Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.14 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt
một cách công minh, chính xác. Tuy nhiên, việc định tội danh chính xác thật không
dễ dàng. Trên thực tiễn xung quanh một vụ án có rất nhiều quan điểm về việc xác
định tội danh của người phạm tội đặc biệt là đối với những vụ án mà hành vi phạm
tội của người phạm tội không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc
trưng, rõ ràng.
Trường hợp phạm tội của A thông qua tình huống số 5 là một minh chứng rõ nét.
Xung quanh hành vi của A, có hai quan điểm như sau: 1. Hành vi của A cấu thành
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản; 2. Hành vi của A cấu thành tội chiếm giữ trái
phép tài sản. Vậy, ý kiến nào mới là ý kiến đúng. Cùng khẳng định qua bài viết dưới
đây.
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Trong tình huống đưa ra không đề cập đến vấn đề độ tuổi cũng như năng lực chịu
TNHS của K, vì thế có thể mặc nhiên hiểu là K có đầy đủ các điều kiện để trở thành
chủ thể thường của tội phạm. Như vậy, với dấu hiệu chủ thể này thì K hoàn toàn có
thể trở thành chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay tội chiếm giữ trái
phép tài sản được nếu thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu khác của một trong
hai loại tội này.
1. Về ý kiến thứ nhất: Hành vi của K cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản.
Để khẳng định hành vi của K có cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay
không thì cần thiết phải xem xét hành vi của K có thỏa mãn cấu thành tội phạm của
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không?
- Về khách thể của tội phạm.
Mặc dù tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định trong chương các tội
phạm xâm phạm sở hữu, nhưng khác với tội cướp tài sản tội, bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản hay tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không xâm
1
phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đặc điểm này


được thể hiện trong cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không quy định thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt.
Đối tượng tác động của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là những tài sản thuộc
sở hữu của một chủ thể nhất định, những tài sản này chưa thoát ly khỏi sự chiếm
hữu của chủ sở hữu (không bị chủ sở hữu đánh mất, bỏ quên, giao nhầm,…), tuy
nhiên tại thời điểm người phạm tội có hành vi công nhiên
1
chiếm đoạt, chủ sở hữu
tài sản không có khả năng quản lý và bảo vệ tài sản do hoàn cảnh khách quan. Mặc
dù biết người khác đang có hành vi chiếm đoạt tài sản của mình nhưng chủ sở hữu
lại không có khả năng ngăn cản được hành vi đó.
Áp dụng vào tình huống: K đã có hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài
sản của ông A đối với số tiền trị giá 4.500.000 đồng được cất trong chiếc cặp sách
màu đen thông qua hành vi chiếm giữ, trạng thái tài sản tại thời điểm K có hành vi
chiếm giữ là tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu của chủ sở hữu. Thật vậy, theo
các tình tiết trong đề bài thì số tiền bị ông A bỏ quên tại quán nước, sau khi bỏ quên,
ông A không còn khả năng chiếm hữu và quản lý tài sản của mình nữa (không thể
biết ai mở hoặc lấy cặp của mình), bà H là chủ quán nước cũng phải là người quản lý
đối với tài sản này. Như vậy, đối tượng mà hành vi của K tác động không thỏa mãn
đối tượng tác động của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Trong tình huống, ngoài số tiền 4.500.000 đồng còn đề cập đến việc K có hành vi
chiếm giữ một số giấy tờ trong cặp của ông A. Vấn đề đặt ra là số giấy tờ này có
được coi là đối tượng của tội phạm trong do Luật hình sự điều chỉnh hay không? Và
liệu có được định giá để xác định mức thiệt hại do hành vi của K gây ra? Các tình
tiết trong tình huống không nói đến dấu hiệu cụ thể của loại giấy tờ này, vì vậy
không thể khẳng định được bản chất của loại giấy tờ này cũng như việc loại giấy tờ
này có thuộc đối tượng được định giá hay không. Từ đó có thể xác định tài sản A
chiếm giữ không bao gồm cả loại giấy tờ này. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều
trường hợp người bị hại còn bị mất các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản
1

Hành vi công nhiên chiếm đoạt là việc thực hiện việc chiếm đoạt không hề có bất cứ hành vi che dấu việc chiếm
đoạt.
2
như: giấy chứng nhận đăng ký xe máy, xe ô tô, giấy chứng nhận quyền sở hữu về
nhà ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,…nhưng các loại giấy tờ này dù có đem
bán, đem trao đổi với giá trị lớn nhưng không thể coi nó là tài sản
2
.
Như vậy, đối tượng mà hành vi của A tác động không thỏa mãn đối tượng tác
động của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
- Về mặt khách quan của tội phạm.
+ Xét hành vi khách quan:
Đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Do đặc điểm riêng của tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là
“chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng bằng hình thức công khai, với thủ đoạn lợi
dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng hoàn cảnh khách quan khác như:
thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh… Ví dụ: lợi dụng A (thợ điện) đang sửa điện ở trên
cao, B là chiếm đoạt chiếc xe máy của A ở dưới chân cột điện, mặc dù biết B có
hành vi chiếm đoạt tài sản của mình nhưng A lại không thể ngăn cản.
Hành vi khách quan này được thực hiện công khai, trắng trợn. Mặc dù tính chất
công khai, trắng trợn không phải là hành vi khách quan nhưng lại là một đặc điểm cơ
bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (phân biệt tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản – chiếm đoạt tài sản một cách lén lút).
Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản, sau đó là công nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối
với người xung quanh, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút để
tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt, người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn.
Đối chiếu với hành vi khách quan của K, theo tình huống, khi phát hiện ra chiếc
cặp bỏ quên, ông K nói với bà chủ quán là H “Xem trong cặp có cái gì” rồi công
khai mở cặp ra xem, sau khi thấy một số giấy tờ cùng một khoản tiền là 4.500.000

đồng, K chia cho bà chủ quán 2.000.000, giấy tờ và số còn tiền còn lại thì K giữ.
Như vậy, K đã thực hiện hành vi chiếm giữ tài sản một cách công khai với người
xung quanh (có sự chứng kiến của bà H) và bản chất của sự chiếm giữ này không có
2
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội phạm – tập 2.
3
tính chất chiếm đoạt - A chiếm giữ số tiền thông qua hành vi nhặt được tài sản
(người khác để quên).
Như vậy, mặc dù hành vi khách quan của K được thực hiện một cách công khai
với người xung quanh tuy nhiên không thể coi là công khai với chủ sở hữu được vì
tại thời điểm K thực hiện hành vi chiếm giữ, A không hề biết và chứng kiến chính vì
vậy, hành vi này không có tính chất công khai giống như hành vi của tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản. Hơn nữa, việc K có được tài sản không hề sử dụng bất cứ một
thủ đoạn nào, mà việc có được tài sản là ngẫu nhiên trong khi đó hành vi khách quan
của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ có thể thực hiện được dựa trên thủ đoạn sơ
hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng hoàn cảnh khách quan khác.
+ Xét hậu quả của hành vi:
Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là
giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 137 BLHS, giá trị tài
sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới
2.000.000 đồng thì phải kèm điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa bị
xóa án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Hành vi của K đã gây ra thiệt hại về tài sản cho A mà cụ thể là số tiền 4.500.000
đồng, thỏa mãn dấu hiệu hậu quả trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (tài sản
chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên). Tuy nhiên, số tiền này K có được không phải
thông qua hành vi chiếm đoạt.
- Xét lỗi của K đối với hành vi: Trong tình huống, K thực hiện hành vi chiếm
giữ tài sản của A với lỗi cố ý trực tiếp, ban đầu K mở cặp của A ra vì tò mò nhưng
sau khi phát hiện ra số tiền trong cặp của A, K đã nảy sinh ý định chiếm đoạt, mặc

dù hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng K vẫn cố tình thực
hiện đến cùng và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Tóm lại hành vi của K không cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hay
nói cách khác: ý kiến “hành vi của K cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản”
là sai.
4
2. Về ý kiến: “Hành vi của K cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản”.
Hành vi của K thỏa mãn dấu hiệu khách thể và hành vi khách quan của tội
chiếm giữ trái phép tài sản nhưng không thỏa mãn dấu hiệu chủ quan và hậu quả
của hành vi chiếm giữ trong tội chiếm giữ trái phép tài sản. Cụ thể:
- Xét khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản là quyền sở hữu tài sản của chủ sở
hữu, áp dụng vào trong tình huống, K đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu về tài
sản của K mà cụ thể là số tiền 4.500.000 đồng, sự xâm phạm được biểu hiện thông
qua hành vi khách quan của K: K đã lấy số tiền 4.500.000, sau đó chia cho bà H
2000.000 đồng.
Đối tượng tác động của tội chiếm giữ trái phép tài sản là những tài sản không có
chủ hoặc chưa có chủ. Theo Điều 163 Bộ luật dân sự 2005 thì tài sản đó bao gồm:
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Trong tội chiếm giữ trái phép tài sản,
thì phải là tài sản hữu hình, có thể nhìn thấy, sờ thấy. Bên cạnh đó, tài sản phải ở
trong trạng thái đã thoát ly khỏi sự chiếm sự hữu của chủ sở hữu tài sản vì những lý
do khác nhau như tài sản bị bỏ quên, bị đánh rơi hay bị giao nhầm… hoặc là những
tài sản chưa được phát hiện như kim khí quý, đã quý, những cổ vật còn nằm trong
lòng đất.
Trong tình huống, K chỉ có thể thực hiện hành vi chiếm đoạt của mình nếu có sự
tác động lên tài sản của A, tại thời điểm mà K xâm phạm, tài sản đang ở tình trạng
thoát ly khỏi sự chiếm hữu của A - chủ sở hữu (A bỏ quên tại quán nước). Như vậy,
đối tượng mà hành vi của A tác động thoả mãn đối tượng tác động của tội chiếm giữ
trái phép tài sản.
- Xét mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của người phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản là lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội biết tài sản đang có không phải là tài sản của mình và biết mình có nghĩa
vụ phải trả lại cho chủ tài sản hoặc phải giao nộp cho cơ quan công an có trách
nhiệm nhưng không thực hiện nghĩa vụ đó vì mong muốn biến tài sản đó thành tài
sản của mình.
5

×