MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
PHÂN MÔN TẬP ĐỌC - LỚP 3
Họ và tên : TRỊNH THỊ OANH
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Cơ sở xuất phát
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động
ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng
hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng
ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng hình thức viết sang lời nói có âm thanh và thông
hiểu nó (đọc thành tiếng). Quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các
đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).
Dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản
đầu tiên đối với người đi học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng
trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác, tạo điều kiện
để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời.
Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của phân môn tập
đọc là hình thành kĩ năng đọc cho học sinh. Kĩ năng đọc được tạo nên từ bốn yêu cầu
đó là: “đọc đúng- đọc nhanh - đọc hiểu - đọc diễn cảm”. Bốn kĩ năng này được hình
thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm, chúng được rèn luyện
đồng thời hỗ trợ cho nhau. Như vậy, đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng
mắt, hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những
gì được đọc. Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng
hợp, càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện,
càng chính xác và biểu cảm bấy nhiêu. Thông qua việc dạy đọc, giáo dục học sinh
lòng ham đọc sách, từ đó làm giàu kiến thức về ngôn ngữ đời sống và kiến thức văn
hóa. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng các em lòng yêu cái thiện
và cái đẹp. Giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
Các yêu cầu về kĩ năng đọc ở lớp 3 là:
+ Đọc lưu loát đoạn văn, khổ thơ và cả bài văn, bài thơ (biết ngắt nhịp, phù hợp
theo thể thơ hay nội dung đọc).
1
+ Đọc thầm, hiểu nội dung bài đọc. Nêu được ý chính của bài, trả lời được câu
hỏi về nội dung, ý nghĩa giá trị nghệ thuật của câu văn, câu thơ.
+ Bước đầu đọc diễn cảm được bài văn hay bài thơ nói chung, có cảm xúc, biết
nhấn giọng ở những từ biểu cảm, gợi tả, biết đọc rõ lời tác giả và lời nhận xét.
2/ Thực trạng khi tiến hành dạy tập đọc ở tiểu học hiện nay.
- Hầu hết giáo viên đã tiếp cận vận dụng đổi mới phương pháp khi dạy phân
môn Tập đọc. Luôn có sự đầu tư đúng mức, tìm tòi giải pháp hữu hiệu để vận dụng
khi dạy. Rèn cách đọc mẫu chuẩn, nghiên cứu kĩ cách hướng dẫn học sinh đọc từ
khó, câu khó. Hướng dẫn cách ngắt nghỉ, nhấn giọng, cách đọc phân vai, khi đọc diễn
cảm
-Học sinh dần dần làm quen với phương pháp học tập mới. Nhiều em đã đọc
diễn cảm tốt, hiểu sâu sắc được nội dung bài, tiết học trở nên hứng thú với các em.
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy môn tập đọc giáo viên còn gặp nhiều bất
cập:
+Bản thân của giáo viên dạy ở các lớp dưới xuất xứ ở nhiều địa phương, nhiều
vùng miền nên có giọng đọc khác nhau, vì thế việc tiếp cận phương ngữ của học sinh
cũng là một trong những khó khăn.
+ Giáo viên nghiên cứu tài liệu tham khảo chủ yếu là sách giáo khoa do đó
phần nào cũng chưa thật phù hợp với đối tượng học sinh nhiều vùng miền.
+Việc tiếp cận phương pháp đổi mới của giáo viên còn nhiều hạn chế chủ yếu
là dạy theo phương pháp truyền thống (giáo viên dạy học sinh nghe là chủ yếu) chưa
phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh.
+Trong giờ Tập đọc một số giáo viên còn nặng nề về giảng giải nội dung của
bài, chưa chú ý rèn luyện kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm cho các em, mà chủ yếu là
dặn dò về nhà tự đọc nên dẫn đến tình trạng học sinh đọc tự do không đúng theo
chuẩn yêu cầu của mỗi thể loại văn xuôi, văn vần.
+ Một số ít học sinh đọc còn ấp úng, chưa liền mạch, phát âm còn ngọng, chưa
chuẩn theo phổ thông (l-n; s-x; ch-tr; vần át-ác; vần an-ang). Học sinh chuẩn bị bài
qua loa, còn mang tính thụ động).
+Phương tiện dạy học tranh minh họa còn thiếu, chủ yếu là giáo viên tự làm, tự
vẽ nên ít hấp dẫn.
2
Xuất phát từ những thực trạng trên bản thân tôi đã tìm tòi, mạnh dạn trao đổi
với giáo viên trong tổ chuyên môn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
dạy môn tập đọc cho học sinh lớp 3 như sau:
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/Điều tra nắm bắt tình hình
Sau khi nhận lớp hai tuần lễ đầu, theo dõi quá trình học môn Tập đọc tôi đã
phân loại:
Tổng số học sinh: 35 em trong đó:
Giỏi 5 em chiếm tỷ lệ: 14,3% ; Khá: 12 em chiếm tỷ lệ: 34,3%
Trung bình: 10 em chiếm tỷ lệ 28,6% ; Yếu: 8 em chiếm tỷ lệ 22,8%
II/ Lên kế hoạch:
Bước 1: Xác định và nắm chắc mục tiêu nội dung dạy học Tập đọc.
Bước 2: Chuẩn bị phương tiện đồ dùng dạy học.
Bước 3: Hình thành và luyện kĩ năng đọc cho học sinh.
Bước 4: Các hoạt động dạy học chủ yếu.
III/ Các giải pháp thực hiện
1/ Đối với giáo viên
Để có một giờ dạy Tập đọc có hiệu quả, giáo viên cần phải hiểu biết sâu sắc
nội dung dạy học Tập đọc và những kỹ năng dạy học Tập đọc. Những hiểu biết về các
kỹ năng này sẽ giúp cho giáo viên tổ chức vào quá trình dạy học Tập đọc đạt hiệu quả
cao cụ thể:
1.1/ Giáo viên phải nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, các tài liệu dạy học và
tìm hiểu trình độ, đặc điểm của học sinh từ đó xác định mục tiêu, nội dung dạy học
cho bài Tập đọc.
*Mục tiêu của giờ dạy học là cái đích mà thầy trò cần đạt được sau giờ học. Để
tiến hành một giờ dạy Tập đọc, giáo viên cần có kỹ năng xác định mục tiêu của giờ
học là rèn các kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Đồng thời
giáo viên phải chỉ ra được tốc độ, nội dung luyện đọc cho học sinh. Xác định mục tiêu
càng cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì việc tiến hành giờ dạy càng có hiệu quả bấy nhiêu.
Ví dụ: Xác định mục tiêu, nội dung dạy học bài: “Hai bàn tay em” (Tiếng việt lớp 3 tập
một trang 7):
*Đọc thành tiếng:
3
+ Đọc đúng các từ, tiếng khó hoặc dễ lẫn do ảnh hưởng của phương ngữ:
- Luyện phát âm cho vùng phương ngữ Bắc Bộ các từ ngữ: sen nở, những lời,
lá thuyền, lòng em, làm,
- Luyện phát âm vùng phương ngữ Nam Bộ các từ: nghỉ hè, sen nở, tuổi,
những lời,
+ Ngắt nghỉ hơi đúng nhịp thơ, cuối mỗi dòng thơ.
+ Đọc trôi chảy toàn bài thơ với giọng tha thiết tình cảm.
-Luyện ngắt nhịp và nhấn giọng cho học sinh tất cả các vùng miền:
Em về quê ngoại/ nghỉ hè/
Gặp đầm sen nở/ mà mê hương trời//
Gặp bà/ tuổi đã tám mươi/
Quên quên/ nhớ nhớ/ những lời ngày xưa.//
* Đọc hiểu: Hiểu các từ ngữ khó trong bài: mê, rực màu rơm phơi,
+ Dạy nghĩa từ:
-Hương trời: ý nói mùi hương của sen tỏa mát trong không gian.
- Chân đất: ý nói người nông dân.
+ Dạy nghĩa câu: “Gặp trăng gặp gió bất ngờ,
Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu.”
Ý chỉ một bạn nhỏ ở thành phố về thăm quê, nhờ sự ngạc nhiên của bạn nhỏ
khi bắt gặp những điều lạ ở quê.
+ Nội dung bài: Bài thơ cho ta thấy tình cảm yêu thương của bạn nhỏ đối với
quê ngoại.
+ Giáo dục học sinh: Biết yêu quê hương, yêu cuộc sống yêu thương những
người nông dân Việt Nam họ là những người thật thà, chất phác, mộc mạc, giản dị đã
làm ra hạt gạo thơm ngon.
1.2/ Giáo viên cần có kĩ năng đọc thành thục, phải kiên trì phấn đấu rèn luyện tốt về
các mặt như: Đọc mẫu thật diễn cảm, ngắt nghỉ đúng chỗ, biểu lộ cảm xúc với từng
kiểu câu. Khi đọc các bài văn xuôi chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới, ngữ
đoạn.
Ví dụ: “ Bé kẹp lại tóc,/ thả ống quần xuống,/ lấy cái nón của má đội lên đầu.// Nó cố
bắt trước dáng đi khoan thai của cô giáo/ khi cô bước vào lớp.// mấy đứa nhỏ làm y
hệt đám học trò,/ đứng cả dậy,/ khúc khích cười chào cô.//”
(Cô giáo tí hon - Tiếng Việt lớp 3 tập I trang17)
4
1.3 / Giáo viên phải phát âm đúng và chuẩn mực ngữ âm tiếng việt, chú trọng
rèn luyện đúng âm đầu l/n (đối với học sinh vùng Bắc Bộ); âm s/x; ch/tr (đối với học
sinh miền Trung); và âm v/d/gi; âm cuối vần n/ng và c/t (đối với học sinh Nam Bộ và
Trung Bộ.)
1.4/ Giáo viên phải biết “nghe” và “phát hiện” để nhận xét, uốn nắn và hướng dẫn học
sinh đọc tiến bộ, có những biện pháp gợi mở, dẫn dắt khéo léo, phù hợp, giúp học
sinh tìm hiểu và cảm thụ tốt bài văn. Từ đó, các em có khả năng đọc diễn cảm tốt. Thể
hiện nội dung cảm thụ bằng giọng đọc, có cơ sở để trau dồi cách diễn đạt ngôn ngữ.
Thể hiện những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân bằng lời nói hay chữ viết.
Giờ Tập đọc ở lớp 3 trước hết vẫn là giờ “dạy đọc” hiểu theo nghĩa: đọc hiểu và
cảm nhận văn bản có tính nghệ thuật. Vì vậy, tinh thần cơ bản của giờ Tập đọc là: qua
đọc mà giúp các em cảm thụ tốt bài văn, bài thơ từ việc “đọc hiểu” mà rèn kĩ năng
diễn đạt ngôn ngữ, bồi dưỡng tư duy và trau dồi cảm xúc cho học sinh.
1.5/ Chuẩn bị phương tiện đồ dùng dạy học góp phần không nhỏ để tạo ra hiệu quả
giờ dạy Tập đọc. Vì vậy khi chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên cần xác định mục
đích của đồ dùng đó là gì? nó được sử dụng vào lúc nào? và cách sử dụng của nó ra
sao? để nhằm gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Ông ngoại”. Để trả lời cho câu hỏi: Vì sao bạn nhỏ gọi ông ngoại là
người thầy đầu tiên?
Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh vẽ cảnh ông ngoại bế cao bạn nhỏ
trên tay và cho bạn gõ thử vào chiếc trống trường mà bạn nhỏ chưa bao giờ được
làm việc này. Ông còn dạy cho bạn nhỏ những chữ cái đầu tiên. Ông là người đầu
tiên dẫn bạn nhỏ đến trường học.
2/ Đối với học sinh
Rèn luyện kĩ năng đọc qua hình thức đọc thành tiếng, học sinh cần thực hiện
tốt các vấn đề sau:
2.1 Chuẩn bị cho việc đọc
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị tâm thế đọc, khi ngồi đọc, học sinh
phải ngồi ngay ngắn. Khoảng cách từ mặt đến sách trong khoảng từ 30cm đến 35cm,
cổ và đầu hơi thẳng, phải thở sâu và thở chậm ra để lấy hơi. Khi giáo viên gọi đọc,
học sinh phải bình tĩnh, tự tin, đứng dậy không hấp tấp đọc ngay để có thời gian tạo
tâm thế. Giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo thành công, tạo cho các
em sự tự tin cần thiết để đi vào trong giao tiếp xã hội.
5
2.2 Luyện đọc to
- Để giao tiếp bằng lời nói có hiệu quả đồng thời cũng để tôn trọng người nghe,
người nói phải làm chủ âm lượng giọng nói của mình sao cho tất cả người nghe cùng
nghe rõ. Đọc thành tiếng là giao tiếp trước đông người. Khi đọc thành tiếng, học sinh
phải tính đến người nghe. Giáo viên phải cho các em hiểu rằng: các em đọc không
phải chỉ cho mình cô giáo mà cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe nên cần đọc với
giọng đủ lớn để mọi người cùng nghe rõ. Đối với những học sinh đọc quá nhỏ vì các
em thiếu tự tin do chưa quen giao tiếp với mọi người. Giáo viên cần động viên,
khuyến khích, dạy cho các em biết cư xử đàng hoàng, tự nhiên, tự tin trước tập thể
lớp. Được đứng trước các bạn nhiều lần, được cô giáo nâng đỡ khuyến khích, các em
sẽ thích đọc, sẽ quen đọc to, dõng dạc. Các em đọc nhỏ còn vì chưa biết cách nào để
đọc cho to. Học sinh thường đọc với ngữ điệu thấp. Cường độ lớn phải đi kèm với
cao độ cao. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách nâng giọng cao hơn để
đọc được to hơn. Học sinh không đọc được to là vì không biết cách lấy hơi. Giáo viên
cần luyện cho học sinh thở sâu và lấy hơi ở những chỗ ngắt nghỉ khi đọc. Nhưng đọc
to cũng không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Giáo viên cần điều chỉnh để cho
các em đọc nhỏ lại. Thầy cô giáo cần đọc mẫu để học sinh nhận rõ độ lớn của giọng
như thế nào là vừa phải.
a/ Rèn đọc đúng
Đọc đúng là tái hiện mặt âm thanh của bài tập đọc một cách chính xác, không
mắc lỗi, đọc không thừa, không sót tiếng. Vì vậy trong giờ Tập đọc giáo viên cần tập
trung hướng dẫn học sinh khắc phục một số hạn chế như: phát âm sai phụ âm đầu,
âm chính, âm cuối, đọc ngắt nghỉ theo cách tùy tiện.
+ Khắc phục lỗi phát âm địa phương: đối tượng học sinh ở mọi miền nên cách
phát âm khác nhau. Vì vậy trong giờ Tập đọc giáo viên cần nắm được học sinh đó
phát âm sai ở những trường hợp nào để có biện pháp khắc phục theo hệ thống ngữ
âm chuẩn.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Các em nhỏ và cụ già” Học sinh phát âm sai phụ âm đầu:
“xải cánh; díu dít”. Giáo viên sửa lại cho học sinh: “sải cánh; ríu rít”.
Học sinh đọc sai âm cuối: “nghẹng ngào; lùi dầng”. Giáo viên sửa lại cho học
sinh: “nghẹn ngào; lùi dần”.
6
+ Khắc phục cách đọc tùy tiện: Học sinh đọc không đúng tiết tấu và dùng ngữ
điệu chưa đúng. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa vào nghĩa, dựa vào
quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng, cho hay.
Ví dụ: Khi dạy bài: Nhớ Việt Bắc ( Sách Tiếng Việt lớp 3 tập 1 trang 115 có câu:
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Tôi cho các em thảo luận nhóm để tìm xem cách ngắt nhịp nào hay hơn.
Cách 1: Ta về/ ta nhớ/ những hoa cùng người.//
Cách 2: Ta về ta nhớ/ những hoa cùng người.//
Giáo viên giải thích: Cả hai cách ngắt nhịp đều đúng. Cách 1 ngắt theo nhịp thơ
còn cách 2 ngắt nhịp theo ý tứ và cách ngắt nhịp này hay hơn vì cho ta thấy: Khi về
xuôi, người cán bộ đã nhắn nhủ với người Việt Bắc rằng: Phong cảnh Việt Bắc rất đẹp
và con người Việt Bắc thì đánh giặc thật giỏi.
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy và nghỉ hơi lâu
ở dấu chấm. Đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể,
thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm
Ví dụ: Cậu bé kia,/ sao dám đến đây làm ầm ĩ?// (đọc với giọng oai nghiêm.)
“ Muôn tâu đức vua//- cậu bé đáp-// bố con mới đẻ em bé,/ bắt con đi xin sữa
cho em.// con không xin được,/ liền bị đuổi đi.//( Đọc với giọng lễ phép, bình tĩnh, tự
tin.)
“ Thằng bé này láo,/ dám đùa với trẫm!// Bố ngươi là đàn ông thì đẻ sao
được?//( Đọc với giọng hơi giận giữ, lên giọng ở cuối câu).
(Bài: Cậu bé thông minh sách Tiếng Việt lớp 3 tập I trang 4)
b/ Rèn đọc nhanh
Khi dạy Tập đọc nhiều em còn chậm hoặc đọc ấp úng. Giáo viên cần hướng
dẫn các em đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy). Khi đọc cho người khác
nghe, người đọc phải để cho người khác nghe hiểu được, vì vậy, đọc nhanh không có
nghĩa là đọc liến thoắng. Để hướng dẫn học sinh đọc nhanh, trong quá trình dạy đọc
giáo viên cần chú ý những biện pháp sau:
+ Hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ, đọc bằng cách giữ nhịp, dự tính bài đó
đọc trong mấy phút. Ngoài ra giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc tiếp nối trên lớp
có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Những bài có nội dung khó
hiểu cần đọc chậm hơn những bài có nội dung đơn giản. Thơ cần đọc chậm hơn các
bài văn xuôi. Đọc văn xuôi cần lưu ý: cụm từ dấu câu, kiểu câu.
7
Ví dụ:
“ Chúng ta sẽ không bao giờ giận nhau nữa,/ phải không/ En - ri- cô?”
( Giọng đọc thân thiện, nhẹ nhàng).
Đáng lẽ con phải xin lỗi bạn/ vì con có lỗi.// Thế mà con lại giơ thước dọa
đánh bạn.// ( Giọng nghiêm khắc- nhấn giọng ở từ gạch chân).
( Bài: Ai có lỗi-Tiếng Việt lớp 3-tập I- Trang 12.
Đối với thơ thường thể hiện sắc thái tình cảm, vì vậy phải đọc đúng nhịp điệu
mới thể hiện được tình cảm của tác giả gởi gắm vào trong từng từ, từng dòng thơ để
truyền đến người nghe.
Khi ngắt nhịp thơ, các em dựa vào quan hệ ý nghĩa ngữ pháp sẽ giúp các em
ngắt nhịp đúng.
Ví dụ:
Ở tận sông Hồng /em có biết ( nhịp ¾)
Quê hương anh/ cũng có dòng sông ( nhịp ¾).
Anh mãi gọi /với lòng tha thiết (nhịp ¾)
Vàm Cỏ Đông/ ơi Vàm Cỏ Đông (nhịp ¾)
Đây con sông/ soi dòng nước chảy (nhịp ¾)
Bóng lồng/ trên sóng nước chơi vơi ( nhịp 2/5)
( Bài: Vàm Cỏ Đông-Tiếng Việt lớp 3-tập I-trang 106).
Khi đọc thơ việc ngắt giọng không chỉ phụ thuộc bởi dấu câu mà còn căn cứ
vào tình tiết nhịp điệu của thơ, chỗ ngắt giọng phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết
đoạn. Không tách một câu làm hai.
Ví dụ: Bài: “Cái cầu” (sách Tiếng Việt lớp 3 tập II trang 34) có câu:
Như võng trên sông ru người qua lại
Không đọc là:Như võng/ trên sông ru người qua lại.
Câu thơ trên phải đọc như sau:
Như võng trên sông/ ru người qua lại.
-Bên cạnh việc dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ pháp còn
dạy học sinh cách ngắt giọng biểu cảm.
Ví dụ: Dạy bài: “Tiếng ru” (sách Tiếng Việt lớp 3-tập I trang 64):
Con ong làm mật,/ yêu hoa//
Con cá bơi,/ yêu nước;// con chim ca,/ yêu trời//
Con người muốn sống/ con ơi//
8
Phải yêu đồng chí,/ yêu người anh em.//
Ngắt giọng đúng nhịp câu thơ, câu văn là mục đích của việc dạy học, từ đó học
sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh được nội dung bài học một cách sâu sắc. Học sinh sẽ đọc
nhanh đọc lưu loát. Giờ học đạt kết quả cao.
C/ Rèn đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những bài văn, bài thơ có yếu tố
nghệ thuật. Đó là khả năng làm chủ ngữ điệu, làm chủ các thông số âm thanh như tốc
độ, chỗ ngừng giọng. Để biểu đạt được ý nghĩa và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong
bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
Đọc diễn cảm còn thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao trên cơ sở đọc đúng và đọc
lưu loát. Để học sinh đọc diễn cảm tốt giáo viên cần phải biết kết hợp nhiều phương
pháp, từ ngợi mở đến phân tích tổng hợp để gây hứng thú cho học sinh khi đọc,
hướng dẫn cách đọc chu đáo, tổ chức cho học sinh thi đọc những câu khó ngắt nhịp,
những câu văn, đoạn văn khó diễn tả tình cảm rồi cho cả lớp nhận xét và tuyên dương
nhằm động viên, khuyến khích các em ngay trong tiết học. Giáo viên có thể dựa vào
yêu cầu đọc diễn cảm của từng bài cụ thể mà đề ra mức phấn đấu cho từng chặng
của bài như: Đọc diễn cảm một câu, hai câu đến một đoạn của bài văn, bài thơ. Sau
đó đọc diễn cảm từ một đoạn, vài đoạn cho đến cả bài văn, bài thơ và tiến tới cho học
sinh tự đề xuất cách đọc một đoạn văn khi đã hiểu nội dung.
Ví dụ: khi dạy bài “Quạt cho bà ngủ” (sách Tiếng Việt-lớp 3-tập I-trang 23):
Giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp từng khổ thơ thể hiện đúng tâm trạng của
bạn nhỏ trong bài thơ đồng thời cần hướng dẫn cho học sinh nghỉ hơi đúng phù hợp
với từng dòng thơ, nghỉ hơi tự nhiên (nghỉ nhanh, ngầm thấy sự phân cách giữa các
từ, cụm từ, tránh nghỉ hơi quá rõ trở thành đọc nhát gừng) Ví dụ:
Ơi /chích chòe ơi!//
Chim đừng hót nữa,/
Bà em/ ốm rồi/
Lặng/ cho bà ngủ//
Trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm, nhiều khi không chỉ đọc
chậm mà dùng cả trường độ, cao độ kéo dài giọng đọc từng tiếng để cho câu văn, câu
thơ ngân lên.
Cần hướng dẫn học sinh ngân dài ra để thể hiện được tình cảm yêu
thương, hiếu thảo của người cháu đối với bà.
9
Giáo viên cho học sinh đọc diễn cảm khổ thơ 4. Đọc diễn cảm theo cặp. Sau đó
cho học sinh thi đọc diễn cảm từng đoạn và bài thơ.
*Đối với bài Tập đọc học thuộc lòng, giáo viên nên dành thời gian và khuyến
khích học sinh đọc thuộc lòng khổ thơ bài thơ.
* Đối với những bài có lời của các nhân vật, giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh đọc phân vai để làm sống lại các nhân vật của tác giả.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Người mẹ” (sách giáo khoa Tiếng Việt-lớp 3-tậpI-trang29),
giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc:
Chẳng hạn:
“- Làm sao ngươi có thể tìm đến tận nơi đây?//( Đọc với giọng ngạc nhiên).
“ Vì tôi là mẹ.//( Đọc với giọng khảng khái) Hãy trả con cho tôi” ( Đọc với giọng
rõ ràng, dứt khoát).
Khi học sinh biết nhấn giọng, ngừng giọng, thay đổi giọng đọc phù hợp với tình
cảm cần diễn đạt sẽ giúp học sinh đọc diễn cảm tốt.
d/ Rèn đọc qua hình thức đọc thầm
Mục đích của đọc thầm là để hiểu, hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả
năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Nội dung đọc thầm chính là dạy đọc hiểu. Kết
quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa cụm từ, câu, đoạn bài, tức là toàn bộ
những gì được đọc. Để giúp học sinh đọc thầm đạt hiệu quả, giáo viên phải tập cho
học sinh tư thế ngồi ngay ngắn, có thói quen đọc hoàn toàn bằng mắt.
Ví dụ: Để tìm hiểu nội dung chính bài: “Cửa Tùng” ( sách giáo khoa Tiếng Việt
lớp 3 tập I- trang 108). Giáo viên cho hai học sinh ngồi cùng bàn đọc thầm, trao đổi
thảo luận để tìm ra nội dung chính của bài:
Ca ngợi vẻ đẹp của Cửa Tùng, một cửa biển ở miền Trung nước ta.
Giáo viên cần tập cho học sinh thói quen đọc thầm suốt cả tiết học: khi giáo viên đọc
mẫu, học sinh đọc thầm; khi các bạn khác đọc mình cũng phải đọc thầm theo. Tăng
cường hình thức đọc nối tiếp để học sinh đều chuẩn bị tư thế đến lượt mình đọc. Có
như vậy thì hiệu quả đọc thầm mới cao. Trong giờ Tập đọc giáo viên phải luyện cho
học sinh hai hình thức đọc đó là đọc thành tiếng và đọc thầm. Hai hình thức này phải
được thực hiện song song vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời rèn
cho học sinh ham học. Từ đó hình thành cách đọc toàn diện cho học sinh.
3/ Tổ chức giờ học sôi nổi gây hứng thú cho học sinh
10
Học sinh tiểu học thích hoạt động vui chơi. Nếu giờ học diễn ra đều đều, chỉ
luyện đọc và trả lời câu hỏi thì giờ học sẽ tẻ nhạt. Để giờ học diễn ra sôi nổi, tôi đã kết
hợp cho học sinh tham gia trò chơi học tập. Cụ thể:
3.1/ Đối với bài tập đọc có lời văn đối thoại
Giáo viên xây dựng màn kịch ngắn với nội dung của bài học. Học sinh sắm vai
các nhân vật trong bài.
Ví dụ: Khi dạy bài “Mồ côi xử kiện” ( sách Tiếng Việt-lớp 3-tập I-trang 139):
Trong phần luyện đọc, giáo viên phân vai cho một tốp 4 học sinh giọng đọc rõ
ràng, hồn nhiên và phân biệt được lời của từng nhân vật:
Giọng kể của người dẫn truyện: khách quan.
Giọng chủ quán: Vu vạ thiếu thật thà.
Giọng bác nông dân: Phân trần, thật thà ( khi kể lại sự việc); ngạc nhiên giãy
nảy lên ( khi nghe lời phán của Mồ Côi đòi bác phải trả tiền cho chủ quán).
Giọng mồ côi: nhẹ nhàng, thản nhiên ( khi hỏi han chủ quán và bác nông dân);
nghiêm nghị (khi yêu cầu bác nông dân phải xóc bạc, chủ quán phải chăm chú nghe);
lời nói cuối cùng rất oai, giấu một nụ cười hóm hỉnh: “ Bác này đã bồi thường cho chủ
quán đủ số tiền. Một bên” hít mùi thịt”, một bên “ nghe tiếng bạc”. Thế là công bằng.”
Giáo viên yêu cầu hai tốp học sinh lần lượt thi đọc xem tốp nào đọc hay hơn.
Giáo viên gọi học sinh lần lượt lên bảng và nhập vai, tất cả các học sinh đều
được hoạt động, đều được luyện nói, được thể hiện bằng cử chỉ, nét mặt thông qua
các nhân vật mà mình nhập vai.
Qua các giờ học như vậy học sinh có tiến bộ rõ dệt các em tự tin ở bản thân
mình hơn. Giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh hứng thú học bài.
3.2/ Đối với dạng bài Tập đọc khác
Giáo viên tổ chức trò chơi truyền điện, giáo viên gọi học sinh đọc bài, học sinh
đó đọc được một đoạn văn hoặc một khổ thơ hay một câu văn, câu thơ, đột nhiên học
sinh đó dừng lại và gọi bạn khác đọc tiếp bài của mình, cứ như vậy cho đến hết. Đối
với cách đọc này đòi hỏi tất cả học sinh đều phải tập trung chú ý vào bài, số học sinh
được luyện đọc nhiều, lớp giữ trật tự.
Giáo viên có thể chia lớp thành hai tổ xem tổ nào đọc hay. Khi học sinh đọc bài,
giáo viên lắng nghe để kịp thời sửa chữa cho những học sinh đọc sai, khen ngợi kịp
thời đối với học sinh đọc đúng.
- Tổ chức thi đọc hay, diễn cảm dẫn đến tiết học hấp dẫn và đạt hiệu quả.
11
3.3/ Kết hợp giữa gia đình và nhà trường
Thời gian học tập ở trường tuy nhiều, nhưng các em không chỉ học một phân
môn Tập đọc mà các em còn phải học nhiều môn học khác. Vì vậy, các em về nhà
phải có thời gian học tập. Đối với học sinh yếu, cá biệt, trây lười trong học tập, bố mẹ
mải làm ít quan tâm, để giúp những học sinh đó vươn lên tôi có một số biện pháp như
sau:
+ Tổ chức cuộc họp giữa gia đình và nhà trường để đề ra phương hướng cho
cụ thể.
+ Đến thăm gia đình, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình đó.
+ Thường xuyên thông báo việc học tập trên lớp của học sinh đó trong từng
ngày, tuần, tháng.
+ Giáo viên giao bài tập về nhà cho học sinh, đến lớp giáo viên kiểm tra đánh
giá, ghi điểm.
+Trong quá trình soạn bài, tôi soạn ra những câu hỏi dễ dành cho học sinh yếu
để các em đó có thể trả lời được, và động viên khen ngợi kịp thời.
C/ Kết quả và bài học kinh nghiệm
1/ Kết quả
Qua quá trình áp dụng các giải pháp trên, tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh
ngày càng có chuyển biến rõ rệt. Trong giờ tập đọc, các em đã mạnh dạn xung phong
đọc và xây dựng nội dung bài, hạn chế được tình trạng ấp úng, ngắt nghỉ không chính
xác. Nhiều em đọc diễn cảm tốt thể hiện rõ giọng đọc của từng nhân vật.
So với chất lượng khảo sát đầu năm, chất lượng các bài Tập đọc cao hơn hẳn.
Cụ thể, kì thi định kì lần 1 kết quả như sau:
Tổng số học sinh trong lớp là: 35 em. Trong đó:
Bài đạt điểm giỏi: 18 em chiếm tỷ tệ 50%
Bài đạt điểm khá: 14 em chiếm tỷ lệ 37,5%
Bài đạt điểm trung bình: 3 em chiếm tỷ tệ 12,5%
Không có bài bị điểm dưới trung bình.
-Tôi cũng đã trao đổi kinh nghiệm này đối với các giáo viên trong tổ. Các đồng
chí đều cho rằng rất phù hợp với nội dung sách giáo khoa mới, phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi học sinh. Các em biết cách ngắt nghỉ, nhấn
giọng đúng theo yêu cầu của từng bài. Đa số học sinh trong lớp đều biết đọc diễn
12
cảm. Với kết quả này khiến cho tôi càng tin tưởng vào các giải pháp trên và luôn tìm
tòi những biện pháp mới để áp dụng một cách phù hợp trong tiết dạy.
2. Bài học kinh nghiệm:
+Muốn đạt được mục tiêu dạy học của phân môn Tập đọc trước hết người
giáo viên phải nắm được mục tiêu, yêu cầu cụ thể của từng bài. Để đạt được mục tiêu
ấy người giáo viên phải không ngừng tự học, để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Giáo viên phải đọc nhiều trong sách giáo khoa, nắm bắt được ý đồ của
sách, cấu trúc chương trình bài dạy. Đọc mục tiêu trong sách giáo viên để biết được
mục tiêu của tiết dạy là gì. Trên cơ sở mục tiêu của tiết dạy, giáo viên lựa chọn nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động phù hợp với đối tượng, với từng
dạng bài Tập đọc.
+ Giáo viên phải chuẩn bị kĩ, đọc nhiều lần để đọc tốt, hiểu kĩ những yêu cầu về
kĩ năng đọc, ngữ điệu của bài để hướng dẫn cho học sinh. Để nâng cao kĩ năng đọc,
khi đọc mẫu giáo viên phải đọc chuẩn, rõ ràng trôi chảy, đọc đủ lớn cho học sinh nghe
và đọc diễn cảm.
+ Khi đọc mẫu giáo viên phải đứng ở vị trí thuận tiện để bao quát lớp. Ổn định
trật tự, cho học sinh chú ý vào bài, gây hứng thú khi nghe đọc.
+ Phải hướng dẫn học sinh biết phối hợp đồng bộ ba cơ quan (cơ quan phát
âm, cơ quan thị giác và cơ quan thính giác) để nâng cao khả năng tổng hợp giúp học
sinh đọc đúng, đọc nhanh.
+ Trong một tiết Tập đọc phải cho học sinh đọc nhiều. Khi học sinh đọc, giáo
viên chú ý lắng nghe phát hiện những chỗ sai để học sinh đọc lại cho đúng. Giáo viên
cần động viên những em có tiến bộ, những em có giọng đọc hay để khích lệ học sinh
học Tập đọc.
Kĩ năng đọc là một kĩ năng phức tạp đòi hỏi phải có một quá trình luyện tập lâu
dài. Vì vậy giáo viên phải kiên trì, bền bỉ trong giảng dạy. Rèn kĩ năng đọc không phải
chỉ trong phân môn Tập đọc mà cả trong giờ học của các môn học khác.
Ở mỗi bài dạy giáo viên phải có kế hoạch, việc làm cụ thể của thầy và trò, chuẩn
bị đầy đủ đồ dùng, phương tiện dạy học.
Trên cơ sở vận dụng những định hướng đổi mới của thay sách lớp 3 ( nhất là
phân môn Tập đọc). Chắc chắn còn nhiều thiếu sót song tôi cũng mạnh dạn trình bày
những việc làm của bản thân. Rất mong được sự góp ý chân thành của hội đồng khoa
học các cấp.
13
Tôi xin chân thành cảm ơn.
14