Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Giải pháp phát triển ngành Công nghiệp phụ trợ thuộc ngày Công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.8 KB, 91 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là : Đào Duy Hà
Sinh Viên lớp : Kinh tế kế hoạch 47A
Khoa : Kế hoạch và phát triển
Sau thời gian thực tập ở Ban Kinh doanh và Đối ngoại, thuộc Tập đoàn
Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, dưới sự hướng dẫn của Ths. Vũ Cương, tôi
đã lựa chọn đề tài “Giải pháp phát triển ngành CNPT thuộc ngành CNĐT
Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015” để làm chuyên đề thực tập của mình.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập, không hề có sự sao
chép của bất cứ ai khác, mọi thông tin, tài liệu mang tính chất tham khảo đều
được nghi rõ nguồn ngốc.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà trường và Khoa!
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Sinh viên
Đào Duy Hà
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
1
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNPT Công nghiệp phụ trợ
CNĐT Công nghiệp đóng tàu
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
CNTT Công nghiệp tàu thủy
CP Cổ phần
FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Tên bảng Trang
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
2
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương


Bảng 2.1: Doanh thu ngành CNĐT giai đoạn 2005-2008 32
Bảng 2.2: Các đơn hàng còn hiệu lực tính đến tháng 3 năm 2008 33
Bảng 2.3: Doanh thu và cơ cấu đóng góp bình quân trong ngành
CNĐT giai đoạn 2000-2008
33
Bảng 2.4: Năng lực đóng mới dự kiến của Việt Nam đến 2015. 34
Bảng 2.5: các công ty sản xuất sản phẩm CNPT đóng tàu 39
Bảng 2.6: Quy mô và tốc độ tăng trưởng doanh thu của ngành
CNPT ngành đóng tàu giai đoạn 2005-2008.
40
Bảng 2.7: Tỷ trọng và tỷ lệ nội địa hóa của một số thiết bị-vật tư-
thiết kế.
42
Bảng 2.8: Cơ cấu trình độ nguồn nhân lực phụ vụ trong ngành
công nghiệp đóng.
43
Bảng 2.9: Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư của vinashin
cho ngành CNPT đóng tàu:
44
Bảng 2.10: Cơ cấu giá thành trong đóng mới tàu thủy: 53
Bảng 2.11: Tổng giá trị vốn đầu tư FDI vào ngành công nghiệp
tàu thủy Việt Nam giai đoạn 2005 – 2008.
54
Bảng 2.12: Đầu tư và doanh thu của ngành CNPT đóng tàu Việt
Nam trong giai đoạn 2005 – 2008.
54
Bảng 2.13: Quy mô lao động cho ngành CNPT giai đoạn 2005 –
2008.
56
Bảng 2.14: Đơn hàng xuất khẩu của Tập đoàn Vinashin trong hai

năm 2007 – 2008.
61
Bảng 3.1: Kế hoạch doanh thu, đầu tư và lao động của ngành
CNĐT giai đoạn 2009-2015
68
Bảng 3.2: Tiến trình nội địa hóa giai đoạn 2009-2015 70
Bảng 3.3: Kế hoạch doanh thu, nhu cầu lao động, nguồn vốn của
ngành CNPT đến 2015
70
Tên hình Trang
Hình 1.1: Sơ đồ khái niệm các ngành CNPT 6
Hình 1.2: Sơ đồ các ngành CNPT Việt Nam 7
Hình 1.3: Sơ đồ các ngành CNPT Việt Nam 13
Hình 1.4 : Chuỗi giá trị của một ngành công nghiệp 14
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
3
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Hình 1.5: Mối quan hệ giữa các ngành CNPT với nhau và với
ngành CNĐT
17
Hình 2.1: Cơ cấu đóng góp trong ngành CNĐT giai
đoạn2000-2008
34
Hình 2.2: Tổng giá trị vốn đầu tư FDI vào ngành CNPT đóng tàu
Việt
53
Hình 3.1: Kế hoạch doanh thu, đầu tư và lao động của ngành
CNĐT giai đoạn 2009-2015
68
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm qua, ngành CNĐT Việt Nam đã gặt hái không ít
những thành tựu đáng nghi nhận như xuất khẩu được nhiều con tàu cỡ lớn có
trọng tải chở tới 53.000DWT, hợp tác sản xuất kinh doanh với nhiều nước lớn
trên thế giới như Anh, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Đan Mạch, Nga…Ngành
CNĐT đang từng bước nâng cao năng lực và khẳng định mình trên thị trường
quốc tế.
Tuy nhiên, Ngành CNĐT là một ngành tổng hợp cần có rất nhiều
ngành khác phụ trợ. Nhưng ngành CNPT cho ngành đóng tàu ở nước ta mới
còn sơ khai, các mẫu mã, vật tư, nguyên liệu, động cơ…chủ yếu là nhập khẩu
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
4
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
từ các nước khác. Chính vì vậy, thực chất ngành CNĐT ở nước ta hiện nay
chỉ là một ngành lắp ráp, gia công theo thiết kế mà thôi.
Theo ông Phạm Thanh Bình, Tổng giám đốc Tập đoàn công nghiệp tàu
thủy Việt Nam thì nguyên nhân chủ yếu dẫn tới vấn đề trên là do nguồn vốn
của ngành CNĐT còn hạn chế, ngành CNPT cho ngành đóng tàu ở nước ta lại
ra đời muộn. Việc nhập khẩu nguyên liệu, trang thiết bị như vậy dẫn tới giá trị
gia tăng của ngành CNĐT thấp, sức cạnh tranh yếu.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ngành CNĐT Việt
Nam cần phải phát triển ngành CNPT cho ngành đóng tàu như một ngành
nòng cốt chủ lực để ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam có thể hội nhập
kinh tế quốc tế, cạnh tranh được với cách nước trong khu vực và quốc tế.
Nhưng vấn đề là làm thế nào để ngành CNPT cho ngành đóng tàu có
thể phát triển nhanh, mạnh, bền vững và chất lượng là một vấn đề lớn. Đó
chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Giải pháp phát triển ngành CNPT
thuộc ngành CNĐT Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015” để nghiên cứu cho
chuyên đề thực tập của mình.
2. Câu hỏi nghiên cứu.

Theo như phân tích ở trên thì lý do mà ngành CNPT cho ngành CNĐT
ở nước ta chưa phát triển là vì thiếu vốn và xuất phát điểm muộn. Vậy qua đề
tài này tôi muốn kiểm chứng lại các lý do trên và khảo sát xem còn có những
lý do nào khác nữa. Từ đó, tôi sẽ đưa ra những giải pháp thiết thực để ngành
CNPT này có thể phát triển hơn nữa trong những năm tới.
3. Phương pháp nghiên cứu.
- Phạm vi xử lý của đề tài:
• Về nội dung: Đề tài chỉ áp dụng cho ngành CNPT cho ngành
CNĐT.
• Về không gian: Đề tài viết trong phạm vi nước Việt Nam.
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
5
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
• Về thời gian: Đề tài viết cho giai đoạn từ 2010-1015.
- Phương pháp nghiên cứu vấn đề:
Trong khi nghiên cứu vấn đề, phương pháp nghiên cứu sẽ là thu thập
tài liệu thống kê, số liệu thống kê, các báo cáo, các bài viết, các nghiên cứu
hiện có, so sánh dọc theo thời gian, so sánh ngang với các nước khác và so
sánh chéo với các ngành CNPT khác. Từ đó tổng hợp, nhận xét và đưa ra
những giải pháp thực hiện cho đề tài.
- Kết quả dự kiến và đóng góp của đề tài:
Dự kiến sau khi kết thúc quá trình nghiên cứu, đề tài có thể chỉ ra thực
trạng đang tồn tại của ngành CNPT thuộc ngành CNĐT của nước ta, từ đó tìm
ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và rút ra được những giải pháp thiết
thực nhất cho sự phát triển của ngành đến năm 2015.
Qua đề tài này, tôi mong muốn có thể đóng góp một số những giải pháp
thiết thực và khả thi có thể áp dụng vào thực tế để đưa ngành CNPT thuộc
ngành đóng tàu phát triển lên một tầm cao mới. Tôi cũng mong đề tài sẽ là
một tài liệu tham khảo hữu ích cho chính phủ, các cơ quan chức năng và các
bạn sinh viên muốn tìm hiểu vấn đề này.

3. Kết cấu của đề tài:
Kết cấu đề tài bao gồm ba phần như sau:
Chương 1: Vai trò ngành CNPT với sự phát triển ngành CNĐT
Chương 2: Thực trạng phát triển của ngành CNPT thuộc ngành CNĐT
Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển ngành CNPT thuộc
ngành CNĐT Việt Nam giai đoạn 2010-2015.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ths. Vũ Cương cùng cán bộ
hướng dẫn tại cơ sở thực tập Ths. Nguyễn Thành Chung đã tận tình giúp đỡ
tôi hoàn thành bài viết chuyên đề thực tập này. Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
6
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
lời cảm ơn tới bạn bè người thân đã hết sức tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình tôi viết chuyên đề của mình. Do hạn chế về thời gian và kiến thức thực
tế nên chuyên đề này khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự
góp ý và giúp đỡ của thầy giáo, cán bộ hướng dẫn trong đơn vị thực tập, và
các bạn để chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Vai trò ngành CNPT với sự phát triển ngành CNĐT
1.1. Vai trò của ngành ngành CNPT nói chung
1.1.1. Khái niệm về CNPT
Khái niệm về CNPT (supporting industries) được bắt nguồn từ Nhật
Bản trong những năm 1960. Nó xuất phát từ cách thức tổ chức sản xuất trong
quá trình xây dựng các mắt xích chuyên môn hóa của từng công đoạn sản
xuất các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp. Ở các nước khác nhau, tùy theo
đặc thù của ngành CNPT nước đó mà khái niệm về CNPT cũng được hiểu
theo nhiều cách khác nhau. Tôi xin đưa ra một số quan điểm như sau:
Theo định nghĩa chính thức về CNPT của Bộ Kinh tế, Thương mại và
Công nghiệp Nhật Bản (METI) đưa ra vào năm 1993 thì “CNPT là các ngành

SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
7
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
công nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và
vốn cho các ngành công nghiệp lắp ráp (bao gồm ô tô, điện và điện tử...)”.
Theo phòng Năng lượng Hoa Kỳ trong ấn phẩm Các ngành CNPT:
công nghiệp của tương lai được xuất bản năm 2004 thì: “CNPT là những
ngành sử dụng nguyên vật liệu và các quy trình cần thiết để định hình và chế
tạo ra sản phẩm trước khi chúng được lưu thông đến ngành công nghiệp sử
dụng cuối cùng (end-use indutries)”. Do đặc thù của cơ quan này là một cơ
quan quản lý về năng lượng nên họ tập trung chủ yếu vào mục tiêu tiết kiệm
năng lượng. Do đó, CNPT được hiểu là những ngành tiêu tốn nhiều năng
lượng như than, luyện kim, thiết bị nhiệt, hàn, đúc…
Còn theo cách hiểu của Văn phòng phát triển CNPT Thái Lan (Bureau
of Supporting Industries Development - BSID): “CNPT là các ngành công
nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ
kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (nhấn mạnh các ngành cơ khí, máy
móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là những ngành CNPT quan trọng)”.
Mặt khác, theo Hội đồng đầu tư Thái Lan phân loại các ngành công
nghiệp sản xuất thành phẩm thành 3 bậc: lắp ráp; sản xuất linh kiện và phụ
kiện; và các ngành CNPT. Năm sản phẩm chính của ngành CNPT là gia công
khuôn mẫu, gia công áp lực, đúc, cán và các gia công nhiệt
Theo Trần Văn Thọ (2006), CNPT là khái niệm chỉ toàn bộ những sản
phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính.
Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để
sơn, nhuộm,..., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những
nguyên liệu sơ chế. Theo ông, sản phẩm CNPT thường được sản xuất với quy
mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, trong ngành xe
hơi chẳng hạn, các bộ phận như đầu máy xe, thân xe, bánh xe... thường không
được kể là CNPT vì chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô lớn.

SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
8
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Trong ngành này, CNPT là những linh kiện, những phụ liệu ở cấp thấp hơn
được cung cấp để sản xuất ra đầu máy xe, thân xe.
Từ các quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về ngành CNPT qua
sơ đồ sau:
Hình 1.1: Sơ đồ khái niệm các ngành CNPT
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
9
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Nguồn: “Xây dựng và tăng cường ngành CNPT tại Việt nam” (Báo cáo điều
tra của KYOSHIRO ICHIKAWA - Nhà tư vấn đầu tư cao cấp của Cục Xúc tiến
Ngoại thương Nhật Bản (JETRO))
Từ đó, ta có thể hiểu ngành CNPT như sau: “ Ngành CNPT là những
ngành sản xuất linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu…
nhằm hỗ trợ cho việc sản xuất ra các sản phẩm chính của nền kinh tế”.
Ở Việt Nam, sau nhiều năm hình thành và phát triển của các ngành
công nghiệp chính như ô tô, xe máy, da giày, dệt may…thì các ngành CNPT
của các ngành công nghiệp này cũng được phát triển tương ứng. Hiện nay,
Việt Nam bao gồm các ngành CNPT sau:
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
Nhà máy lắp ráp
Ngành CNPT
Linh phụ kiện
Cao su
Nhựa
Điện
Ốc vít
Lò xo

Công nghệ - thiết bị
Ép Cán
Đúc Dập
Xử lý
Vật liệu
Nguyên liệu thô
10
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Hình 1.2: Sơ đồ các ngành CNPT Việt Nam
Nguồn: “Xây dựng và tăng cường ngành CNPT tại Việt nam” (Báo cáo điều
tra của KYOSHIRO ICHIKAWA - Nhà tư vấn đầu tư cao cấp của Cục Xúc tiến
Ngoại thương Nhật Bản (JETRO))
Sản xuất phụ trợ với những ngành công nghiệp khác nhau cũng có
nhiều cấp bậc khác nhau. Đồng thời giữa các nhà sản xuất phụ trợ cũng
hình thành nhiều mối quan hệ hợp tác kinh doanh với nhiều thứ bậc
khác nhau.
1.1.2. Đặc điểm của ngành CNPT
Trên thế giới xuất hiện rất nhiều quan điểm về đặc thù của ngành
CNPT. Nhưng chúng đều xoay quanh hai quan điểm sau:
- Quan điểm 1: Theo lý thuyết kinh tế phát triển về công nghiệp thượng
nguồn và hạ nguồn cho rằng ngành CNPT là những ngành thâm dụng vốn, đòi
hỏi cao về chất lượng lao động, yêu cầu nghiêm ngặt về công nghệ và tiêu
chuẩn kỹ thuật. Điều này khiến CNPT ở các nước đang phát triển kém tính
cạnh tranh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nước đang phát triển thường
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
Ngành xe máy
Ngành ô tô
Ngành điện tử (Âm thanh, ti vi, bán dẫn…)
Ngành điện (gia dụng)
Ngành đóng tàu

Ngành da giày
….
11
Ngành CNPT
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
không đủ nguồn lực về vốn cũng như về lao động kỹ thuật cao để có thể phát
huy vai trò của CNPT khi tham gia chuỗi giá trị.
- Quan điểm 2: Ngành CNPT trong quan điểm gắn với khái niệm doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Trần Văn Thọ (2006) cho rằng ngành CNPT thường được
sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó,
những ngành sản xuất thâm dụng vốn như quan điểm trên sẽ không được tính
là CNPT.
Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản (MITI đổi thành
METI vào năm 2001) ban đầu với mục đích thúc đẩy tiến trình công nghiệp
hóa và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nước Đông Nam Á
cũng đã có cách hiểu tương tự. Trong các báo cáo của MITI vào năm 1985,
CNPT được xem là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất linh kiện, đóng vai
trò tạo lập hạ tầng công nghiệp vững mạnh tại các quốc gia Đông Nam Á
trong trung và dài hạn.
Vậy, từ khái niệm và các quan điểm trên thì ngành CNPT có các đặc
điểm sau:
1.1.2.1. Ngành CNPT chỉ nhằm hỗ trợ việc sản xuất ra thành phẩm chính.
Chúng ta đều biết rằng, mỗi linh kiện, phụ kiện, phụ tùng mà ngành
công nghiệp phụ trợ sản xuất ra đều là một chi tiết riêng lẻ phục vụ cho việc
lắp ráp một sản phẩm chính nào đó. Chúng có mẫu mã, kích thước, mục đích
sử dụng và chất lượng rất đặc thù khó sử dụng vào mục đích khác.
Mặt khác, việc sản xuất các sản phẩm của ngành CNPT chủ yếu xuất
phát từ các đơn đặt hàng của ngành chính. Vì vậy, sản lượng sản xuất ra thông
thường chỉ đủ để phục vụ ngành chính.
1.1.2.2. Ngành CNPT thường có quy mô vừa và nhỏ.

Ngành CNPT là ngành có thể sản xuất chỉ một hoặc một số chi tiết sản
phẩm nên hoàn toàn có thể sản xuất với quy mô nhỏ. Doanh nghiệp có thể
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
12
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
chọn sản xuất các linh kiện có chất liệu từ cao su, nhựa tổng hợp, thép…hoặc
chỉ một linh kiện cụ thể của từng chất liệu đó.
Ngành CNPT là ngành có yêu cầu trình độ chuyên môn hóa cao vì các
linh kiện đòi hỏi về chất lượng cao và đặc biệt là yêu cầu về mặt kỹ thuật phải
hết sức chính xác để có thể lắp ráp lại với nhau thành một sản phẩm hoàn
chỉnh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp thường chỉ đảm nhiệm sản xuất một
hoặc một số chi tiết sản phẩm. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp
tham gia vào lĩnh vực này thường có quy mô sản xuất vừa và nhỏ.
Mặt khác, để tham gia vào ngành CNPT, không đòi hỏi doanh nghiệp
cần có năng lực quá lớn. Do đó, có rất nhiều doanh nghiệp tham gia, mà nhu
cầu trong nước thì có hạn nên quy mô mỗi doanh nhiệp thường nhỏ.
1.1.2.3. Là ngành rất đa dạng và phong phú về chủng loại sản phẩm.
Một sản phẩm của ngành công nghiệp chính cần rất nhiều linh kiện,
phụ kiện, chi tiết khác nhau. Ví dụ để sản xuất ra một con tàu cần rất nhiều
linh kiện, phụ kiện khác nhau như: thép vỏ tàu, động cơ, hộp số, hệ trục, chân
vịt, bánh lái, neo, cầu lớn, nắp hầm hàng, nội thất tàu thuỷ, tủ bảng điện, thiết
bị trên boong… nên ngành đa dạng về chủng loại.
Nước ta có rất nhiều ngành công nghiệp chính như đóng tàu, ô tô, xe
máy, da giày… Mỗi ngành lại cần một tập các chi tiết bộ phận khác nhau nên
sản phẩm ngành càng phong phú hơn.
Ngày nay, nhu cầu vận tải đường thủy ngày càng lớn, yêu cầu về chất
lượng, hình thức ngày càng cao, do đó các ngành chính luôn có sự cải tiến,
phát triển sản phẩm nên yêu cầu về các sản phẩm phụ trợ cũng phát triển theo.
1.1.2.4. Ngành CNPT là ngành đòi hỏi sự chuyên môn hóa cao.
Do đặc thù của ngành CNPT là ngành sản xuất các linh kiện, phụ kiện,

phụ tùng riêng biệt. Mà mỗi sản phẩm này lai có hình dạng, mẫu mã, chất
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
13
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
liệu, và yêu cầu chất lượng khác nhau nên tính chuyên môn hóa của ngành
CNPT là rất cao.
Một đặc thù khác của ngành CNPT thường được sản xuất bởi các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng lại cần nhiều máy móc, thiết bị hiện đại, vốn
đầu tư khá lớn, yêu cầu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn hóa cao nên
các doanh nghiệp này khó có thể sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau. Vì vậy
mà tính chuyên môn hóa càng được đòi hỏi cao hơn.
Tuy nhiên, các sản phẩm này được ngành công nghiệp chính lắp ráp,
sản xuất thành một sản phẩm hoàn chỉnh nên tính tương thích giữa chúng đòi
hỏi rất cao. Chính vì vậy, mặc dù chúng được sản xuất một cách chuyên môn
hóa cao nhưng vẫn cần được đặt trong mối quan hệ thông nhất về mặt kỹ
thuật và chất lượng.
1.1.2.5. Các sản phẩm của ngành CNPT phụ thuộc rất lớn vào ngành chính.
Từ yêu cầu phát triển các ngành chính mà phát sinh nhu cầu sử dụng
các sản phẩm của ngành CNPT. Do đó, sự phát triển của các ngành CNPT
phụ thuộc trực tiếp từ sự phát triển của các ngành chính.
Một sản phẩm của ngành công nghiệp chính cần sử dụng rất nhiều sản
phẩm của ngành CNPT. Và mỗi sản phẩm đó lại có những đòi hỏi về mẫu mã,
chất lượng, chi phí, thời gian giao hàng khác nhau. Ngành CNPT sẽ có trách
nhiệm sản xuất các sản phẩm của mình theo những tiêu chuẩn mà ngành công
nghiệp chính yêu cầu. Vì vậy, các sản phẩm của ngành CNPT phụ thuộc rất
lớn vào ngành chính.
1.1.2.6. Ngành CNPT có mối quan hệ mật thiết với nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI).
Đối với các nước đang phát triển, CNPT và FDI có quan hệ mật thiết
với nhau, tương hỗ lẫn nhau và thể hiện trên nhiều khía cạnh. Một mặt, FDI là

tiền đề thúc đẩy CNPT trong nước hình thành và phát triển. Mặt khác, sự phát
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
14
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
triển mạnh mẽ của CNPT trong nước sẽ làm tăng sức hấp dẫn trong thu hút
FDI.
Tuy nhiên, để các nước đang phát triển xây dựng thành công ngành
CNPT trong nước là vấn đề không đơn giản. Theo tiêu chuẩn sản xuất của các
nước tiên tiến, tính cạnh tranh phụ thuộc đồng thời vào 3 yếu tố: chất luợng,
chi phí và giao hàng (QCD – Quality, Cost, Delivery). Nhưng với trình độ
hiện có của mình, các nước đang phát triển không dễ đáp ứng được cả ba điều
này. Một khi chất lượng đã được đảm bảo, thì vẫn cần cải thiện hai yếu tố sau
là chi phí và giao hàng. Để giảm chi phí và đẩy nhanh tiến độ giao hàng, đối
với các nhà đầu tư nước ngoài, việc phát triển CNPT ở nước sở tại là rất quan
trọng, họ sẵn sàng hỗ trợ và đầu tư nếu cần thiết.
Như các nhà nghiên cứu đã tổng kết, quá trình xây dựng và phát triển
CNPT ở các nước đang phát triển có thể chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 là thời kỳ khởi đầu. Khi chưa có FDI đi vào, trong nước
thường đã có ít nhiều cơ sở CNPT cung cấp linh phụ kiện cho các đơn vị sản
xuất, lắp ráp thành phẩm. Đến khi có FDI, một số cơ sở CNPT sẽ phát triển
mạnh hơn, nếu tham gia được vào mạng lưới sản xuất của các doanh nghiệp
FDI.
Giai đoạn 2 là khi FDI tăng mạnh khiến nhu cầu về linh phụ kiện gia
tăng, làm tăng nhanh số lượng các cơ sở CNPT trong nước phục vụ các doanh
nghiệp FDI. Những cơ sở nào sớm hình thành mối liên kết với doanh nghiệp
FDI sẽ được hỗ trợ về nhiều mặt (đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thiết bị kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ,...) và sẽ có bước tiến vượt bậc.
Giai đoạn 3 là thời kỳ phát triển cao trào. Sau một thời gian hoạt động,
quy mô sản xuất của các doanh nghiệp FDI được mở rộng, tạo ra thị trường
ngày càng lớn cho CNPT, theo đó nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể

tìm đến đầu tư vào lĩnh vực này.
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
15
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Từ phân tích ở trên ta thấy ngay là CNPT phải phát triển mới thu hút
FDI, nhất là FDI trong các ngành sản xuất các loại máy móc. Nếu CNPT
không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Tuy nhiên,
không phải lúc nào CPNT cũng cần phát triển rồi mới có FDI. Có nhiều
trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước
ngoài và công ty bản xứ) đầu tư phát triển CNPT. Do đó, có sự quan hệ hỗ
tương giữa FDI và CNPT
1.1.3. Vai trò của ngành CNPT đến ngành sản phẩm chính
(i) Sản phẩm CNPT là đầu vào không thể thiếu trong quá trình sản xuất
công nghiệp.
Thông thường một sản phẩm cần có nhiều sản phẩm trung gian, sản
phẩm hỗ trợ. Mà một doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chính khó có đủ nguồn
lực để tự cung tự cấp được tất cả các sản phẩm trung gian, sản phẩm hộ trợ
cho mình nên việc tồn tại các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phụ trợ là
rất cần thiết.
(ii) Ngành CNPT góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành
chính.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngành, chúng ta có thể sử
dụng mô hình kim cương của giáo sư Micheal Porter của đại học Harvard,
Hoa Kỳ như sau:
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
16
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Hình 1.3: Sơ đồ các ngành CNPT Việt Nam
Nguồn: TS. Vũ Trọng Lâm, “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia

năm 2006.
Như vậy CNPT được đánh giá là một trong bốn nhân tố cơ bản có tác
động qua lại với nhau và tạo nên năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm
chính. Nếu một ngành sản phẩm có các ngành CNPT trong nước phát triển thì
ngành sản phẩm ấy có thể sử dụng tại chỗ mà không phải nhập khẩu, tiết kiệm
chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho
ngành.
Bốn yếu tố cơ bản này luôn luôn có sự hỗ trợ qua lại lẫn nhau tạo nên
tính bền vững cho ngành.
(iii) CNPT tạo ra giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị nằm trong chu
trình sáng tạo ra giá trị của ngành chính.
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
Chiến lược, cơ cấu
tổ chức doanh
nghiệp và môi
trường cạnh tranh
Sự phát triển của các
ngành hỗ trợ và có
liên quan khác
Sự sẵn có và chất
lượng các nhân tố
sản xuất
Đặc điểm của cầu
trong nước về sản
phẩm ngành
17
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Chuỗi giá trị của một ngành công nghiệp trong vòng đời của một sản
phẩm được biểu diễn theo sơ đồ sau:
Hình 1.4 : Chuỗi giá trị của một ngành công nghiệp

GTGT

A B C D E F
Giai đoạn
Nguồn: PGS.TS. Nguyễn Thành Độ, giáo trình “Chiến lược kinh doanh và
phát triển doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Lao động – xã hội 2002
Trong đó: A: Giai đoạn nghiên cứu và phát triển sản phẩm
B: Giai đoạn thiết kế sản phẩm
C: Giai đoạn sản xuất bộ phận, linh kiện
D: Giai đoạn lắp ráp
E: Giai đoạn khai thác thị trường
F: Giai đoạn phát triển thương hiệu
Sản xuất sản phẩm CNPT chính là giai đoạn C trong chu trình tạo ra giá
trị của sản phẩm công nghiệp.
(iv) CNPT là bước đệm vững chắc cho sự phát triển của ngành chính.
Ở các nước phát triển, khoa học công nghệ ngày càng tiến bộ. Tuy
nhiên, với các nước đang phát triển thì việc sử dụng lợi thế của “người đi sau”
làm cho khoảng cách công nghệ giữa các nước đang phát triển và các nước
phát triển ngày càng được rút ngắn. Và các nước đang phát triển này cũng
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
18
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
đang hướng tới khu vực thượng nguồn của chuỗi giá trị. Vì vậy, nước nào có
nền CNPT phát triển thì sẽ dành được lợi thế trong cuộc chạy đua này.
(v) Phát triển ngành CNPT sẽ mở ra cơ hội cho ngành chính tiếp nhận
FDI được nhiều hơn.
Cũng như phân tích ở phần 1.1.2. Đặc điểm của ngành CNPT thì phát
triển CNPT sẽ tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Vì thế,
ngành công nghiệp sản phẩm chính cũng được đầu tư nhiều hơn.
Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài thường giữ lại cho mình một vài

giai đoạn chủ chốt trong quá trình tạo ra giá trị của sản phẩm như giai đoạn A,
B, E, F. Còn các khâu C, D họ có thể chuyển giao cho các đối tác ở nước sở
tại. Điều đó mở cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước có thể thu hút được
nhiều FDI hơn để phát triển ngành CNPT.
(vi) Phát triển CNPT góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu theo
hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Ngành CNPT cũng là một ngành công nghiệp bình thường. Và phát
triển CNPT cũng có nghĩa là phát triển công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Muốn phát triển ngành
CNPT, cần đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị, công nghệ cao, đi
kèm theo đó là cần đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ chuyên môn để vận
hành và thích ứng với nhu cầu phát triển đó. Điều này làm cho mức độ công
nghiệp hóa của ngành công nghiệp được tăng cao hơn.
Mặt khác, khi ngành CNPT phát triển làm cho tổng giá trị sản lượng
của ngành công nghiệp nói chung cũng tăng lên. Một phần nguồn lực của đất
nước đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (chủ yếu là
nguồn nhân lực) sẽ chuyển sang phục vụ cho khối công nghiệp với trình độ
cao hơn. Như vậy, phát triển CNPT góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ
cấu theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
19
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
(vii) Ngoài ra, CNPT cũng là ngành thu hút và sử dụng lao động, góp
phần làm giảm áp lực thất nghiệp, phù hợp với các nước đang phát triển.
Việt Nam có cơ cấu lao động trẻ, số lượng đông, tỷ lệ qua đào tạo thấp,
giá rẻ nhưng có ý thức trong công việc, cần cù nên có thể sử dụng trong
ngành CNPT. Điều này sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao mức sống cho
người dân, đảm bảo an ninh xã hội.
Tuy nhiên, ngành CNPT là ngành thâm dụng vốn và đòi hỏi chất lượng
nguồn nhân lực khá cao nên CNPT không được coi là một ngành chủ lực

trong việc tạo công ăn việc làm như các ngành công nghiệp da giầy, may mặc,
thủy sản,… mà nó chỉ góp phần làm giảm áp lực thất nghiệp mà thôi.
Ngành CNPT là ngành có quy mô vừa và nhỏ, có thể phù hợp với nhiều
mức nguồn lực, tiềm năng hiện tại của Việt Nam.
1.2. Vai trò của ngành CNPT đối với sự phát triển của ngành CNĐT
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm ngành CNPT thuộc ngành CNĐT.
1.2.1.1. Khái niệm
Hiện nay chưa có khái niệm chính thức về CNPT thuộc ngành đóng
tàu. Thực chất khái niệm về CNPT chung cũng có nhiều quan điểm khác nhau
và ở mỗi nước lại có cách hiểu của riêng mình. Vì vậy ngành CNPT đóng tàu
cũng chưa có một định nghĩa thống nhất trên thế giới.
Từ những khái niệm về ngành CNPT chung ở trên, kết hợp với điều
kiện cụ thể về ngành CNĐT của Việt Nam và các ngành phụ trợ hiện nay, tôi
xin đưa ra cách hiểu của mình về CNPT đóng tàu như sau: CNPT thuộc ngành
công nhiệp đóng tàu là những ngành sản xuất ra các sản phẩm linh kiện, phụ
kiện, phụ tùng nhằm hỗ trợ cho việc đóng tàu. Cụ thể, đó là những ngành sản
xuất thép đóng tàu, chế tạo động cơ tàu thuỷ, hộp số, hệ trục, chân vịt, bánh
lái, neo, cầu lớn, nắp hầm hàng, nội thất tàu thuỷ, tủ bảng điện, thiết bị trên
boong, thiết bị khí cụ điện, dây cáp điện tàu thuỷ...
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
20
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Tuy nhiên, các sản phẩm trên cũng chưa phải là những yếu tố cơ bản
nhất trong quá trình sản xuất. Mà nó cũng được tạo ra từ những bộ phận, linh
kiện, phụ tùng ở mức thấp hơn. Điều đó có nghĩa là: xét một cách tương đối
thì ngành CNPT đóng tàu cũng là một ngành sản xuất ra sản phẩm chính của
những ngành phụ trợ cho nó. Vì vậy, có thể nói khái niệm về ngành CNPT chỉ
mang tính tương đối.
Mặt khác, các ngành CNPT khác nhau của ngành đóng tàu không phải
là tách biệt hoàn toàn, mà chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, phụ thuộc

nhau nhưng lại độc lập tương đối với nhau:
Hình 1.5: Mối quan hệ giữa các ngành CNPT với nhau và với
ngành CNĐT.
Nguồn: “Xây dựng và tăng cường ngành CNPT tại Việt nam” (Báo cáo điều
tra của KYOSHIRO ICHIKAWA - Nhà tư vấn đầu tư cao cấp của Cục Xúc tiến
Ngoại thương Nhật Bản (JETRO))
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
CNPT sản xuất thép (thép
hình, thép tấm, thép ống..)
CÔNG
NGHIỆP
ĐÓNG
TÀU
CNPT sản xuất động cơ.
CNPT sản xuất nội thất tàu
thủy.
CNPT sản xuất hộp số, hệ
trục, chân vịt, bánh lái…
21
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Tuy nhiên, chúng ta không thể phát triển đồng bộ tất cả các các ngành
CNPT ở trên ở giai đoạn hiện tại mà cần có sự ưu tiên để đạt hiệu quả cao
nhất có thể.
1.2.1.2. Đặc điểm.
Ngành CNPT đóng tàu cũng có đầy đủ các đặc điểm chung của ngành
CNPT như trên. Bên cạnh đó, nó cũng có những điểm đặc trưng của riêng
mình:
Ngành CNĐT là một ngành có hình thức sản xuất rất đặc biệt. Đó là
sản xuất đơn chiếc theo các đơn đặt hàng, không giống như các ngành khác
như điện tử, ô tô, xe máy, dệt may… sản xuất hàng loạt. Chính vì vậy, ngành

CNPT đóng tàu có độ phụ thuộc lớn hơn hẳn các ngành khác vào tiến độ sản
xuất, mẫu mã, hình thức, chất lượng của từng con tàu.
Các cơ sở đóng tàu tập trung chủ yếu ở vùng ven biển nên các ngành
sản xuất sản phẩm CNPT cho ngành cũng được xây dựng ở những khu vực
đó. Điều nay dẫn tới việc các doanh nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng làm sao
để vị trí sản xuất vừa phục vụ tốt nhất cho các cơ sở đóng tàu nhưng cũng
phải đảm bảo về việc cung cấp các yếu tố sản xuất đầu vào cho nó.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của ngành CNPT thuộc ngành
CNĐT
Theo nghiên cứu “Xây dựng chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hàng công
nghiệp chủ lực-công nghiệp xuất khẩu chủ lực thời kỳ 2001-2010.” của TS.
Lê Minh Tâm (NXB Chính trị quốc gia) và nghiên cứu “Dự đoán tình hình
phát triển công nghiệp Việt Nam: lý thuyết, triển vọng và giải pháp” của
PGS.TS Nguyễn Công Nhự (NXB Thống kê Hà Nội), tôi xin được đưa ra 5
tiêu chí đánh giá sự phát triển của ngành CNPT thuộc ngành đóng tàu như
sau:
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
22
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
1.2.2.1. Tốc độ và quy mô tăng trưởng của ngành.
Tăng trưởng của ngành là sự gia tăng về giá trị của ngành trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở
quy mô và tốc độ.
Quy mô: ∆y
t
=
y
t

y

t-1
y
t
− y
t-1
Tốc độ: G
t
= ──────x100%
y
t-1
Trong đó:
G
t
: là tốc độ tăng trưởng ngành
Y
t
: là giá trị sản xuất của ngành năm t
Y
t-1
: là giá trị sản xuất của ngành năm (t-1)
Tốc độ và quy mô tăng trưởng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát
triển của một ngành, một lĩnh vực hay của cả nền kinh tế. Nó được thể hiện
thông qua quy mô có cao hay không, tốc độ tăng trưởng có nhanh và ổn định
hay không. Nếu đạt được hai điều kiện này thì có nghĩa ngành CNPT đang
phát triển khá bền vững.
1.2.2.2. Tỷ lệ nội địa hóa của ngành.
Thuật ngữ "tỷ lệ nội địa hóa" được sử dụng theo phạm vi rộng hẹp rất
khác nhau, tùy theo mục đích sử dụng và theo ngữ cảnh. Ở đây, thuật ngữ "tỷ
lệ nội địa hóa" (local procurement ratio) được dùng để chỉ tỷ lệ của các linh
phụ kiện sản xuất trong nước và được đưa vào sản phẩm cuối cùng xuất

xưởng tại nước đó.
Công thức tính tỷ lệ nội địa hóa:
GT

n = ──────x100%
GT
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
23
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
Trong đó:
GT

: Tổng giá trị linh phụ kiện sản xuất trong nước và được
đưa vào sản xuất tàu thủy.
GT: Tổng giá trị linh phụ kiện cần thiết để sản xuất tàu thủy.
Tỷ lệ nội địa hóa cao sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng
thu nhập cho nước sở tại. Đối với ngành đóng tàu, tỷ lệ nội địa hóa cao có
nghĩa các linh kiện, phụ kiện sẽ giảm được các chi phí vận chuyển, giá thành
của một chiếc tàu sẽ giảm, sức cạnh tranh của ngành đóng tàu được nâng.
Nước nào có nền CNPT phát triển mạnh sẽ có điều kiện nâng cao tỷ lệ
nội địa hóa. Điều đó có nghĩa nếu tỷ lệ nội địa hóa cao thì ngành CNPT cũng
phát triển.
1.2.2.3. Quy mô sử dụng lao động trong nước của ngành
Để phát triển được ngành CNPT đóng tàu chúng ta cần sử dụng rất
nhiều lao động. Chính vì vậy, quy mô sử dụng lao động của ngành CNPT
đóng tàu cũng là một chỉ tiêu có thể phản ánh sự phát triển của ngành.
Vấn đề lao động được thông qua số lượng người lao động tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, trình độ lao động, cơ cấu lao động,
độ tuổi lao động… Tất cả các yếu tố trên đều phản ánh năng lực lao động của
ngành.

Sử dụng nhiều lao động trong nước với giá thành rẻ, ngành CNPT đóng
tàu có thể giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, tạo công ăn việc
làm, góp phần đảm bảo cuộc sống người lao động.
1.2.2.4. Quy mô tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển của ngành.
Vốn là yếu tố cơ bản, quyết định đến sự phát triển của ngành CNPT
đóng tàu. Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư được tính dựa theo công thức sau:
Quy mô tăng vốn đầu tư: ∆I = I
1
– I
0
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
24
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S Vũ Cương
I
t
− I
(t-1)
Tốc độ tăng vốn đầu tư: g
I

= ──────x100%
I
(t-1)
Trong đó: I
t
: Tổng vốn đầu tư phát triển năm t.
I
(t-1):
Tổng vốn đầu tư phát triển năm (t-1)


Cũng như nguồn lao động, muốn phát triển ngành CNPT đóng tàu cần
phải có nhiều vốn để đầu tư. Ngược lại, nếu ngành sử dụng nhiều vốn chưa
chắc đã phát triển. Tuy nhiên, xét ở một mức độ hiệu quả sử dụng vốn nhất
định, thì quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư cũng là một chỉ tiêu phản ánh sự
phát triển của ngành.
Hiệu quả sử dụng nguồn vốn được thể hiện thông qua chỉ tiêu: giá trị
tăng thêm trên một đồng vốn đầu tư. Giá trị này càng cao cũng có nghĩa việc
sử dụng nguồn vốn đầu tư càng có hiệu quả.
1.2.2.5. Mức độ tiến bộ của khoa học công nghệ của ngành.
Mức độ áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ là việc sử dụng bao nhiêu
công nghệ tiên tiến và những công nghệ đó tiến tiến ở mức độ nào. Đây là
một chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của ngành vì:
+) Nếu ngành sử dụng nhiều công nghệ cao có nghĩa ngành có tiềm lực
tài chính, có đội ngũ cán bộ công nhân viên trình độ cao, cơ sở vật chất tốt.
Đây chính là những yếu tố nói lên ngành đang phát triển.
+) Mặt khác, ngành sử dụng nhiều công nghệ cao vào sản xuất sẽ làm
tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của ngành.
Đánh giá mức độ tiến bộ khoa học công nghệ, chúng ta dựa vào các
tiêu chí: tính hiện đại, tính đồng bộ, và tính hiệu quả của công nghệ:
+) Tính hiện đại của thiết bị công nghệ được thể hiện thông qua các
thông số như hãng sản xuất, năm sản xuất, công suất, giá trị còn lại.
+) Tính đồng bộ là sự đảm bảo về sự phù hợp giữa thiết bị, phương
pháp sản xuất với chất lượng sản phẩm được sản xuất ra.
SVTH: Đào Duy Hà Lớp Kế hoạch – Phát triển 47A
25

×