Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH 4P

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.76 KB, 56 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Tự do hoá thương mại đã kích thích sự phát triển thương mại quốc
tế, tạo ra môi trường kinh doanh toàn cầu, làm cho người tiêu dùng ở bất cứ
nơi đâu cũng có thể lựa chọn hàng hoá dịch vụ theo khả năng và nhu cầu.
Các doanh nghiệp ngày nay tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc đáp
ứng nhu cầu của khách hàng quốc tế và phục vụ con người ở mọi nơi trên
hành tinh này bằng hoạt động kinh doanh quốc tế. Nếu xem xét dưới góc
độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu
tiên của các doanh nghiệp khi bước vào kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu
mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mà toàn đảng toàn dân ta đang ra sức thực hiện. Để đưa nền
kinh tế nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới,
nhiệm vụ lớn lao không dành cho ai khác ngoài các doanh nghiệp. Và
doanh nghiệp nào tổ chức được hoạt động xuất khẩu một cách thường
xuyên thì doanh nghiệp đó đang thể hiện hành động cao trong kinh doanh
quốc tế, đóng góp khối lượng lớn ngoại tệ vào ngân quỹ quốc gia nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế của toàn xã hội.
Suốt một quá trình thực tập gần hai tháng tại Công ty vật liệu điện và
dụng cụ cơ khí, với tư cách là một quan sát viên ngoài cuộc, tôi đã may
mắn được Quý công ty cung cấp các tài liệu và chứng kiến một phần hoạt
động sản xuất kinh doanh tại đây, để rồi quyết định lựa chọn đề tài “Một số
biện pháp tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Công ty vật liệu điện và
dụng cụ cơ khí” cho bản chuyên đề thực tập của mình. Bài viết được coi
như là một đề tài khoa nhỏ, chắc chắn còn non kinh nghiệm và nhiều thiếu
sót nhưng nó thể hiện sự quan tâm của tôi về sự phức tạp và rủi ro của
chiến lược định hướng vào xuất khẩu mà chúng ta đang thực hiện.
Đề tài được chia làm hai phần như sau:
- Phần 1: Thực trạng xuất khẩu tại Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí.
- Phần 2: Một số biện pháp tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Elmaco.
Trong quá trình thực tập, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ,


hướng dẫn tận tình của anh Vũ Văn Thân- Trưởng phòng kế hoạch đầu tư
và các anh chị trong Công ty để tôi hoàn thành bản chuyên đề một cách có
hiệu quả nhất.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Th.s Trương Đức Lực- Giảng viên
của khoa quản trị kinh doanh, trường ĐHKTQD đã có những sự điều chỉnh
ngay từ ban đầu, giúp tôi có cơ sở lập kế hoạch hoàn thành đề tài này.
Hà nội, tháng 5 năm 2004.

Sinh viên: Lê Phương Nam
1

PHẦN 1
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY
VẬT LIỆU ĐIỆN VÀ DỤNG CỤ CƠ KHÍ (ELMACO )
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty:
Tóm tắt một số nét cơ bản:
- Tên Công ty: Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí
- Tên giao dịch: ELMACO
- Trụ sở chính: Đặt tại 240- 242 Phố Tôn Đức Thắng- Quận Đống
Đa- Hà Nội với tổng diện tích 2.052 m
2
.
- Ngày thành lập chính thức: 22/ 12/ 1971.
- Loại hình doanh nghiệp: DNNN trực thuộc Bộ Thương Mại
- Chức năng: Sản xuất- Kinh doanh ngành hàng vật liệu điện và dụng
cụ cơ khí.
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí được thành lập ngày 22
tháng 12 năm 1971 theo quyết định của Bộ vật tư với mục ddích ban đầu là
tổ choc kinh doanh các mặt hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí.

Từ năm 1971 đến năm 1975, Công ty chuyên doanh ngành hàng của
trung ương có nhiệm vụ tập hợp nhu cầu và rót hàng cho các công ty Vật tư
tổng hợp các tỉnh và các công ty hoá chất. Phương thức kinh doanh lúc này
hoàn toàn qua hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu, địa chỉ danh mụ hàng hoá với
mức giá do nhà nước quy định.
Từ năm 1976 đến 1985, phương thức kinh doanh vấn giữ nguyên.
Nhưng Công ty đã mở rộng phạm vi kinh doanh trên cả nước, từ một công
ty chỉ chuyên doanh ngành hàng trung ương đã có thêm choc năng mới là
công ty khu vực, vừa điều hành vừa đáp ứng nhu cầu trực tiếp.
2

Năm 1985, Tổng công ty Hoá chất- Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí
được thành lập lại và Công ty vật liệu điện là doanh nghiệp trực thuộc Tổng
công ty Hoá chất- Vật liệu điện và dụng cơ khí. Cũng trong thời gian này
Công ty đã đổi tên thành tên gọi như hiện nay.
Năm 1993, theo Nghị định 388/ HĐBT, Công ty được thành lập lại
theo Quyết định số 613/ TM- TCCB ngày 28/ 5/ 1993 của Bộ trưởng bộ
Thương mại. Và đến năm 1994, Công ty chính thức trực thuộc Bộ Thương
mại.
Khi nhà nước ta bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường cùng với
việc mở cửa hội nhập, quan hệ giao dịch của Công ty không chỉ còn phạm
vi trong nước mà đã mở rộng ra bên ngoài quốc gia. Điều này đòi hỏi Công
typhải có một thương hiệu và biểu trưng cho chính mình: Cái tên giao dịch
ELMACO- Electrial Materials And Merchanical instruments Corporation
đảa đời như kà một biểu trưng khẳng định vị thế của Công ty trên thị
trường trong và ngoài nước.
Bước vào cơ chế mới, cuộc chiến sinh tồn giữa các doanh nghiệp
mới thực sự quyết liệt. Kẻ mạnh tiếp tục đứng vững nhưng phải luôn đổi
mới, còn người thua đành chấp nhận bị đào thải. Elmaco sớm nhận thức rõ
điều đó và đã kịp thời thay đổi, bắt đầu từ việc nhìn lại quan điểm: Hàng

hoá trước kia chỉ là những thứ vật chất được nhà nước giao nhiệm vụ phân
phối theo đúng chỉ tiêu định mức. Nó không phải là cái đem bán để thu
chênh lệch( lợi nhuận ) và người được cấp phát chưa chắc đã thoả mãn nhu
cầu của họ. Elmaco đồng ý cách nhìn nhận lại của nhà nước về hang hoá,
nghĩa là cần đói xử với hàng hoá đúng với tư cách là hàng hoá. Phương
châm của Công ty lúc này là: “ Bán cái thị trường cần chứ không phải bán
cái mà Elmaco có” đi lion là hoạt động đa dạng hoá mặt hàng và lĩnh vực
kinh doanh nhằm khai thác và tạn dụng hết dù là những tiềm năng nhỏ bé
nhất.
3

Nhưng sau giai đoạn thành công( 1987- 1994 ) có tính đột phá, đến
cuối năm 1994 đã bắt đầu có những dáu hiệu trì trệ, bất ổn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của Elmaco mà nguyên nhân trước hết là do sự mất
cân đối giữa tiềm lựcvà quy mô hoạt động. Điều này phần nào lý giải tại
sao giai đoạn1995- 1999 doanh thu của Công ty liên tục giảm.
Tuy nhiên, với các giải pháp đồng bộ từ tổ chức, cơ cấu kinh doanh,
cách thức quản lý điều hành, Công ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí đã
lấy lại thế phát triển trong những điều kiện hết sức khó khăn và cạnh tranh
khốc liệt. Bắt đầu từ năm 2000 doanh thu đã tăng trở lại và doanh thu năm
sau lại cao hơn năm trước, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện,
hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất kinh doanh tiếp tục được nâng
cao,….
Hiện nay, ngoài trụ sở chính đặt tai 240- 242 Tôn Đức Thắng, Công
ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí còn có hai nhà máy trực tiếp sản xuất,
chế tạo đặt tại Gia Lâm- Hà Nội cùng rất nhiều chi nhánh ở thành phố
HCM, Quảng Trị, Thái Nguyên, …. Ngoài ra Elmaco còn thiết lập được
mối quan hệ ban hàng với các doanh nghiệp ở một số quốc gia khác như:
TQ, Đài Loan, Hàn quốc …
Biểu đồ 1: Doanh thu qua các năm

4

1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực kinh doanh
1.1.2.1. Chức năng
Với đặc điểm là một doanh nghiệp vừa hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất vừa hoạt động trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ Elmaco có thể thực
hiện được các chức năng sau:
- Kinh doanh các loại vật tư , hàng hoá thuộc ngành hàng vật liệu điện và
dụng cụ cơ khí
- Trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí, vật tư
liên quan để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước
- Trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng Vật liệu điện, Dụng cụ cơ khí và hàng
hoá khác từ dặt hàng gia công hoặc thông qua góp vốn liên doanh, liên kết
- Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu, làm đại lí, làm các mặt hàng thuộc phạm vi
kinh doanh của doanh nghiệp
- Tổ chức sản xuất, gia công , liên doanh, liên kết hợp tác đầu tư sản xuất
với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước
1.1.2.2. Nhiệm vụ
Với các chức năng cơ bản trên, Elmaco đã đề ra nhiệm vụ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh đồng thời quyết tâm nghiêm túc thực hiện:
- Tuân thủ các chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
- Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp dồng kinh tế, hợp đồng ngoại
thương kí kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoàI nước
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh
của Công ty
5

- Khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn do nhà nước cấp, tự khai
thác các nguồn vốn hỗ trợ, đảm bảo tự trang trảI. Đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ Nhà nước giao, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế qốc
dân
- Nghiên cứu các phương án sản xuất, nhu cầu thị trường nhằm nâng
cao chất lượng hàng hoá, đa dạng hoá về chủng loại đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng sản xuất trong nước và xuất khẩu
1.1.2.3. Lĩnh vực kinh doanh
Đúng như tên gọi của nó, lĩnh vực kinh doanh của Elmaco đó là
chuyên sản xuất, kinh doanh các mặt hàng điện và dụng cụ cơ khí. Sản
phẩm đa phần là những TLSX như Vật liệu đIện, hoá chất, kim khí, khoáng
chất,… chủ yếu vào thầu các công trình xây dựng cảI tạo hệ thống đIện,
công trình xây lắp và các dự án …
Elmaco không phải là doanh nghiệp thương mại thuần tuý, nên nó
hoạt động trên cả hai thị trường TLSX và TLTD
1.2. Một số đặc điểm kinh tế, kỹ thuật đặt trong mối quan hệ tác
động tới hoạt động xuất khẩu
1.2.1. Xét trong nội bộ Doanh nghiệp
1.2.1.1. Sản phẩm
Sản phẩm của Công ty đa phần là những tư liệu sản xuất như các
thiết bị điện, hoá chất, kim khí,…. Những sản phẩm này hầu hết đều không
có định mức tiêu dùng cụ thể. Một số mặt hàng kinh doanh của Elmaco
không có trong danh mục quản lý của nhà nước mà do đơn vị tự mày mò,
nghiên cứu, cân đối thông qua nhu cầu và các hợp đồng mua bán sau đó
đăng ký với các cơ quan chủ quản và được chấp nhận
Để tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, trong hệ thống tổ chức kinh
doanh của Elmaco được chia thành nhiều trung tâm kinh doanh, các xí
6

nghiệp kinh doanh, nhà máy trực tiếp sx và các chi nhánh thực hiện một số
chức năng nhất định. Chẳng hạn, đối với trung tâm kinh doanh vật liệu đIện
và dụng cụ cơ khí trụ sở 240- 242 Tôn Đức Thắng có nhiệm vụ tổ chức

kinh doanh các mặt hàng chủ yếu của Elmaco, ngoài việc tổ chức tiếp thị
để cung cấp thẳng đến khách hàng và bán buôn là chủ yếu. Hay như xí
nghiệp kinh doanh Vật liệu điện thì tổ chức kinh doanh các mặt hàng
không chủ yếu của Elmaco thuộc ngành hàng vật liệu và thiết bị đIện, được
tổ chức theo các nhóm kinh doanh chuyên môn hoá theo mặt hàng và đều
có quầy hàng giới thiệu và bán sản phẩm lẻ. Còn đối với các chi nhánh thì
có nhiệm vụ tổ chức kinh doanh theo địa bàn
Một số sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của công ty là:
- Sản phẩm cáp điện
- Sản phẩm dây điện từ
- Sản phẩm carton cách điện
- Sản phẩm đồng, nhôm, kẽm
- Sản phẩm lốp Ô tô
- Sản phẩm lưỡi cưa vòng
- Sản phẩm que hàn
Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Công ty là:
- Cáp điện
- Cao su tự nhiên
- Tùng hương
- Quặng Rutile
- Quặng sắt
- Quặng sắt nguyên khai
Sản phẩm của Công ty là sản phẩm đồng nhất nên thường bị cạnh
tranh quyết liệt và Công ty phải sử dụng các biện pháp về giá nhằm thu hút
và mở rộng thị trường
7

1.2.1.2. Bộ máy quản trị
Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy quản trị của Elmaco
8

Phó giám đốc
kinh doanh
Giám đốc
Phòng kinh doanh
vật liệu điện
Phòng kinh doanh
dụng cụ cơ khí
Phòng kinh doanh
xuất nhập khẩu
Phòng kinh doanh
tổng hợp
Phòng kế toán
t i chínhà
Phòng kế hoạch và
đầu tư
Văn phòng
công ty
Phó giám đốc
sản xuất
Phòng điều h nhà
sản xuất
Phòng kho vận
Phòng kỹ thuật
công nghệ
Xí nghiệp
sản xuất
thiết bị điện
Nh máyà
sản xuất dây
v cáp à điện

Chi nhánh
TP HCM
Chi nhánh
Đ Nà ẵng
Chi nhánh
Đông Hà

Bộ máy tổ chức của Công ty hoạt động theo mô hình trực
tuyến tham mưu, nghĩa là theo nguyên tắc quản lý trực tuyến và thực hiện
nghiêm chỉnh chế độ 1 thủ trưởng. Đứng đầu là một giám đốc do Bộ trưởng
bộ Thương mại bổ nhiệm, có trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động của
Công ty, đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của Công ty trước cơ quan cấp
trên và pháp luật.
Nhiệm vụ cụ thể của từng phòng ban như sau:
- Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ sắp xếp tổ chức nhân lực,
lao động, tuyển dụng và đào tạo cán bộ, nâng cấp lương cho cán bộ công
nhân viênhàng năm theo quy định của pháp luật và bộ luật lao động, tổ
chức công tác thanh tra kiểm tra toàn bộ hoạt động của Công ty, giải quyết
các đơn từ khiếu nại và đề xuất biện pháp xử lý với giám đốc, ….
- Trung tâm kinh doanh hoá chất và xuất khẩu: Tổ chức kinh doanh
xuất khẩu tổng hợp và kinh doanh hoá chất.
- Trung tâm kinh doanh Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí: Tổ chức
kinh doanh các mặt hàng chủ yếu của Công ty, tổ chức một số quầy hàng
giới thiệu và bán lẻ đối với một số mặt hàng có tiêu dùng nhỏ lẻ.
- Phòng tài chính- Kế toán: Theo dõi tình hình tăng giảm và số hiện
có của các loại vốn, quỹ. Theo dõi tình hình tiêu thụ sản phẩm và kết quả
kinh doanh, lập báo cáo tài chính hàng năm, tổ chức bảo quản, lưu trữ hồ
sơ tài liệu kế toán.
- Nhà máy dây và cáp điện: Đây là đơn vị đầu tiên trong Công ty áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002, có nhiệm vụ

tổ chức sản xuất dây và cáp điện lực, xây lắp đường dây và trạm biến áp
lưới điện phân phối, mở một số cửa hàng giới thiệu và bán lẻ sản phẩm.
- Xí nghiệp kinh doanh vật tư tổng hợp 1: Tổ chức kinh doanh tổng
hợp các mặt hàng theo phương thức bán lẻ là chủ yếu và theo hướng đáp
9

ứng đồng bộ nhu cầu của khách hàng trên cơ sở các mối quan hệ bạn hàng
khi cung cấp các mặt hàng Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí.
- Xí nghiệp kinh doanh vật tư tổng hợp 2: Có nhiệm vụ giống xí
nghiệp kinh doanh vật tư tổng hợp 1.
- Xí nghiệp kho vận: Tổ chức kinh doanh dịch vụ kho bãi, giao nhận,
vận chuyển.
- Xí nghiệp sản phẩm thiết bị điện: Tổ chức sản xuất máy hàn điện,
quạt chống nóng, đèn cao áp và một số khí cụ, phụ kiện khác. Ngoài việc tổ
chức cung cấp thẳng đến khách hàng và bán buôn, xí nghiệp còn mở một số
cửa hàng giới thiệu và bán lẻ sản phẩm, đồng thời kết hợp kinh doanh tổng
hợp vật tư hàng hoá liên quan.
- Xí nghiệp kinh doanh Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí: Tổ chức
kinh doanh các mặt hàng không chủ yếu của Elmaco thuộc nhóm ngành
hàng vật liệu điện, vật liệu hàn, dụng cụ cơ khí và các thiết bị liên quan.
Các nhóm hàng này đều được kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá.
- Chi nhánh Thái nguyên: Tổ chức kinh doanh trên địa bàn khu công
nghiệp Thái nguyên và các tỉnh miền núi phía bắc.
- Chi nhánh Hạ long- Quảng ninh: Tổ chức kinh doanh trên địa bàn
khu công nghiệp Quảng ninh.
- Chi nhánh Đông hà: Tổ chức kinh doanh trên địa bàn nam đèo
Ngang- bắc Hải vân và triển khai kinh doanh qua khu kinh tế cửa khẩu
Lao bảo.
- Chi nhánh Đà nẵng: Tổ chức kinh doanh trên địa bàn miền trung từ
nam đèo Hải vân và khu vực Tây nguyên.

- Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh: Tổ chức kinh doanh trên địa
bàn các tỉnh Nam trung bộ và Nam bộ.
1.2.1.3. Cơ cấu lao động
10

Tổng số lao động có mặt tại công ty đến ngày 31/12/ 2003 là 466
người. Số lao động dài hạn trong lĩnh vực kinh doanh là 268, trong lĩnh vực
sản xuất là 113. Lao động hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh là 51, trong
lĩnh vực sản xuất là 34.
Bảng 1: Bảng cơ cấu lao động
Trình độ Số lượng
Trên đại học 3
Đại học, cao đẳng 362
Trung cấp 46
Công nhân kĩ thuật 15
Lao động trực tiếp 40

Nguồn: Lưu phòng kế hoạch và đầu tư
Số lượng cán bộ quản lí tuy ít nhưng có chất lượng đúng ngành nghề,
được tuyển chọn và sử dụng hợp lí, phát huy tối đa năng lực làm việc của
mỗi người. Các cấp quản trị trong toàn công ty có 18 người, toàn là nam
giới, Nữ giới chỉ có 21 người để đảm nhận các công việc kế toán, văn thư,
văn phòng... Như vậy nữ giới chỉ chiếm 4,5% - do đặc điểm của ngành
hàng sản xuất kinh doanh phù hợp với nam giới.
Ngoài số cán bộ trong biên chế, công ty còn có mạng lưới cộng tác viên là
những cán bộ khoa học kĩ thuật chuyên ngành có trình độ cao ở các tổ chức
khác trong xã hội.
1.2.1.4. Nguồn vốn cho hoạt động sản xuất- kinh doanh.
Đối với Elmaco, chưa khi nào, nguồn vốn do ngân sách nhà nước
cấp và vốn tự bổ sung có thể đủ để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho

sản xuất kinh doanh. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà quy mô hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty tăng trưởng không ngừng và theo
đuổi quyết tâm thực hiện bằng được mô hình kinh doanh: “Lợi nhuận
11

chuyên doanh theo hướng đa dạng hoá mặt hàng”, đồng thời đẩy mạnh việc
thay đổi cơ cấu kinh doanh từ thương mại thuần tuý sang sản xuất và kinh
doanh thương mại, đặc biệt chú trọng phát triển hoạt động xuất khẩu nhằm
đáp ứng những đòi hỏi của thị trường và nhu cầu xã hội. Elmaco vẫn huy
động vốn chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng từ các ngân hàng thương
mại, chấp nhận trả lãi vay ở mức cao. Tuy nhiên, do là một doanh nghiêp
nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại nên Công ty có những điều kiện thuận
lợi để giải ngân, họ không cần tài sản thế chấp và được ưu tiên giải quyết.
Bảng 2: Tình hình nguồn vốn qua một số năm
Nguồn vốn Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Số đầu
năm
Số cuối

Số đầu
năm
Số cuối

Số đầu
năm
Số cuối

I. Nợ phải trả
Nợ ngắn hạn 65.900 70.270 70.270 117.891 117.891 131.745
Nợ dài hạn 5.836 4.398 4.398 4.607 4.607 3.447

Nợ khác 293 293 786 786 398
II. Nguồn vốn
chủ sở hữu
6.676 7.487 7.487 7.047 7.047 9.229
Bảng 2 cho thấy nợ ngắn hạn (chủ yếu là nợ ngân hàng và một phần
của phải trả khách hàng) tăng lên từ năm 2000 đến 2002 và ngày càng
12

chiếm tỷ trọng lớn trên tổng nguồn vốn. Năm 2000 là 85,2% thì đến năm
2002 đã là 91,0% trong lúc nợ dài hạn và nợ khác tăng không đáng kể, nên
làm cho nợ hàng năm tăng lên. Việc sử dụng vốn ngắn hạn ngân hàng dùng
chủ yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh với một mức chi phí vay không
nhỏ chắc chắn sẽ có tác động đến kết quả kinh doanh của Công ty: Theo
báo cáo giải trình của Elmaco gửi Bộ Thương mại năm 2001 thì vốn vay
ngắn hạn bình quân là 83,49% trên tổng nguồn vốn, dẫn đến chi phí lãi vay
vốn lớn= 6.776.199.327= 2,1% so với doanh thu thuần. Trong hoàn cảnh
đó thì vốn chủ sở hữu mà thực tế là nguốn vốn và quỹ của doanh nghiệp lại
tăng giảm không đều và không lớn. Rõ ràng, cơ cấu nguồn vốn như thế này
chưa thể coi là tối ưu, nhất định sẽ ảnh hưởng đến việc tăng giảm lợi nhuận
và vấn đề phân phối.
1.2.2. Tác động từ bên ngoài
1.2.2.1. Đặc điểm của sản phẩm dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt từ
các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước
Sản phẩm của Công ty thuộc vào nhóm sản phẩm đồng nhất, nghĩa là
không có sự khác biệt rõ nét về công nghệ và chất lượng hàng hoá giữa các
hãng sản xuất trong ngành. Điều đó tất yếu dẫn đến sức ép ghê gớm về giá
cả từ phía những người tiêu dùng và nhà sản xuất muốn tồn tại chỉ có thể
sử dụng chính sách về giá là chủ yếu. Như thế cũng có nghĩa rằng trên thị
trường có sự ganh đua rất khốc liệt giữa các đối thủ trong điều kiện hàng
rào gia nhập và rút lui hầu như không phát huy tác dụng.

Đối với Elmaco sự khốc liệt đó xem ra lại càng rủi ro cao một khi
chính sách đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vẫn đang trên đích ngắm.
Elmaco buộc phải căng sức trên cả hai mặt trận: Trong và ngoài nước. Thị
trường trong nước là chủ yếu, còn thị trường ngoài nước là quan trọng. Lúc
này, để xuất khẩu ngày càng mang lại hiệu quả kinh tế cao, Công ty phải
tập trung vào vấn đề chất lượng và giá cả. Làm sao để có chất lượng đạt
13

tiêu chuẩn quốc tế mà giá vẫn đảm bảo cạnh tranh, đây có lẽ vẫn đang còn
là đề tài nóng hổi tại Công ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí.
1.2.2.2. Chính sách của chính phủ
Mặc dù không phải là một doanh nghiệp có chức năng kinh doanh
các mặt hàng xuất nhập khẩu, nhưng Elmaco vẫn có được lợi thế rất nhiều
so với các doanh nghiệp khác là được phép xuất khẩu trực tiếp. Theo nghị
định số 57-1998/ NĐ- CP của CP ban hành, thủ tục xuất khẩu đã được đơn
giản hoá, giấy phép xuất khẩu được thay thế bằng giấy phép điều kiện kinh
doanh cho các doanh nghiệp nhà nước có hoạt động xuất khẩu thường
xuyên. Với tư cách là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại,
Elmaco được quyền sử dụng giấy phép điều kiện kinh doanh như một giấy
phép xuất khẩu cho những mặt hàng mà Công ty có ý định xuất bán.
Ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi về các thủ tục xuất khẩu, Bộ
Thương mại còn cung cấp những thông tin cần thiết có liên quan về tình
hình xuất nhập khẩu, tổ chức hội chợ thương mại, ưu đãi 30% kinh phí cho
cán bộ của Công ty tham gia tất cả các hoạt đọng xúc tiến thương mại quốc
tế, ….
Ngược lại, Công ty cần có kế hoạch cụ thể về hoạt động xuất khẩu
trình lên Bộ để Bộ có các biện pháp kịp thời nhằm tạo điều kiện giúp đỡ
đồng thời đôn đốc thực hiện sao cho đúng tiến độ và đạt chỉ tiêu, nhiệm vụ
đề ra.
1.2.2.3. Sức ép từ các nhà cung ứng

Nếu xét riêng hoạt động xuất khẩu thì hiện tại Công ty chủ yếu kinh
doanh thương mại thuần tuý, nghĩa là Elmaco đóng vai trò là một người
mua trung gian thưc hiện việc thu mua hàng hoá trong nước và tổ chức xuất
bán trên cơ sở lợi thế về điều kiện, thủ tục xuất khẩu và mối hàng. Với hình
14

thức này Elmaco thường bị thụ động về số lượng hàng hoá xuất khẩu, bởi
vì trong khi Công ty có thể chủ động được hợp đồng thương mại quốc tế thì
vì lí do nào đấy các nhà cung ứng đột ngột ngừng cung cấp theo đúng tiến
độ. Có một vài nguyên nhân chính dẫn đến sự ‘ bất hợp tác’ từ những nhà
cung ứng sau: Thứ nhất, đó là sự biến động của giá cả. Giá cả thay đổi thất
thường nhiều khi ảnh hưởng không tốt đến doanh thu bán hàng của nhà sản
xuất. Vậy nếu như Công ty không có hợp đồng mua bán chi tiết và chặt chẽ
thì điều mà Công ty nhận được trong tình huống này là sự ngừng cung cấp
đột ngột đằng sau những toan tính hợp lí của nhà cung ứng. Thứ hai, đó là
tính thời vụ của một số sản phẩm nằm ngoài mong muốn của cả chính
những nhà cung ứng. Một số sản phẩm mang tính thời vụ mà Elmaco đã và
đang xuất khẩu như: Tùng hương, cao su hay nhựa Thông,…. Thứ ba, là do
tính không ổn định của hầu hết các nhà sản xuất thực hiên chức năng cung
ứng.
Những sản phẩm mà Elmaco trực tiếp sản xuất để xuất khẩu như cáp
điện, quạt điện,… thì nhiều khi lại chịu ảnh hưởng gián tiếp từ các nhà
cung cấp nước ngoài, do đa số các linh kiện, vật liệu dùng cho chế tạo các
sản phẩm nói trên đều có được thông qua con đường nhập khẩu (Hàng năm
có tới 60- 70% linh kiện, phụ tùng nhập khẩu trên tổng linh kiện phụ tùng
mà Công ty có được).
1.2.2.4. Tỷ giá hối đoái
Chủ trương của Elmaco trong vài năm tới là đẩy nhanh hoạt động
xuất khẩu. Điều này đồng nghĩa với sự tham gia ngày càng chắc chắn hơn
vào hoạt động thương mại quốc tế của Công ty. Thương mại quốc tế đòi

hỏi phải thanh toán và chấp nhận các loại ngoại tệ khác với đồng tiền trong
nước, thế là nảy sinh ra nhiều rủi ro do sự khác biệt (chênh lệch) về giá trị
của những đồng tiền khác loại. Thước đo của sự chênh lệch này là tỷ giá
15

hối đoái trong khi thời gian lại là thước đo giá trị thời điểm của tỷ giá hối
đoái.
Trong những năm vừa qua, hoạt động xuất khẩu đã trở thành thường
xuyên tại Elmaco, bởi thế hơn bao giờ hết tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất
lớn, trực tiếp đến nguồn thu nhập ngoại tệ của doanh nghiệp. Diến tiến về
biến động của tỷ giá trên thị trường rất dễ vượt khỏi tầm kiểm soát của
Công ty, vì dẫu sao Elmaco chưa phải là một doanh nghiệp chuyên doanh
về xuất khẩu nên mức độ rủi ro xảy ra cao nếu tỷ giá không thường xuyên
duy trì ở mức ổn định.
1.2.2.5. Các yếu tố thuộc về chính sách, luật lệ, môi trường văn hoá ở
các nước nhập khẩu
Các phạm trù như chính sách, luật pháp, thủ tục hành chính, …tại
mỗi quốc gia đều có sự khác nhau được xây dựng và cũng cố trên cơ sở
điều kiện hoàn cảnh và tín ngưỡng của mỗi một dân tộc. Xuất khẩu là hoạt
động vượt ra khỏi biên giới của một lãnh thổ, do đó muốn thành công nhất
định phải có sự hiểu biết về chính trị, văn hoá, pháp luật ở các nước sở tại.
Đối với Elmaco những thông tin này từ trước đến nay, đều do các
chuyên viên của Bộ Thương mại cung cấp và giải mã. Tất nhiên, sự chính
xác của luồng thông tin này là điều không phải bàn cãi. Vấn đề là nó cho
thấy sự bị động trong cách tiếp nhận thông tin của Elmaco, thay vì nên coi
đó là thông tin phù trợ để chủ động tìm hiểu thì Công ty lại làm điều ngược
lại. Và sự thật này tạo ra tiền lệ xấu là Công ty không có kế hoạch tìm hiểu
môi trường các nước nhập khẩu làm gia tăng thêm một dấu hiệu bất ổn
trong nghiệp vụ xuất khẩu
Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu của Công ty là:

- Những biến động về chính trị, xã hội ở nước sở tại
- Trình tự, thủ tục giải quyết công việc
- Những vấn đề liên quan đến tiền tệ và quản lý tiền tệ
16

- Phong tục tập quán nước sở tại
- …vv…
1.2.2.6. Xu hướng hội nhập nền kinh tế toàn cầu và tự do hoá thương
mại đặt ra vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là nâng cao
chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng nhu cầu đa dạng,
ngày càng khó tính của khách hàng
Elmaco không thể cưỡng lại quy luật chung đó, Công ty xác định
“cần tăng cường hoạt động xuất khẩu theo hướng đầu tư máy móc, thiết bị,
công nghệ tiến tới xây dựng một tập đoàn sản xuất- thương mại, dịch vụ đa
sở hữu”. Với tham vọng lớn này, Elmaco đang dần chuẩn bị hành trang
nhằm xác lập thế đứng trên thị trường và có thể đủ sức cạnh tranh ngang
ngửa với nhiều tập đoàn mạnh trên thế giới.
1.3. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu ở Elmaco
1.3.1. Kết quả xuất khẩu một số năm vừa qua
1.3.1.1. Thị trường và sản phẩm xuất khẩu chủ yếu
Nhìn chung thị trường xuất khẩu chủ yếu và thường xuyên của Công
ty là Đài loan, Thái lan, Trung quốc và Hàn quốc.
Năm 2002, sau khi ổn định được thị trường nguyên liệu và mở rộng
quy mô hoạt động, thị trường xuất khẩu của Công ty Elmaco đã xuất hiện
một số cái tên như là Myanmar, ấn độ, Băngladest, …. Đây là những thị
trường tiềm năng và trong một vài năm tới sẽ là các bạn hàng có ảnh hưởng
lớn đến kim nghạch xuất khẩu của Công ty.
17

Bảng 3: Giá trị xuất khẩu 2 năm 2001, 2002

Danh mục DVT Năm 2001 Năm 2002 So sánh
2002/2001
I. Thị trường USD
1. XKTT
- Đài loan
- Thái lan
- Braxin
- Trung quốc
- Hàn quốc
- Myanmar
- ấn độ
- Bănglades
- Rumani
278,694
11,704.00
109,883.70
29,323.20
95,719.10
32,064.00
332,885.95
104,859.77
82,363.16
33,744.42
41,602.00
10,397.55
18,048.00
33,435.00
8,436.05
54,191.95
93,155.77

- 27,520.54
- 29,323.20
- 61,975.32
9,538.00
10,397.55
18,048.00
33,435.00
8,436.05
2. XKUT
- Balan
USD
609,151.00
Tổng giá trị USD 887,845.00 332,885.95 - 554,96.95
II. Mặt hàng
- Cao su tự nhiên
- Tùng hương
- Viên cá cho tẩm
gia vị
- Quần áo
- Nhựa thông
- Quặng Rutile
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
Kiện
Tấn
Tấn
887,845.00
53,699.20

129,275.70
95,719.10
609,154.00
332,885.95
21,504.00
183,972.41
18,048.00
21,428.57
- 554,96.95
- 32,195.80
54,697.29
- 95,719.10
- 609,151.00
18

- Quăng kẽm
- Quặng Sắt
- Chấn lưu
- Quạt điện
- Ballast ĐT
- Quặng sắt nguyên
khai
Tấn
Tấn
17,010.99
12,308.43
10,356.00
33,435.00
10,397.55
4,425.00

Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
So sánh năm 2001 và 2002 ta thấy rằng về mặt tổng giá trị xuất khẩu
(Tính= USD) Thì năm 2001 lớn hơn năm 2002 một lượng là 544,96.95
USD. Tuy nhiên có một dấu hiệu khả quan là giá trị xuất khẩu trực tiếp
2002 lại lớn hơn 2001 là 54,191.95 USD. Đây đúng là tín hiệu đáng khích
lệ bởi vì hoạt động xuất khẩu trực tiếp là hoạt động chủ yếu, thường xuyên
trong khi xuất khẩu uỷ thác đóng vai trò kém quan trọng hơn và mang tính
chất không ổn định, chưa bao giờ được coi là thế mạnh của Elmaco.Năm
2002 cũng là năm ghi nhận sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên
Công ty trong việc giữ vững, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hiện nay, không những chỉ có các bạn hàng ở các nước Châu á lân cân,
Công ty đã thiết lập được thêm nhiều bạn hàng mới ở Châu âu, Nam mỹ,…
Trong khi thị trường xuất khẩu được mở rộng thì đồng thời cơ cấu các mặt
hàng xuất khẩu cũng gia tăng.
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu hàng hoá của Công ty
theo thị trường cụ thể
ĐVT: Trđ
Thị trường Năm 2001 Năm 2002 so sánh2002/ 2001
Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Tuyệt
đối
Tương
đối
19

Tổng KNXK
1. Đài loan
2. Thái lan
3. Trung quốc
4. Hàn quốc
5. Braxin

6. Inđônêxia
7. Ba lan
8. Thị trường khác
6.121
200
1.135
1.085
700
315
1.810
876
3,26
18,54
17,73
11,43
5,15
29,57
14,32
15.690
248
1.650
1.440
1.926,4
435
9.137
835,6
1,58
10,52
9,18
12,28

2,77
58,23
5,44
9.569
48
515
355
1.226,4
125
- 1.810
9.137
- 40,4
256,3
124
145,7
132,7
275,2
138,1
95,4
Nguồn: Tổng hợp số liệu của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Với số liệu bảng trên, cho biết rõ hơn thình hình xuất khẩu của
Elmaco năm 2001 và năm 2002: Các thị trường chủ yếu đều đạt giá trị xuất
khẩu tăng đó là Đài loan, Thái lan, Trung quốc và Hàn quốc. Năm 2002
Công ty đã tìm thêm được nhiều thị trường mới (Số liệu bảng 7) tuy nhiên
lại để mất thị trường tiêu thụ Inđônêxia và thị trường khác bị giảm sút về
giá trị xuất khẩu. Song, nhìn chung giá trị xuất khẩu năm 2002 cao gần gấp
3 lần so với năm 2001.
Năm 2003 đánh dấu một bước ngoặt lớn của Công ty trong sự thay
đổi về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Các sản phẩm do Elmaco tự sản xuất
đóng một vai trò mới trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và lần đầu tiên

sản phẩm cáp điện- Sản phẩm chính của Công ty tham gia thị trường xuất
khẩu và mang lại nguồn thu ngoại tệ là 56400 USD trên tổng là 792220
USD giá trị luỹ kế xuất khẩu từ đầu năm. Một con số còn quá khiêm tốn,
nhưng nó mang nhiều ý nghĩa: Một mặt, nó khẳng định rằng sản phẩm do
tự Công ty sản xuất có thể xuất bán và cạnh tranh được với các sản phẩm
cùng loại trên thị trường quốc tế. Mặt khác, nó mang lại niềm tin cho doanh
nghiệp trong quyết tâm thay đổi chiến lược xuất khẩu là “Tập trung xuất
khẩu những mặt hàng mà Công ty có thể tự sản xuất được” mà Công ty
đang triển khai từ cuối năm 2003- đầu 2004 đến nay.
20

1.3.1.2. Tình hình thực hiện doanh thu, xuất khẩu
Bảng 5: Doanh thu xuất khẩu một số năm
ĐVT: Trđ
Chỉ tiêu Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
So sánh
02/ 01
so sánh
03/ 02
1.Tổng doanh thu
2. Doanh thu nội
địa
3. Doanh thu XK
323.750
310.531

13.219
439.000
433.874
5.126
540.000
527.419
12.581
115.329
123.343
-7.965
101.000
119.545
7.455
Nguồn: Báo cáo phòng kế hoạch đầu tư
Nhìn chung cùng với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cả
chiều sâu lẫn chiều rộng, doanh thu Công ty đạt được hàng năm đều tăng
lên và doanh thu xuất khẩu năm 2003 tăng lên rõ rệt so với năm 2002. Mặc
dù năm 2003 là năm xảy ra rất nhiều sự kiện khó khăn làm ngăn cản đến
hoạt động thương mại quốc tế như chiến tranh Irắc, bệnh sars hoành hành,
dịch cúm gia cầm trên diện rộng các nước Châu á,… nhưng nền kinh tế
nước ta nói chung vẫn tăng trưởng, hàng hoá phong phú không những đảm
bảo cho nhu cầu trong nước mà còn có dự trữ cho xuất khẩu với tổng kim
ngạch ngày càng tăng. Riêng đối với Elmaco, do tính hiệu quả trong việc
khai thác thị trường mới cùng với việc mạnh dạn xuất khẩu hàng hoá tự sản
xuất dẫn đến giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2003 tăng mạnh gần gấp 3
lần so với giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2002.
Doanh thu xuất khẩu năm 2002 giảm so với năm 2001 là do trong
khi hoạt động xuất khẩu trực tiếp là hoạt động chính của Công ty năm 2002
có hiệu quả hơn xuất khẩu năm 2001 thì hoạt động xuất khẩu uỷ thác lại chỉ
diễn ra trong năm 2001. Nhưng chính hoạt động được coi là tay trái này lại

đem về nguồn lợi gần gấp 3 lần so với những gì mà xuất khẩu trực tiếp làm
được cũng vào năm này (Theo bảng 7 hai con số lần lượt là 609,151.00
USD so với 278,694.00 USD). Điều này đem lại lợi thế về doanh thu xuất
21

khẩu năm 2001 so với năm 2002. Tuy nhiên theo bảng báo cáo tài chính
nội bộ của Elmaco năm 2002 thì số thực hiện vẫn lớn hơn so với số ước
thực hiện (5.126 Trđ so với 4.359 Trđ). Đó là tính hiệu quả của hoạt động
xuất khẩu năm 2002 qua một phép so sánh giản đơn trên góc độ con số trên
văn bảnvà con số thực hiện. Nhưng bối cảnh sau đây mới cho chúng ta thấy
rõ sự nỗ lực cố gắng của toàn thể công nhân viên công ty Elmaco nhằm
hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao: 6 tháng đầu năm 2002 doanh thu
xuất khẩu Công ty chỉ đạt 151.052 USD= 2.296 Trđ và bằng 18,82% kế
hoạch Bộ Thương mại giao. Với điều kiện suy luận giản đơn, thì con số
này chưa bằng một nửa ước thực hiện và tại thời điểm này ít ai có thể khả
quan nghĩ tới viễn cảnh là Công ty sẽ hoàn thành kế hoạch đề ra nhất là
trong điều kiện nhiệm vụ tập trung xuất khẩu 3 mặt hàng chính mà Bộ giao
đều gặp phải những khó khăn nhất định và đứng trước nguy cơ phá sản:
Cao su tự nhiên thì do biến động về giá, khả năng đầu tư tích luỹ nguồn
hàng không có (do hạn chế về vốn) nên 6 thág đầu năm chỉ xuất khẩu được
43.552 USD= 15,55% nhiệm vụ Bộ giao. Mặt hàng nhựa thông cũng vấp
phải những nguyên nhân tương tự và chỉ xuất khẩu được 107.500USD=
39,81% kế hoạch Bộ giao. Các mặt hàng về động cơ thì bị cạnh tranh khốc
liệt về giá (từ các sản phẩm tương tự của Trung quốc) nên việc kí kết hợp
đồng chưa thể thực hiện được.
Người ta có thể nhắc đến nguyên nhân dẫn đến việc xuất khẩu các
mặt hàng Cao su và Nhựa thông không đạt kết quả như mong muốn là do
tính thời vụ (Cả hai mặt hàng này đều thu hoạch vào cuối năm). Song, nhất
quyết đây không thể là nguyên nhân chính bởi vì tính thời vụ có thể khắc
phục bằng việc tích luỹ của năm nay cho năm sau. Do đó, tính thời vụ có

thể coi là dấu hiệu khả quan cảu việc cán đích đúng thời điểm và mong
muốn, nhưng đối với những người luôn nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc
22

thì họ không tin đó là yếu tố chính mang lại hiệu quả khả dĩ trên cả mức kế
hoạch đề ra.
Năm 2003, doanh thu đến từ hoạt động xuất khẩu mà Công ty thực
hiện được là 838.710 USD= 83,87% kế hoạch Bộ giao. Công tác xuất khẩu
đã và vẫn là hướng phát triển chiến lược của Công ty, tuy kim ngạch xuất
khẩu không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu nhưng cũng góp phần
quan trọng giải quyêt vấn đề về ngoại tệ chi trả cho bạn hàng nước ngoài,
giảm thiểu phát sinh chênh lệch tỷ giá.
1.3.2. Tổ chức hoạt động xuất khẩu
1.3.2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm hiểu khách quan và có hệ
thống cùng sự phân tích những thông tin cần thiết để giải quyết những vấn
đề Marketing. Bởi vậy nghiên cứu thị trường đang rất được ELMACO
quan tâm để có những quyết định đúng trong kinh doanh.
Công tác điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài của ELMACO có
nhiều khó khăn và phức tạp, vì thị trường rộng lớn, đa dạng, có nhu cầu cao
về chất lượng, chủng loại đa dạng, thay đổi nhanh về mẫu mã, kiểu cách,
phương tiện điều kiện thông tin, liên lạc, hệ thống Marketing của nước ta
còn bị hạn chế. Sau đây là một số chính sách xâm nhập và tiếp cận thị
trường nước ngoài của công ty ELMACO:
- Công ty tiến hành quảng cáo rộng rãi qua các tạp chí, các sách giới
thiệu ngành hàng, mặt hàng của Việt Nam (như quảng cáo trên quyển “Giới
thiệu Việt Nam toàn thế giới”, “Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt
Nam”... ).
- Công ty tiến hành gặp gỡ đại diện của bạn hàng tại Việt Nam hoặc
thông qua các trung tâm xúc tiến thương mại... để quảng cáo, giới thiệu về

công ty (lợi thế của công ty, mặt hàng công ty cần xuất khẩu... ).
23

Về phương pháp nghiên cứu thị trường, công ty chủ yếu sử dụng
phương pháp nghiên cứu tại văn phòng thông qua các sách báo trong và
ngoài nước: Tạp chí thương mại, Bản tin kinh tế... để nắm bắt được nhu
cầu. Từ đó Công ty tiến hành gặp gỡ, đàm phán và thương lượng.
Sau khi nghiên cứu thị trường nước ngoài, ELMACO phải trả lời
được các vấn đề sau:
+ Mặt hàng cụ thể nào có thể xuất khẩu ở nước nào ?
+ Mặt hàng xuất khẩu phải được ưu tiên đầu tư, đổi mới công nghệ,
trước hết trọng tâm là đầu tư, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng
sản phẩm.
+ Phát triển quan hệ ổn định lâu dài trong mua bán, trao đổi tiến tới
phát triển quan hệ liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh.
+ Tạo lập, giữ vững và nâng cao uy tín của ELMACO trong hoạt
động xuất khẩu.
Công tác điều tra, nghiên cứu thị trường nước ngoài sẽ giúp
ELMACO hiểu biết qui luật hoạt động của từng thị trường trên các mặt:
Loại sản phẩm họ đang cần, yêu cầu đặt ra đối với sản phẩm về chất lượng,
bao bì, mẫu mã, dung lượng thị trường, điều kiện chính trị, tập quán buôn
bán, hệ thống pháp luật... Trên cơ sở đó thị trường xuất khẩu của công ty
ELMACO chủ yếu tập trung ở các nước Châu Á: Trung Quốc, Thái Lan,
Bangladest, Hàn Quốc, Nhật, Ấn Độ, Đài Loan... Nhưng ta cũng thấy rằng
do điều kiện chưa cho phép, công tác nghiên cứu thị trường của ELMACO
mới chỉ dừng lại ở phương pháp “ gián tiếp”. Vì vậy độ chính xác hiệu quả
chưa cao. Chẳng hạn, do thiếu thông tin về cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ xảy ra năm 1997 ở Inđônêxia mà ELMACO đã bị mất thị trường Diezen
ở Hồng Kông năm đó.
24


Sau khi tìm được khách hàng hoặc tạo được mối quan hệ với khách
hàng và nhận được đơn hàng, Công ty tiến hành kí kết các hợp đồng xuất
khẩu.
1.3.2.2. Kí kết hợp đồng xuất khẩu
Thông thường bạn hàng của Công ty là nước ngoài nên việc đàm
phán trực tiếp trước khi kí kết hợp đồng ít khi diễn ra. Công ty thường phát
hành các hợp đồng xuất khẩu dưới hình thức “Hợp đồng mua bán hàng
hoá” (Sale Contract), “Bản chào hàng kiêm hoá đơn chiếu lệ” (Offer
Proforma Invoice) qua fax.
Hằng năm, Công ty thường kí kết hợp đồng theo mọi mức giá nhưng
thông thường là theo giá CIF.
1.3.2.3. Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu của công ty ELMACO do hai nguồn sau đảm
nhận:
Nguồn 1: Công ty tiến hành sản xuất để xuất khẩu: Khi có bạn hàng,
Nhà máy sản xuất dây và cáp điện ELMACO và xí nghiệp sản xuất thiết bị
điện sẽ sản xuất theo đơn đặt hàng.
Nguồn 2: Công ty tiến hành thu mua ở bên ngoài.
Công tác thu mua được Công ty thực hiện như sau:
- Khi tìm được bạn hàng Công ty sẽ có đơn đặt hàng với các nhà cung
cấp trong nước. Trong quá trình thu mua vấn đề chất lượng được đặt lên
hàng đầu để đảm bảo chất lượng. Đối với sản phẩm thông thường cán bộ
thu mua tự kiểm tra chất lượng, còn một số sản phẩm đòi hỏi tính kĩ thuật
cao nên phải đưa về công ty để kiểm tra chất lượng bằng máy móc hiện đại
hoặc qua các đơn vị như “ Vina Control”, “ Omic”...
Một số mặt hàng sau khi được đưa về công ty sẽ được sản xuất, chế
biến lại theo đúng yêu cầu kĩ thuật, chất lượng và yêu cầu của bạn hàng.
25

×