả" để loại bỏ đối thủ
cạnh tranh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong mọi lĩnh
vực và được biểu hiện đa dạng. Một số doanh nghiệp có thể liên kết, thỏa
thuận ngầm với nhau trong việc đấu thầu công trình công cộng hay nhận một
hợp đồng sản xuất nào đó. Họ thỏa thuận với nhau và phân chia cho từng
doanh nghiệp trong từng thời điểm có thể thắng thầu mà rất hợp pháp, khó bị
phát hiện, được coi như trường hợp ngẫu nhiên. Ngoài các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thuần túy còn xuất hiện các hành vi lạm dụng thế mạnh về
kinh tế, tài chính để cạnh tranh thể hiện tính chất "cá lớn nuốt cá bé" (như:
bán phá giá chẳng hạn).
Trần Thu Thủy 13 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
2.1.2.6. Cạnh tranh bất hợp pháp (Fraudulent competition) là những hành
vi của các nhà kinh doanh thực hiện cạnh tranh trái với quy định của pháp
luật, đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán truyền thống của kinh doanh
lành mạnh, xâm phạm lợi ích của xã hội, của nhà nước, của người tiêu dùng
và của các nhà kinh doanh khác.
Cạnh tranh là môi trường tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường.
Không có cạnh tranh sẽ không có tính năng động và sáng tạo trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Song xã hội dần dần sẽ chỉ chấp nhận hành vi cạnh tranh
lành mạnh bằng các phương thức sản xuất và chu chuyển hàng hóa một cách

khoa học, hiệu quả chứ không thừa nhận các hành vi cạnh tranh bằng cách
dựa vào các thủ đoạn lừa đảo, không trong sáng.
2.1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng
Cũng như các doanh nghiệp khác, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp xây dựng là toàn bộ năng lực và việc sử dụng các năng lực đó để tạo ra
lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác nhằm thoả mãn
đến mức tối đa các đòi hỏi của thị trường.
Doanh nghiệp muốn có năng lực cạnh tranh phải có thực lực về tài
chính công nghệ hiện đại, marketing, tổ chức quản lý, đội ngũ lao động. Song
đó mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là doanh nghiệp phải tạo ra ưu thế
hơn hẳn so với các đối thủ khác. Để tồn tại và phát triển bền vững, doanh
nghiệp cần phải không ngừng nâng cao năng lực của mình nhằm tạo ra ưu thế
về mọi mặt như chất lượng công trình, thời gian, giá cả…so với các đối thủ.
Trước yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng, nếu doanh nghiệp
không vươn lên đáp ứng được thì sự thất bại trong cạnh tranh là điều khó
tránh khỏi. Trên thực tế, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở
nên gay gắt buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình.
Trần Thu Thủy 14 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
2.1.3.1. Những chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp xây dựng
Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng, cần lưu
ý các khía cạnh sau:
- Phải lấy yêu cầu của khách hàng làm chuẩn mực.
- Thực lực của doanh nghiệp là yếu tố cơ bản để đảm bảo thoả mãn nhu
cầu của khách hàng.
- Muốn giữ và lôi kéo được khách hàng, doanh nghiệp phải có thực lực
được thể hiện thành các lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh.
- Doanh nghiệp cần phải đánh giá từng điểm mạnh, điểm yếu của mình

mà có kế hoạch khắc phục điểm yếu và phát huy thế mạnh.
- Việc đánh giá năng lực cạnh tranh nếu chỉ căn cứ vào yếu tố định tính
thì không tránh được các yếu tố cảm tính, bởi vậy phải cố gắng lượng hóa.
Tuy nhiên khó có được một chỉ tiêu tổng hợp đo lường năng lực cạnh tranh,
do đó phải có một hệ thống chỉ tiêu:
* Chỉ tiêu về kết cấu tài chính:
Tỷ suất nợ và tỷ suất vốn tự tài trợ: là chỉ tiêu đánh giá mức độ độc lập
hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với các chủ nợ, mức độ tự tài trợ của
doanh nghiệp đối với vốn kinh doanh của mình. Tỷ suất vốn tự tài trợ càng
lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, tính độc lập cao đối với các
chủ nợ do đó không bị ràng buộc hoặc sức ép của các khoản nợ vay.
Tỷ suất = Nợ phải trả x 100%
nợ Nguồn vốn
Tỷ suất = Vốn chủ sở hữu x 100%
vốn tự tài trợ Nguồn vốn
* Chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
- Hệ số thanh toán hiện hành (H1): là mối quan hệ giữa tài sản ngắn
hạn với các khoản nợ ngắn hạn, thể hiện mức độ đảm bảo tài sản ngắn hạn đối
Trần Thu Thủy 15 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
với nợ ngắn hạn, là chỉ tiêu đánh giá tốt nhất khả năng thanh toán ngắn hạn.
Hệ số thanh (H1) = Tài sản ngắn hạn
toán hiện hành Nợ ngắn hạn
* Chỉ tiêu về khả năng sinh lời:
Khi phân tích về vấn đề tài chính của các doanh nghiệp, ta phải đặc biệt
quan tâm đến khả năng sử dụng một cách hiệu quả tài sản để mang lại nhiều
lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp.
Các tỷ suất doanh lợi luôn được các nhà kinh doanh, các nhà đầu tư
quan tâm. Nó phản ánh tính hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh và là
cơ sở quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

+ Hệ số doanh lợi bao gồm:
Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng vốn chủ sở hữu
ơ
Các hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Hệ số này càng cao thì hiệu quả sản xuất kinh doanh càng lớn.
Hai chỉ tiêu này biểu hiện cứ 100 đồng doanh thu thì sinh ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế và cứ 100 đồng vốn hoạt động bình quân trong kỳ sẽ
mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ
doanh nghiệp có vốn sử dụng tốt và ngược lại.
* Các chỉ tiêu riêng:
+ Giá trị trúng thầu và số lượng công trình thắng thầu:
Chỉ tiêu này cho biết một cách khái quát tình hình kết quả dự thầu của
doanh nghiệp. Qua đó có thể đánh giá được chất lượng, hiệu quả của công tác
dự thầu trong năm và quy mô của các công trình đã trúng thầu.
+ Xác suất trúng thầu:
Tính theo số hợp đồng:
Trần Thu Thủy 16 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
P1 =
Σ Htt
Σ Hdt
Tính theo giá trị hợp đồng:
P2 =
Σ Gtt
x 100%
Σ Gdt

Trong đó:
P1: Xác suất trúng thầu theo số hợp đồng
Htt: Số hợp đồng trúng thầu
Hdt: Số hợp đồng tham gia dự thầu
P2: Xác suất trúng thầu theo giá trị hợp đồng.
Gtt: Giá trị hợp đồng trúng thầu
Gdt: Giá trị hợp đồng tham gia dự thầu
+ Thị phần và uy tín của doanh nghiệp:
Đây là chỉ tiêu đánh giá một cách khái quát năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp liên quan đến tất cả các chỉ tiêu trên
và các yếu tố khác như: chất lượng công trình, tổ chức doanh nghiệp, tổ chức
các dự án thi công, marketing,…
Phương pháp xác định
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các
đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh
nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính
bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh
nghiệp…một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh
tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô
nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh
Trần Thu Thủy 17 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh
tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi
doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi
thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng
mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn

đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi
thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp
phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà
mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm
mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các
lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản
xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh
giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các
yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau
và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có
các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể
tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp
bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh
phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại;
năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp;
trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị
phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực
tiếp các yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với đối
tác cạnh tranh. Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được
Trần Thu Thủy 18 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp
này là không cho phép doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh
của mình với đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố
cụ thể.
2.1.3.2 Các phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng hiện nay
Để đánh giá, cho điểm và lựa chọn nhà thầu trúng thầu, chủ đầu tư đã
chú trọng đến những chỉ tiêu sau đây như những phương thức trọng tâm trong

quá trình lựa chọn nhà thầu:
+ Nhân sự của nhà thầu để thực hiện gói thầu
+ Các cam kết về chất lượng và giải pháp thực hiện
+ Thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp
+ Giá dự thầu
a/ Phương thức cạnh tranh bằng trình độ, kinh nghiệm và năng lực của nhân
sự:
Tỷ lệ điểm đối với phần này quy định là rất cao trong tổng số điểm về
mặt kỹ thuật. Vì khi xem xét lựa chọn một nhà thầu khách hàng phải xem
xem những người thực hiện các công việc của gói thầu hoặc dự án trên có đủ
trình độ, kinh nghiệm để thực hiện các công việc trên không? Không ai muốn
thuê một kỹ sư (nhất là người điều hành trực tiếp) kém năng lực chuyên môn,
khách hàng luôn mong muốn người giỏi nhất có thể có được. Thực tế khách
hàng không chỉ đòi hỏi thuần tuý về đảm bảo tiêu chuẩn, quy phạm, mà nhiều
khi khách hàng còn mong muốn cao hơn nữa. Họ luôn muốn được sản phẩm
tôt nhất, tối ưu cả về mặt kinh tế, kỹ thuật, thẩm mỹ lẫn tiến độ, hoặc là họ
cần thoát ra khỏi những khó khăn nhiều khi không chỉ bằng chuẩn mực mà có
thể giải quyết được. Như vậy người kỹ sư không thể chỉ có năng lực chuyên
môn – có được từ nhà trường; mà phải có kinh nghiệm, bản lĩnh – có được từ
học hỏi trong thực tiễn. Doanh nghiệp xây dựng có nhiều chuyên gia, như vậy
Trần Thu Thủy 19 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
chắc chắn sẽ chiếm được sự tin cậy của nhiều khách hàng hơn.
b/ Các cam kết về chất lượng và giải pháp thực hiện
Đó là đưa ra các giải pháp và phương pháp luận hợp lý đối với yêu cầu
của gói thầu, của từng công trình. Tỷ lệ điểm đối với phần này quy định là từ
30-40% tổng số điểm về mặt kỹ thuật.
Có rất nhiều yêu cầu mà một giải pháp đưa ra phải đảm bảo như:
+ Dự án phải được thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn, quy phạm xây
dựng, các điều kiện tự nhiên và xã hội và các quy định, phong tục tập quán,

thói quen và đúng thiết kế dự toán công trình đã được phê duyệt.
+ Phù hợp với thiết kế công nghệ trong trường hợp dự án đầu tư xây
dựng công trình có thiết kế công nghệ.
+ Nền móng công trình phải đảm bảo bền vững, không bị nứt, biến
dạng quá giới hạn cho phép làm ảnh hưởng đến tuổi thọ công trình, biện pháp
an toàn cho các công trình lân cận.
+ Thoả mãn yêu cầu về chức năng sử dụng; bảo đảm mỹ quan, giá
thành hợp lý.
+ An toàn, tiết kiệm, phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng được
áp dụng; các tiêu chuẩn về phòng, chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và
những tiêu chuẩn liên quan khác.
+ Đồng bộ trong từng công trình, đáp ứng yêu cầu vận hành, sử dụng
công trình; đồng bộ với các công trình có liên quan…
Mỗi công trình có một đặc điểm khác nhau, yêu cầu khác nhau vì vậy
các giải pháp đưa ra phải được xem xét và nghiên cứu kỹ lưỡng sao cho đảm
bảo các yêu cầu của hồ sơ mời thầu, các quy định của nhà nước và hiệu quả
nhất, hợp lý nhất cho cho chủ đầu tư sẽ dành được sự tin tưởng của chủ đầu
tư. Cạnh tranh bằng chất lượng các giải pháp là một trong những công cụ
cạnh tranh quan trọng và mang tính chất đặc trưng của ngành xây dựng.
Trần Thu Thủy 20 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
c/ Thương hiệu của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp ra đời cần có thương hiệu của riêng mình. Đối với
doanh nghiệp xây dựng, nơi mà khách hàng chỉ lựa chọn khi họ tin cậy,
thương hiệu rất quan trọng. Quảng cáo nhiều không phải là cách tốt nhất để
nâng cao uy tín của doanh nghiệp qua thương hiệu. Chất lượng, tiến độ công
trình mới là điều quyết định để khách hàng muốn tiếp tục làm việc với doanh
nghiệp và lựa chọn doanh nghiệp. Một doanh nghiệp xây dựng luôn đảm bảo
chất lượng đúng như đã thoả thuận với khách hàng cho dù khó khăn đến đâu,
đã cam kết là thực hiện đến cùng, không thoái thác trách nhiệm thì khách

hàng hiểu và tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và khi đó doanh nghiệp sẽ
luôn là nơi mà khách hàng tin tưởng và lựa chọn khi có nhu cầu xây dựng.
d/ Cạnh tranh bằng giá dự thầu
Cạnh tranh bằng giá dự thầu trong xây dựng cũng là yếu tố quan trọng.
Ngoài có các giải pháp kỹ thuật tối ưu và hợp lý thì doanh nghiệp cũng muốn
đưa mức giá thấp hấp dẫn người tiêu dùng hơn các đối thủ cạnh tranh.
Giá dự thầu là giá cả sản phẩm xây lắp được xây dựng theo quy định
của nhà nước, được xác định theo giá trị xây lắp, thiết bị trong tổng mức đầu
tư của dự án. Trong một số trường hợp (đấu thầu quốc tế) tính theo Max
month hoặc doanh nghiệp căn cứ vào các yếu tố năng lực thực sự của doanh
nghiệp, mục tiêu tham gia đấu thầu, quy mô, đặc điểm của dự án, vị trí thi
công của dự án, phong tục tập quán của địa phương để đưa ra giá dự thầu
thích hợp để đạt mục tiêu tương ứng về lợi nhuận, công ăn việc làm hoặc
thâm nhập thị trường mới.
Cạnh tranh bằng giá dự thầu được thể hiện qua các chính sách (sau khi
đã vượt qua phần kỹ thuật) như:
+ Chính sách giá cao: áp dụng khi doanh nghiệp xây lắp có một khả
năng công nghệ hoặc giải pháp đặc biệt độc quyền. Khi đó buộc các chủ đầu
Trần Thu Thủy 21 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
tư phải chấp nhận giá cao tuy nhiên không vượt quá giá xét thầu (đối với các
công trình do Nhà nước quản lý).
+ Chính sách giá thấp: doanh nghiệp đưa ra mức giá dự thầu thấp nhằm
loại trừ các đối thủ cạnh tranh hiện có và ngăn ngừa các đối thủ cạnh tranh
mới. Việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải tận dụng nguồn lực sản xuất và giảm
chi phí, đồng thời doanh nghiệp phải biết rõ chi phí thấp nhất của mình có thể
đạt được, ở đây doanh nghiệp có thể lấy mức giá hoà vốn làm cận dưới để xác
định giá dự thầu.
+ Chính sách giá linh hoạt theo thị trường: các doanh nghiệp phải tuỳ
thuộc vào thị trường để đưa ra giá dự thầu thích hợp. Chẳng hạn khi nhu cầu

đầu tư của xã hội giảm thì doanh nghiệp có thể đưa ra giá dự thầu thấp để
đảm bảo thắng thầu và để tăng khả năng cạnh tranh.
+ Chính sách phân hoá sản phẩm: với chính sách này khi xác định giá
dự thầu doanh nghiệp phải phân biệt cho từng khu vực địa lý với từng chủ
đầu.
Tóm lại, tuỳ theo từng công trình cụ thể, tiềm lực lao động, khả năng về
vốn, thiết bị, mục tiêu tham gia đấu thầu để nhà thầu đưa ra mức giá bỏ thầu
hợp lý.
Trên đây là 4 phương thức chủ yếu được các doanh nghiệp xây dựng sử
dụng trong cạnh tranh đấu thầu. Những phương thức này có thể sử dụng một
cách độc lập hoặc kết hợp tuỳ thuộc và từng tình huống, tầm quan trọng cũng
như ý nghĩa kinh tế của từng dự án.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp xây dựng
Trần Thu Thủy 22 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
2.2.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1.1. Năng lực về nguồn lao động
Người lao động (con người) là một phần chính yếu trong môi trường
cạnh tranh của doanh nghiệp. Con người là nhân tố cơ bản của sản xuất kinh
doanh. Khi đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp, chủ đầu tư đặc biệt
chú trọng đến các cấp độ sau:
* Năng lực quản trị, điều hành doanh nghiệp
Lãnh đạo doanh nghiệp là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong
doanh nghiệp, quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp
trong kinh doanh. Một trong những chức năng chính của họ là xây dựng chiến
lược hành động và phát triển của doanh nghiệp. Khi đánh giá bộ máy lãnh
đạo, chủ đầu tư thường quan tâm đến các tiêu thức kinh nghiệm lãnh đạo,
trình độ, các hoạt động của doanh nghiệp, phẩm chất kinh doanh của doanh

nghiệp và các mối quan hệ. Sâu xa hơn nữa là tinh thần đoàn kết đồng lòng
của cán bộ công nhân viên cũng như của ê kíp lãnh đạo. Điều này vừa tăng
sức mạnh của chính doanh nghiệp, vừa tạo ra uy tín đối với chủ đầu tư.
* Chức năng (Cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp)
Để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ cán bộ quản lý, chủ đầu
tư thường tiếp cận trên các khía cạnh.
+ Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, tác phong làm việc, sự
am hiểu về kinh doanh và pháp luật của từng thành viên trong ê kíp quản lý.
+ Cơ cấu về các chuyên ngành đào tạo phân theo trình độ sẽ cho biết
khả năng chuyên môn hoá của doanh nghiệp.
Thông thường cơ cấu cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành
nghề có chuyên môn về lĩnh vực chính mà doanh nghiệp đang kinh doanh
Trần Thu Thủy 23 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
phải chiếm ít nhất 60% bởi điều này liên quan đến kỹ thuật và chất lượng
công trình.
* Đội ngũ (Cán bộ quản lý trung gian, đội trưởng và công nhân)
Đây là đội ngũ các nhà quản lý ở cấp bậc cuối cùng trong hệ thống cấp
bậc các nhà quản lý của một doanh nghiệp( đội trưởng, tổ trưởng…), đội ngũ
quản lý này lãnh đạo lực lượng lao động trực tiếp tạo nên sức mạnh cạnh
tranh tổng hợp của doanh nghiệp trên các khía cạnh như chất lượng và tiến độ
thi công công trình.
Người phụ trách đơn vị phải có trình độ quản lý (tổ chức điều phối lao
động và thiết bị hợp lý, tránh lãng phí nhằm hạ thấp giá thành, tăng lợi nhuận
nhưng phải đảm bảo chất lượng), am hiểu sâu về công việc mà đơn vị đang
thực hiện, biết chăm lo quyền lợi của người lao động… mới tạo ra được sự
ủng hộ, lòng nhiệt thành từ phía người lao động. Tuy nhiên, lãnh đạo đơn vị
giỏi cũng chưa đủ, mà còn cần phải có đội ngũ lao động với trình độ tay nghề
chuyên sâu, có khả năng sáng tạo, trung thực trong công việc, họ chính là
người trực tiếp thực hiện những ý tưởng, chiến lược và chiến thuật kinh doanh

của đội ngũ lãnh đạo cấp trên, những người tạo nên chất luợng công trình và
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1.2. Năng lực tài chính
Hoạt động tài chính là một trong những hoạt động cơ bản của hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh
ảnh hưởng đến tình hình tài chính, ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu sẽ
có tác dụng thúc đẩy hay cản trở quá trình sản xuất kinh doanh.
Quy mô về tài chính phản ánh sức mạnh về tài chính có sẵn sàng cạnh
tranh đến cùng hay không, thể hiện ở quy mô tài sản cố định và tài sản lưu
động của doanh nghiệp.
Trần Thu Thủy 24 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
Khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài hạn là một yếu tố về tài chính
đặc biệt quan trọng bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ứng vốn chủ yếu là vốn
vay, thêm vào đó do đặc điểm thi công công trình kéo dài nên lượng vốn bị
nợ đọng kéo dài là khá lớn, nên rất dễ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bị cạn
kiệt về vốn khi cần huy động cho một công trình hay một dự án mới.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô nguồn vốn tự
có, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, khả năng huy động vốn các nguồn vốn
do sự phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, để đánh giá tình hình tài
chính của doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu giữa vốn cố định và vốn lưu động
với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ xây dựng.
Với khả năng tài chính dồi dào, doanh nghiệp có thể tham gia đấu thầu
nhiều công trình khác nhau, có nhiều cơ hội để đầu tư tranh thiết bị thi công
nhằm đáp ứng kịp thời quy trình công nghệ hiện đại. Đồng thời sẽ tạo ra được
niềm tin đối với các tổ chức tín dụng và nhà cung cấp vật tư hàng hoá.
Năng lực về tài chính mạnh tác động tích cực đến quá trình đấu thầu,
trước hết nó giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện nhiệm vụ kinh doanh
trong điều kiện giới hạn về vốn. Thứ hai, nó tạo niềm tin với chủ đầu tư về
khả năng quản lý hiệu quả đồng vốn được giao. Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn

kinh doanh là yếu tố quyết định đến khả năng huy động các nguồn vốn từ bên
ngoài cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy trong đấu thầu quốc tế nếu xét trên phương diện tài
chính các doanh nghiệp trong nước thường mất ưu thế so với các doanh
nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân do bản thân các doanh nghiệp trong nước có
quy mô không lớn, công tác tổ chức quản lý không hiệu quả. Hơn nữa, đối với
nhiều công trình sử dụng vốn ngân sách, Nhà nước không đáp ứng đủ vốn
theo đúng tiến độ kế hoạch đã định, chậm thanh toán và chi phí trả chậm bằng
không, doanh nghiệp nợ ngân hàng lại phải trả lãi suất.
Trần Thu Thủy 25 Quản trị kinh doanh tổng hợp
K15
Doanh nghiệp xây dựng có quy mô nhỏ và vừa (xét về tổng thể thì 90%
các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ) thì tiềm lực về tài chính
hầu như rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Thiếu vốn dẫn đến tình
trạng các doanh nghiệp không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất
lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh
doanh Hơn nữa, có quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh một
mặt hàng trên cùng một thị trường cũng dẫn đến tình trạng năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp giảm sút. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng bị
các tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại.
Như vậy, việc mở rộng liên doanh, liên kết là một giải pháp quan trọng
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cuả các doanh nghiệp xây dựng. Tổng
quát hơn, liên kết kinh tế tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đi sâu phát
triển chuyên môn hoá một cách có hiệu quả, khai thác những điểm mạnh
doanh nghiệp bạn để bù đắp cho những thiếu hụt của mình.
2.3.1.3. Năng lực máy móc thiết bị và công nghệ
Sức mạnh về kỹ thuật công nghệ được biểu hiện trực tiếp ở số lượng,
trình độ, cơ cấu của hệ thống máy móc thiết bị, công nghệ và đội ngũ cán bộ

công nhân kỹ thuật mà doanh nghiệp sử dụng khi cạnh tranh. Máy móc thiết
bị là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản cố đinh của doanh nghiệp. Nó đại
diện cho trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất hiện có giúp doanh nghiệp
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Mức độ cơ giới hoá trong doanh nghiệp được chủ đầu tư đánh giá cao
bởi nó liên quan rất nhiều đến chất lượng công trình và tiến độ thi công. Khả
năng cạnh tranh về máy móc thiết bị và công nghệ thể hiện thông qua các đặc
tính sau:

×