Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Giải pháp phát triển ngành công nghiệp sữa ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.58 KB, 23 trang )

Họ tên : Mai Tuấn Anh
Lớp : KTPT47A-QN
Đề tài : Giải pháp phát triển ngành công nghiệp sữa ở Việt
Nam thời kỳ hậu WTO
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Chương I : Một số vấn đề lý luận về sữa và ngành công nghiệp sữa
I/ Ngành công nghiệp sữa Việt Nam
1.Đặc trưng của ngành sữa Việt Nam
Ngành công nghiệp chế biến sữa là ngành công nghiệp thực phẩm thiết yếu
phục vụ đời sống nhân dân. Các sản phẩm của ngành được chế biến từ nguồn
nguyên liệu chính là sữa động vật ( sữa bò, sữa dê) . Chính vì thế, sản phẩm có
hàm lượng dinh dưỡng cao thực sự cần thiết cho con người trong suốt quá trình
tồn tại từ khi sinh ra, trưởng thành và cho tới khi già yếu.
Ngành công nghiệp sữa cũng là một trong số các ngành có sự đòi hỏi cao về
công nghiệp chế biến cũng như vè máy móc, thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một
sản phẩm sữa có chất lượng và đảm bảo yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp sữa còn có một đặc trưng là nguồn nguyên
liệu phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là khí hậu. Việt nam
chúng ta không có được điều kiện khí hậu thuận lợi như ở các nước xứ lạnh
khác nên việc chăn nuôi bò sữa gặp khó khăn, đây là nguyên nhân gây ra tình
trạng nguồn cung nguyên liệu trong nước bị thiếu hụt trầm trọng. Cho đến cuối
năm 2006, nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào trong nước chỉ đảm bảo khoảng
20%, những dự án nuôi bò thất bại đã khiến nguồn cung đầu vào đã ít còn thêm
khan hiếm (hai trung tâm nghiên cứu, nuôi bò với quy mô lớn là Ba Vì – Hà
Tây, Mộc Châu – Sơn La và một số trung tâm nuôi bò sữa ở ven TP. HCM, các
tỉnh lân cận), các nhà máy sữa chỉ còn trông chờ vào 80% nguồn nguyên liệu
nhập ngoại từ các nước Úc, Newziland, Mỹ, Ấn Độ… và nguồn này hoàn toàn
là sữa bột nguyên liệu
Như vậy có thể nói, tuy còn nhiều khó khăn những ngành công nghiệp chế
biến sữa Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng, và là hướng đi có tính
chiến lược của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình họi nhập kinh tế quốc tế.


2.Vai trò của ngành sữa Việt Nam
a. Đối với đời sống
Đối với đời sống người dân ở các nước phát triển thì các sản phẩm sữa là một
trong những sản phẩm thiết yếu nhất không thể thiếu được trong khẩu phần dinh
dưỡng hàng ngày, vì thế mức tiêu thụ sữa ở đây là rất lớn.Các sản phẩm chế
biến từ sữa là nguồn dinh dưỡng cao cần thiết cho quá trình phát triển của con
người từ khi sinh ra cho tới khi lớn lên.Nguồn dinh dưỡng này sẽ cho con người
đầy đủ sức khỏe, sự thông minh sáng suốt và cả việc cải tạo giống nòi.
Việt Nam dù đã chấm dứt chiến tranh từ lâu, hòa bình đã lập lại nhưng xã hội
chúng ta vẫn còn tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân còn thấp ,thể
chất người Việt Nam còn yếu, tuổi thọ trung bình chưa cao.Nguyên nhân chính
là do vấn đề dinh dưỡng chưa được đảm bảo và chưa được phân bố đều trên mọi
nơi.
Hiện nay, khi xã hội đã phát triển, đời sống người dân được cải thiện, ngành
công nghiệp sữa đã được nhìn nhận với vai trò ngày càng quan trọng trong việc
góp phần nâng cao thể lực và tuổi thọ người dân.
b. Đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Công nghiệp chế biến sữa là một trong những ngành thuộc công nghiệp chế biến
có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế Việt Nam.
Phát triển công nghiệp chế biến sữa sẽ góp phần thúc đẩy một số ngành nghề
khác phát triển như ngành chăn nuôi, mía đường… thông qua mối liên kết
ngược xuôi, gián tiếp.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp sữa nếu phát triển tốt cũng góp phần giải
quyết việc làm cho hàng vạn lao động ở khu vực nông thôn.
II/ Những cam kết của Việt Nam về ngành sữa trong khuôn khổ WTO
1. Quy định
Việc gia nhập WTO sẽ đưa ngành chế biến sữa vào cuộc cạnh tranh mới quyết
liệt hơn. Nguyên nhân chủ yếu do nhiều nước trong cộng đồng tổ chức WTO
đang sản xuất sữa với giá thành cực rẻ. Đây là những nước được thiên nhiên ưu
đãi phù hợp với qui mô chăn nuôi bò sữa công nghiệp, chi phí rất thấp.

Họ có những cánh đồng cỏ mênh mông, không phải đầu tư nhiều, việc chăn
thả không tốn nhiều công sức và thu hoạch cũng như bảo quản theo hướng công
nghiệp. Như vậy, không chỉ chi phí sản xuất thấp, năng suất cao, mà chất lượng
sản phẩm của họ đảm bảo tuyệt hảo, nếu không có lộ trình giảm thuế nhập khẩu
thỏa đáng thì sản xuất trong nước sẽ khó cạnh tranh
2. Thuế khoán
Cam kết với WTO
TT Ngành hàng/Mức thuế suất Thuế
suất
MFN
Thuế suất
khi gia nhập
Thuế suất
cuối cùng
Thời gian
thực hiện
- Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm
- Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm

Bảng : Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu sữa
Theo lộ trình cam kết với WTO, VN chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu các loại sữa
thành phẩm 5% trong vòng năm năm tới, mức thuế còn lại vẫn khá cao với 25%.
Riêng nguyên liệu sữa bột, hiện VN phải nhập khẩu khoảng 80%, tuy thuế nhập
khẩu sẽ giảm ngay trong hai năm tới nhưng cũng chỉ giảm có 2%, còn 18%.
3. Những chính sách ưu đãi của Nhà nước
3.1.Chính sách khuyến khích đầu tư
Khuyến khích đầu tư cho vùng chăn nuôi bò sữa như cho vay ưu đãi, bảo
hiểm cho nông dân vùng chăn nuôi bò sữa , lấy lãi công nghiệp bù đắp cho nông
nghiệp để khuyến khích chăn nuôi bò sữa.Chủ trang trại được thuê đất lâu dài để
trồng cỏ, cho nông dân chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng

cỏ như miễn thuế đất nông nghiệp từ 5-7 năm.
Đối với người lập trang trại nuôi bò, đầu tư không thu hồi 1 bò đực giống,
cấp 1 kg hạt cỏ giống cho trang trại quy mô 15 bò cái sinh sản trở lên ; chi phí
xây dựng chuồng trại ban đầu được hỗ trợ 100% lãi suất 3 năm đầu.
3.2. Chính sách huy động vốn
- Được vay vốn tín dụng đầu tư cho các nhà máy chế biến sữa mới. Các thủ
tục vay cần được cải tiến mạnh mẽ hơn để giúp các doanh nghiệp phát huy
quyền chủ động, tự chủ về tài chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng
trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
- Đầu tư vốn ngân sách cho công tác đào tạo và khuyến nông.
3.3.Chính sách công nghệ
- Khuyến khích áp dụng công nghệ mới, tiên tiến vào ngành sữa nhằm mục
đích tiến kịp với các nước trong khu vực và thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu. Áp
dụng công nghệ mới tiên tiến trong sản xuất sữa, đảm bảo cho quy trình vệ sinh
an toàn thực phẩm được an toàn khi mở rộng công nghệ sản xuất của các nhà
máy.
- Ưu tiên cho các công trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào sản
xuất sữa ( bằng vốn vay ưu đãi, trả chậm hoặc kéo dài thời gian vay với lãi suất
thấp, miễn thuế trong thời gian thử nghiệm và bắt đầu áp dụng vào sản xuất…)
- Xây dựng mỗi địa phương một cơ sở sản xuất, cung cấp giống F1 và một
trang trại kiểu mẫu để làm nơi huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật, tham quan,
trình diễn cho người chăn nuôi bò sữa.
III/ Sự cần thiết thúc đấy phát triển ngành sữa thời kỳ hậu WTO
1. Do tầm quan trọngcủa ngành sữa đối với kinh tế - xã hội
Ngành công nghiệp chế biến sữa là một ngành có vai trò quan trọng trong
cuộc sống, nhằm nâng cao khả năng dinh dưỡng cho từng đối tượng, lứa tuổi
khác nhau cũng như có tác động mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và thúc đấy các nhành khác cùng phát triển theo.
2. Do sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ bên ngoài
Giai đoạn hậu WTO có khả năng các công ty nước ngoài sẽ đầu tư nhà máy

mới, hoặc gia công ngay tại các nhà máy trong nước, do vậy xu hướng giảm giá
sẽ là rất lớn.Trong khi đó, nguồn cung cấp sữa tươi trong nước hiện còn mang
tính cá thể của các hộ nông dân , chưa được đầu tư sâu về kỹ thuật ( chăn nuôi,
bảo quản, vệ sinh,phòng bệnh, thức ăn…), những yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến
giá thành sản phẩm.Điều này dẫn đến những bất lợi trong cạnh tranh giữa nguồn
cung ứng sữa tươi trong nước với nguyên liệu sữa ngoại nhập.Khi đó, áp lực sẽ
đè nặng nhà sản xuất nội địa khi người tiêu dùng có thể lựa chọn những sản
phẩm ngoại nhập khác hấp dẫn hơn.
Chương II : Thực trạng phát triển của ngành sữa Việt Nam
giai đoạn 2000-2008
I/ Quy trình hình thành và phát triển ngành sữa Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển
Việt Nam phát triển ngành sữa từ những năm 1970, nhưng tốc độ phát triển
chậm.Tới năm 1980, mức tiêu thụ sữa chỉ đạt ,3kg/người/năm ; đối với thị
trường sữa thế giới thì mức tiêu thụ này xem như con số 0.Tuy nhiên, từ
0,5kg/người/năm vào năm 1990 và tăng dần cho đến hiện nay, mức tiêu thụ sữa
của người Việt ước đạt 7kg/người/năm, dù tháp hơn so với thế giới và khu vực
nhưng lại có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng.
2. Các điều kiện phát triển ngành sữa Việt Nam
- Phát triển công nghiệp sữa cần gắn chặt với việc phát triển đàn bò sữa
nhằm tăng dần tỷ lệ tự túc nguyên liệu trong nước, giảm tỷ lệ sữa bột nguyên
liệu nhập khẩu.Do đó, các cơ sở sản xuất sữa phải có chương trình đầu tư cụ thể
vào việc phát triển đàn bò sữa.
- Cần tiếp tục đổi mới công nghệ và thiết bị ở một số khâu trong dây
chuyền sản xuất, đảm bảo tính đồng bộ và trình độ hiện đại của thế giới.
- Cần coi trọng chất lượng sản phẩm, phấn đấu giảm chi phí sản xuất ,
không ngừng đa dạng hóa sản phẩm, cải tiến mẫu mã để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh và tính cạnh tranh trên thị trường.
II/ Thực trạng phát triển ngành công nghiệp sữa Việt Nam
1. Quy mô , năng lực sản xuất ngành sữa

Năng lực sản xuất của toàn ngành năm 2007 đạt 1.056 triệu lít sữa, đạt bình
quân đầu người 12,36 lít/năm
Tổng mức sản xuất sữa của Việt Nam hiện là 234.000 tấn, mới chỉ đáp ứng
22% nhu cầu trong nước, nhưng đã giảm mức nhập khẩu sản phẩm sữa hàng
năm từ 90% xuống còn 78%.
1.1. Quy mô nguồn nguyên liệu tăng
Bảng 1. Tổng đàn bò, sản lượng sữa cả nước và các tỉnh có nhiều bò sữa
Tỉnh/thành phố 1990 1995 2000 2002 2004 2006 2008
Tổng đàn (con) 1.000 18.700 35.000 55.848 95.794 113.215 107.983
Tổng lượng sữa
hàng hoá (tấn/năm)
12.000 17.000 51.400 78.400 151.300 215.940 262.160
Miền Bắc (con) 8.216 24.151 23.335 18.455
Miền Nam (con) 47.632 71.643 89.880 89.528
Tỉnh có nhiều bò
sữa (con)
TP. Hồ Chí Minh 8.330 10.420 25.089 36.547 49.190 67.537 69.531
Long An 113 138 877 2.080 3.822 5.765 5.157
Sơn La 3.540 4.496
Bình Dương 200 256 1.820 2.200 3.983 3.112
Hà Tây 2.988 3.981 3.567
Hà Nội 3.199 3.322
Nguồn: Cục Chăn nuôi 2007
Sau 2004 tốc độ tăng đàn chậm do ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi từ
chăn nuôi nhỏ lẻ phân tán sang chăn nuôi quy mô lớn hơn và tập trung hơn,
đồng thời với việc tăng cường chọn lọc, loại thải những bò chất lượng kém do
tốc độ phát triển quá nóng của giai đoạn trước. Năng suất và chất lượng đàn bò
sữa không ngừng được cải thiện. Cuối 2006, tổng đàn bò sữa cả nước trên 113,2
ngàn con, bò thuần HF chiếm 15% tổng đàn, số còn lại là bò lai HF với tỷ lệ
máu khác nhau. Tổng sản lượng sữa hàng hoá đạt gần 216 ngàn tấn. Năm 2008,

tổng đàn bò sữa giảm còn 107,98 ngàn con nhưng tổng sản lượng sữa hàng hoá
262,16 ngàn tấn (Tổng cục thống kê, 2008). Năng suất sữa (kg/chu kì 305 ngày)
trung bình cả bò lai và bò thuần HF năm 2008 ước đạt trên dưới 4000kg/chu kì,
cao gần gấp hai lần so với năm 1990. Năng suất này vẫn còn thấp hơn nhiều so
với Đài Loan (7160kg).
1.2. Quy mô số lượng nhà máy
Trước năm 1990, Việt Nam chỉ có một số ít nhà máy chế biến sữa do nhà nước
quản lí. Từ năm 1990-2005 cùng với sự tăng trưởng đàn bò sữa, công nghiệp
chế biến sữa đã được đầu tư cả về số lượng nhà máy và công nghệ hiện đại. Tính
đến năm 2005 đã có 8 Công ty đầu tư vào ngành sữa như Nestle; Dutch Lady;
Nuti Food; Lothamilk; Vixumilk; F&N; Hanoimilk; Bình Định, với tổng cộng
17 nhà máy chế biến sữa. Từ năm 2006 đến 2007 có thêm một số công ty mới
như công ty sữa Elovi (Thái Nguyên), Quốc tế (Hà Tây cũ), Việt Mỹ (Hưng
Yên), Milas (Thanh Hoá), Nghệ An… nâng tổng số lên 22 nhà máy chế biến sữa
trên cả nước. Trong số đó, công ty cổ phần sữa Việt nam Vinamilk là lớn nhất
với 9 nhà máy với tổng công suất quy ra sữa tươi trên 1,2 tỷ lít/năm (Bảng 2
Năm 2007 công ty Vinamilk thu mua 114 ngàn tấn, Dutch Lady 38 ngàn tấn,
Mộc Châu 10 ngàn tấn trong tổng số 234,4 ngàn tấn sữa tươi sản xuất trong
nước.
Bảng 2. Thống kê các nhà máy sản xuất sữa tại Việt Nam
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007
Công ty Vinamilk
Số lượng nhà máy 7 8 8 9
Tổng công suất quy ra sữa tươi
(1000 lít/năm)
736.769 823.991 1.106.76
8
1.218.315
Tính riêng công suất sữa tươi
(1000 lít/năm)

174.049 190.275 235.616 290.172
Các Cty khác *
Số lượng nhà máy
(90% sản xuất sữa tươi)
8 9 11 13
Nguồn: Báo cáo của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk, 8-2008
1.3. Năng lực sản xuất
Năng lực sản xuất của toàn ngành năm 2007 đạt 1.056 triệu lít sữa, đạt bình
quân đầu người 12,36 lít/năm
Tổng mức sản xuất sữa của Việt Nam hiện là 234.000 tấn, mới chỉ đáp ứng
22% nhu cầu trong nước, nhưng đã giảm mức nhập khẩu sản phẩm sữa hàng
năm từ 90% xuống còn 78%.
Tổng doanh thu sản phẩm sữa năm 2003 cả nước đạt 603 triệu USD tăng lên
980USD vào năm 2007. Tăng trưởng trung bình hàng năm 12,9%. Trong đó
doanh số sản phẩm sữa nước đạt 684 triệu USD, chiếm 69,75% tổng doanh số
sản phẩm sữa. Đến năm 2007, tổng sản phẩm sữa toàn quốc quy ra sữa tươi đạt
trên 1,056 tỷ lít, mức tiêu dùng sản phẩm sữa bình quân đầu người ước đạt 12,36
lít/năm, so với 35 lít của trung bình châu Á (nguồn Euromonitor International,
trích lại của Vinamilk, 2008). Sản lượng sữa sản xuất trong nước hiện mới đáp
ứng được 22% nhu cầu sữa tiêu dùng trong nước.
1.4. Giá trị xuất nhập khẩu
Hàng năm Việt Nam đang nhập một lượng lớn sữa (chủ yếu là sữa bột) để đáp
ứng nhu cầu chế biến và tiêu thụ trong nước. Năm 2000 giá trị sữa nhập đạt
140,9 triệu USD, năm 2008 tăng lên 535 triệu USD. Trong khi giá trị sữa xuất
khẩu giảm, chỉ đạt 76 triệu USD. Nhập siêu sản phẩm sữa năm 2008 là 459 triệu
USD (Bảng 3).
Bảng 3. Gía trị xuất nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa giai đoạn 2000-2008
(triệu USD)
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2007 2008
Xuất khẩu 80,4 191,5 85,9 67,2 34,3 89,6 35,0 76,0

Nhập khẩu 140,9 246,7 133,2 170,8 201,2 311,2 462,0 535,0
Tỷ lệ xuất/nhập
(%)
57,06 77,62 64,49 39,34 17,05 28,79 7,57 14,20
Nguồn: Cục Chăn nuôi, 2006, T ổng cục thống kê 2009.

×