Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

phát triển nghề thêu ren ở xã thanh hà, huyện thanh liêm, tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.3 KB, 116 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
&
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
PHÁT TRIỂN NGHỀ THÊU REN Ở XÃ THANH HÀ,
HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
Tên sinh viên : LẠI THỊ ĐỊNH
Chuyên ngành : KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Lớp : KTPT - K56
Niên khóa : 2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. MAI THANH CÚC
HÀ NỘI - 2014
LI CAM OAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong khóa luận này là trung thực và cha từng đợc dùng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều đã đợc chỉ rõ
nguồn gốc và mọi sự giúp đỡ đều đã đợc cảm ơn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2014
Tác giả khóa luận
Lại Thị Định
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được rất
nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo, gia đình và đồng nghiệp.
Trước hết tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: PGS.TS. Mai Thanh Cúc, Bộ môn
Phát triển Nông thôn, khoa Kinh Tế & Phát triển Nông thôn, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Kinh tế & Phát triển Nông
thôn, các thầy, cô giáo đã tận tình giúp đỡ chỉ bảo tôi trong quá trình học tập, nghiên


cứu tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Tôi luôn biết ơn gia đình, bạn bè, người thân và các em sinh viên đã đóng góp công
sức, động viên giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu và luận văn.
Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 2014
Tác giả
Lại Thị Định
ii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tên đề tài: Phát triển nghề thêu ren ở xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
1. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu chung:
Phân tích thực trạng phát triển nghề thêu ren truyền thống ở xã Thanh Hà,
huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển nghề thêu ren
trong điều kiện hiện nay.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận về nghề thêu ren truyền thống trong
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp;
- Phân tích thực trạng phát triển nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam;
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nghề thêu ren trên địa bàn
xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam;
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu tăng cường phát triển nghề thêu trên địa bàn xã
Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
2. Nội dung chính
- Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển ngành nghề nông thôn. Phần này hệ
thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về nghề ngành nghề nông thôn, những đặc
điểm của ngành nghề nông thôn, những nội dung chính phát triển nghề và bài học kinh
nghiệm trong nước cũng như của một số quốc gia về chính sách hỗ trợ phát triển
ngành nghề nông thôn.
- Phân tích thực trạng phát triển nghề thêu ren ở xã Thanh Hà, huyện Thanh

Liêm ,tỉnh Hà Nam thời gian qua. Phần này phân tích thực trạng nghề thêu ren của các
làng trong xã Thanh Hà và đánh giá kết quả, hiệu quả và rút ra những khuyết điểm cần
hoàn thiện.
- Đề xuất một số giải pháp chính sách thúc đẩy sự phát triển nghề thêu ren ở xã
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn ở xã Thanh Hà.
3. Kết quả đạt được
01 báo cáo khóa luận: “Phát triển nghề thêu ren ở xã Thanh Hà, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam”.
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC BẢNG iv
DANH BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ VÀ HỘP vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT viii
viii
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5
VỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP 5
PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN 25
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 99
DANH MỤC BẢNG
Trang

Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của xã Thanh Hà qua một số năm 26
Bảng 3.2 Tình hình cơ sở hạ tầng của xã Thanh Hà năm 2013 30
Bảng 3.3 Tình hình dân số xã Thanh Hà năm 2013 31
Bảng 3.4 Dân số, lao động và việc làm của người dân xã Thanh Hà 32
năm 2011-2013 32
Bảng 3.5 Tổng hợp hộ nghèo trên địa bàn xã Thanh Hà (2013) 33
Bảng 3.6 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã Thanh Hà 2009 -2011- 2013 34
Bảng 3.7 Giá trị sản xuất các ngành Nông – lâm – ngư và thương nghiệp qua 3
năm 2011-2013 35
iv
Bảng 4.1 Sản lượng sản phẩm thêu ren xã Thanh Hà qua các năm 43
Bảng 4.2: Cơ cấu sản lượng thêu ren theo làng nghề năm 2010 43
Bảng 4.3 Giá trị sản xuất của nghề thêu ren xã Thanh Hà qua các năm 44
Bảng 4.4 Số lượng các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nghề 45
thêu ren ở xã 45
Bảng 4.5 Tình hình sử dụng lao động trong các hộ SX hàng thêu ren 46
Bảng 4.6 Chất lượng CMKT lao động nghề thêu ren trong các hộ điều tra năm
2014 48
Bảng 4.7 Bình quân chất lượng lao động tại các làng nghề xã Thanh Hà 50
Bảng 4.8 Mức độ tham gia của cán bộ địa phương tại xã Thanh Hà 50
Bảng 4.9 Thu nhập bình quân của lao động nghề thêu ren xã Thanh Hà
năm 2013 51
Bảng 4.10 Tình hình huy động vốn của hộ 52
Bảng 4.11 Tình hình sử dụng vốn bình quân của 1 hộ sản xuất nghề thêu ren tại
xã Thanh Hà (năm 2014) 53
Bảng 4.12 Hệ thống cơ sở hạ tầng trang thiết bị 55
Bảng 4.13 Tình hình sử dụng đất sản xuất ở các làng nghề thêu ren 56
Bảng 4.14 Nguồn cung cấp nguyên vật liệu sản xuất tại các làng nghề thêu ren
xã Thanh Hà 57
Bảng 4.15 Thị trường và hướng tiêu thụ sản phẩm 58

các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà 58
Bảng 4.16 Giá của một số sản phẩm thêu ren của các làng nghề xã Thanh Hà 58
Bảng 4.17 Kim ngạch xuất khẩu hàng thêu ren của các làng nghề theo nước/khu
vực 59
Bảng 4.18 Kết quả sản xuất kinh doanh bình quân 1 hộ điều tra năm 2013 64
Bảng 4.19 Hiệu quả sản xuất kinh doanh bình quân một hộ trong các làng nghề
thêu ren 65
Bảng 4.20 Chất lượng nguồn lao động nghề thêu ren trong các hộ điều tra
của xã Thanh Hà năm 2014 69
Bảng 4.21 Tình hình huy động vốn của hộ 71
v
Bảng 4.22 Tình hình sử dụng đất ở các làng nghề thêu ren 73
Bảng 4.23 Số lượng các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nghề 75
Bảng 4.24 Thị trường và hướng tiêu thụ sản phẩm 76
các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà 76
Bảng 4.25 Hình thức bán sản phẩm của các hộ sản xuất 76
Bảng 4.26 Hình thức quảng cáo cho sản phẩm của các hộ 77
vi
DANH BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ VÀ HỘP
Trang
Hình 3.1: Dân số xã Thanh Hà năm 2013 31
Hình 4.1 Cơ cấu nguồn huy động vốn bình quân của hộ chuyên sản xuất
thêu ren và hộ kiêm sản xuất nghề thêu ren 52
Hình 4.2 Cơ cấu tình hình sử dụng vốn bình quân của 1 hộ
năm 2010 và năm 2014 54
Sơ đồ 4.1 Kênh tiêu thụ nội địa 60
Sơ đồ 4.2 Kênh xuất khẩu 61
Hộp 4.1 Không rõ các chính sách hỗ trợ, thủ tục vay phức tạp 72
Hộp 4.2 Hiệp hội có thành lập, nhưng hầu như chưa có vai trò gì…. 79
vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CC Cơ cấu
CN- TTCN Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSHT Cơ sở hạ tầng
CSVC Cơ sở vật chất
CSXH Chính sách xã hội
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
ĐVT Đơn vị tính
HTX Hợp tác xã
KH Kế hoạch
KHCN Khoa học công nghệ
KHKT Khoa học kĩ thuật
LĐTBXH Lao động thương binh xã hội
NĐ Nghị định
NNNT Ngành nghề nông thôn
NSNN Ngân sách nhà nước
SL Sản lượng
SX Sản xuất
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Tr.đ Triệu đồng
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
TTg Thủ tướng Chính phủ
UBND Ủy ban nhân dân
USD Đồng đô la Mỹ
VH Văn hóa
WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
XDC Xây dựng cơ bản


viii
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, hệ thống các làng nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa tinh thần ở các vùng quê Việt Nam.Và việc
phát triển ngành nghề nông thôn giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển
nông thôn Việt Nam, sự phát triển không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm lúc nông
nhàn, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư nông thôn mà cũng góp
phần quan trọng giữ gìn, phát huy tạo nên những dấu ấn, bản sắc văn hóa cảu mỗi
vùng miền thông qua các sản phẩm văn hóa được lưu giữ từ đời này qua đời khác.
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), sức ép dư thừa lao động ở nông thôn và sự chuyển dịch lao động từ nông
thôn ra thành phố có nguy cơ ngày một gia tăng. Vì vậy, phát triển ngành nghề nông
thôn rất có ý nghĩa trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc mà còn rất có ý nghĩa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
góp phần phát triển bền vững kinh tế xã hội chung của cả nước.
Trong những năm qua, việc thực hiện chủ trương hỗ trợ và phát triển nông
nghiệp, nông thôn của Đảng và nhà nước, các ngành nghề, làng nghề tiểu thủ công
nghiệp ở nước ta đã và đang được khôi phục phát triển. Với hàng loạt chính sách hỗ
trợ mang tín dài hạn đối với phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn
trong thời gian qua hoạt động khuyến công trên cả nước đã thu được nhiều kết quả
tích cực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, giải
quyết việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân.
Theo Cục Công Nghiệp địa phương – Bộ Công Thương, từ khi triển khai thực
hiện Nghị định 134/2004/NĐ-CP của Chính phủ về Khuyến khích phát triển công
nghiệp nông thôn và thực hiện Quyết định số 136/2007/QĐ- TTg của Thủ tướng chính
phủ phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012, các hoạt động
khuyến công nhất là đào tạo nghề, truyền nghề và nâng cao tay nghề gắn với nhu cầu
doanh nghiệp; xây dựng mô hình tình diễn kĩ thuật, hỗ trợ chuyển giao công nghệ,

phát triển sản phẩm tiêu biểu….đã có kết quả tích cực đối với nhiều cơ sở sản xuất
1
công nghiệp nông thôn trên phạm vi cả nước. Nếu giai đoạn 2001-2004,giá trị sản xuất
khu vực công nghiệp nông thôn có mức tăng trưởng bình quân là 15,75%, đến giai
đoạn 2005 -2010 đã đạt mức 17,6%. Số lao động làm việc trong các cơ sở sản xuất
công nghiệp nông thôn tăng 8,9%/năm, chiếm gần 55% tổng số lao đông toàn ngành
công nghiệp. Nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề trong cả nước đã
tạo tạo ra việc làm thường xuyên cho trên 50 lao động và sử dụng được phần lớn lao
động nông nhàn trong nông thôn.
Thanh Hà (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) là xã có nghề thêu ren truyền
thống từ lâu đời. Những năm gần đây, nghề thêu ren ở xã được khôi phục và phát triển
ở tất cả các thôn, xóm. Có thể nói, phát triển nghề thêu ren là một thế mạnh thực sự để
xã tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn địa phương. Các làng nghề đã
từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn của xã, góp phần qua trọng trong việc giải quyết
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống người dân địa phương. Một số làng
nghề ren từ lâu đã trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài tỉnh như làng nghề thêu ren An
Hòa, Hòa Ngãi,… sản phẩm thêu ren của những làng nghề này đã có mặt ở nhiều nước
trên thế giới. Nhưng nhìn chung, sự phát triển các nghề thêu ren ở Thanh Hà thời gian
qua còn nhiều hạn chế: nghề phát triển vẫn mang tính tự phát, chưa có định hướng rõ
ràng; các cơ sở làng nghề nhỏ bé, sử dụng những công nghệ, thiết bị lạc hậu; thiếu
vốn, thiếu mặt bằng, thiếu nguyên liệu cho sản xuất; công tác đào tạo nghề chưa được
chú trọng; chưa khai thác tốt thị trường trong nước và xuất khẩu; công tác đăng kí
thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm còn rất hạn chế; chưa khai thác tốt tiềm
năng du lịch làng nghề; thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định; chưa quan tâm
đúng mức tới vấn đề môi trường,… Mặt khác, hiện nay và trong những năm tới, diện
tích đất canh tác đang có xu hướng giảm nhanh, số người không có việc làm thường
xuyên ngày càng nhiều, sức ép về lao động và việc làm ngày càng lớn. Chính vì vậy,
trong thời gian tới phát triển nghề thêu ren nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng
của địa phương về một ngành nghề tiêu thủ công nghiệp truyền thống, từ đó thúc
đẩy các làng nghề thêu ren phát triển bền vững lâu dài, góp phần chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông thôn địa phương là một yêu cầu tất yếu, là mối quan tâm của các
2
cấp, ngành xã Thanh Hà cũng là mối quan tâm của nhiều địa phương có tiềm năng
phát triển ngành nghề nông thôn.
Vậy câu hỏi đặt ra là phát triển ngành nghề nông thôn ở xã có vai trò như thế
nào? Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương có tác động như
thế nào đối với việc giữ gìn và phát triển nghề thêu ren truyền thống? Cần phải làm gì
để gìn giữ và phát triển nghề truyền thống này nhằm phát huy, khai thác tốt thế mạnh
của địa phương và phát triển kinh tế xã hội của cộng đồng dân cư nông thôn ở xã một
cách bền vững?
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nghề
thêu ren ở xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam” cho luận văn của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích thực trạng phát triển nghề thêu ren truyền thống ở xã Thanh Hà,
huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển nghề thêu ren
trong điều kiện hiện nay.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận về phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp;
- Đánh giá thực trạng phát triển nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam;
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nghề thêu ren trên địa bàn xã;
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường phát triển nghề thêu trên địa bàn
xã trong thời gian tới;
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các hộ làm nghề thêu ren, những vấn đề nghiên cứu có
liên quan đến tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của nghề thêu ren.
Ngoài ra còn có các tác nhân tham gia vào quá trình phát triển nghề như các tổ chức,
các nguồn cung nguyên liệu đầu vào như vải vóc, chỉ, màu… và các nguồn đầu ra.

3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung: nghiên cứu việc phát triển ngành nghề thêu trên địa bàn
có tác động đến việc phát triển các hộ như: thu nhập, nghề nghiệp, các mặt xã hội.
+ Phạm vi về thời gian:
- Thời gian thực hiện đề tài từ ngày 27/6/2014 đến ngày 28/11/2014
- Số liệu thứ cấp sử dụng trong đề tài được thu thập trong khoảng thời gian từ
năm 2011 đến năm 2013
+ Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại xã Thanh Hà, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
4
PHẦN II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm phát triển
Đến nay có nhiều khái niệm khác nhau về sự phát triển. Tác giả Raaman Weitz
(1987) cho rằng: “Phát triển là một quá trình liên tục làm thay đổi mức sống của con
người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã hội”. Ngân hàng
Thế giới (WB) năm 1999 đã đưa ra khái niệm phát triển với ý nghĩa rộng lớn hơn bao
gồm cả những thuộc tính quan trọng có liên quan đến hệ thống giá trị con người, đó là:
“sự bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính trị và các quyền tự do công dân để
củng cố niềm tin trong cuộc sống của con người, trong các mối quan hệ với Nhà nước,
cộng đồng…”
Một quan niệm khác cho rằng: “Phát triển là việc tạo điều kiện cho con người
sinh sống ở bất cứ nơi nào đều được thỏa mãn nhu các nhu cầu sống của mình, có mức
tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ tốt, đảm bảo chất lượng cuộc sống, có trình độ học vấn
cao, được hưởng những thành tựu về văn hóa và tinh thần, có đủ điều kiện cho môi
trường sống lành mạnh, được hưởng các quyền cơ bản của con người và được đảm bảo
an ninh, an toàn, không có bạo lực.

Mặc dù có sự khác nhau trong quan niệm về phát triển, nhưng các ý kiến đều
thống nhất cho rằng, phạm trù cuẩ sự phát triển là phạm trù vật chất, phạm trù tinh
thần, phạm trù về hệ thống giá trị trong cuộc sống con người. Mục tiêu chung của phát
triển là nâng cao quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quyền tự do công
dân của mọi người dân.
Trong những năm gần đây, các tổ chức quốc tế, các quốc gia đã đưa ra các quan
điểm phát triển bền vững, Ủy ban quốc tế về phát triển và môi trường(1987) đã định
nghĩa: “ Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi, trong đó, việc khai thác
và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công nghệ, kỹ thuật và sự
thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương
lai của con người”. Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tổ chức tại Riode
5
janeiro đưa ra định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vững là “ Phát triển nhằm thỏa mãn
nhu cầu của các thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai”. Như vậy, phát triển bền vững lồng ghép các quá trình phát
triển kinh tế, hoạt động xã hội với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và làm giàu môi
trường sinh thái. Nó làm thỏa mãn nhu cầu phát triển hiện tại mà không làm thương
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
2.1.1.2 Khái niệm về nghề
Đã có nhiều học giả, tổ chức đưa ra định nghĩa về nghề nghiệp. Theo từ điển
Tiếng Việt (1998), nghề là công việc chuyên làm, theo sự phân công của xã hội; Theo
tác giả E.A.Klimov (1971) nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và
tinh thần của con người một cách có giới hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao
động mà có), nó tạo ra cho con người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy
những phương tiện cần thiết cho tồn tại và phát triển;
Như vậy, có thể hiểu nghề là một hoạt động mà con người được đào tạo, cung
cấp kĩ năng, tri thức về nó nhằm tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
2.1.1.3 Khái niệm ngành nghề nông thôn
Theo các nhà khoa học và các chuyên gia của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn trong quá trình nghiên cứu, khảo sát ngành nghề nông thôn theo quy mô

toàn quốc năm 1997 đã đưa ra một khái niệm khá đầy đủ về ngành nghề nông thôn
như sau: “Ngành nghề nông thôn là những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp bao gồm
tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động dịch vụ sản xuất và đời sống, có quy mô vừa và
nhỏ với các thành phần kinnh tế như hộ gia đình, hộ sản xuất (gọi chung là hộ), các tổ
chức kinh tế hợp tác xã,DNTN, Công ty TNHH….(gọi chung là cơ sở sản xuất). Các
tổ chức hộ và cơ sở này với mức độ khác nhau đều gắn kết mật thiết với nông thôn và
có sử dụng các nguồn lực của nông thôn (đất đai, lao động, nguyên liệu và các nguồn
lực khác) và có ảnh hưởng lớn tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của nông thôn”
Sản xuất ngành nghề nông thôn đó là những ngành sản xuất bằng tay và bằng
công cụ thô sơ hoặc cải tiến đã có từ lâu đời và gắn liền với các làng nghề hoặc các hộ
làm nghề, tạo ra những mặt hàng truyền thống và có kĩ sảo phục vụ tiêu dung trong
nước và xuất khẩu.
6
Căn cứ theo nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát
triển ngành nghề nông thôn thì các hoạt động ngành nghề nông thôn bao gồm:
- Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản.
- Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, cơ
khí nhỏ.
- Xử lí, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
- Sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ.
- Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.
- Xây dựng vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất,
đời sống dân cư nông thôn.
- Tổ chức đào tạo nghề truyền nghề; tư vấn sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực
ngành nghề nông thôn.
Ngành nghề nông thôn ở Việt Nam thường được phát triển trong các thôn xóm,
làng, xã và được gọi là làng nghề. Như vậy, ngành nghề nông thôn luôn gắn liền với
các làng nghề trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển.
2.1.1.4 Khái niệm về nghề thủ công
Nghề thủ công là những nghề sản xuất ra sản phẩm mà kỹ thuật sản xuất chủ

yếu là làm bằng tay. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, các nghề thủ công
có thể sử dụng máy, hóa chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong một số
công đoạn, phần việc nhất định, nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc
trưng của sản phẩm vẫn làm bằng tay.
2.1.1.5 Khái niệm về thủ công mĩ nghệ
Thủ công mĩ nghệ là các nghề thủ công làm ra các sản phẩm mỹ nghệ, hoặc các
sản phẩm tiêu dùng được tạo hình và trang trí tinh xảo giống như sản phẩm mĩ nghệ. Ở
sản phẩm mỹ nghệ, chức năng văn hóa, thẩm mỹ trở nên quan trọng hơn chức năng
thông thường.
2.1.1.6 Khái niệm về tiểu thủ công nghiệp:
Tiểu thủ công nghiệp là lĩnh vực sản xuất bao gồm các làng nghề thủ công và
các cơ sở công nghiệp nhỏ. Thường các cơ sở công nghiệp nhỏ này có nguồn gốc từ
các nghề thủ công phát triển thành.
7
2.1.1.7 Khái niệm về hộ nông dân
Hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất, sử dụng yếu tố gia
đình vào sản xuất, luôn nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn và được đặc trưng
bởi sự tham gia từng phần vào thị trường với mức đọ hoàn hảo không cao (Ellis, 1988)
Kinh tế hộ nông dân là một hình thức tổ chức sản xuất của xã hội, trong đó, chủ
hộ vừa là người quản lí, vừa là người trực tiếp sản xuất. Do đặc điểm của nông nghiệp
nên kinh tế hộ mang những đặc thù riêng như sử dụng lao động gia đình, sản xuất phục
vụ nhu cầu của chính bản thân hộ, sử dụng chung cơ sở kinh tế, ngân sách và hưởng
chung lợi ích từ sản xuất. Do đó, kinh tế hộ có khả năng sử dụng lao động hợp lí, có
khả năng tự điều chỉnh rất cao trong những biến động của nền kinh tế.
2.1.2 Vai trò, đặc điểm của phát triển ngành nghề nông thôn ở Việt Nam
2.1.2.1 Vai trò của phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam
 Phát triển ngành nghề là nội dung quan trọng của phát triển công nghiệp
nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn:
Trong thời kì kế hoạch hóa tập trung, làng nghề là nơi phát triển của các ngành
nghề phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và nâng cao đời sống nông dân. Trong thời kì

đổi mới (từ năm 1986 đến nay), các ngành nghề nông thôn góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, tạo ra những sản phẩm phục vụ xã hội và góp phần tích cực vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
NNNT là lĩnh vực chủ yếu của công nghiệp nông thôn và là hình thức chủ yếu
của phát triển nông thôn trong quá trình CNH, HĐH nông thôn.
Phát triển các ngành nghề đồng nghĩa với phát triển công nghiệp , tiểu thủ công
nghiệp và DV ở nông thôn, nhờ vậy sẽ nâng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong
cơ cấu kinh tế ở nông thôn và tăng tốc độ phát triển kinh tế nông thôn. Đồng thời với
thúc đẩy phát triển công nghiệp, dịch vụ, phát triển các nghề trong nông thôn sẽ kéo
theo phát triển nông nghiệp để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tiêu thụ sản
phẩm của công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các nghề dịch
vụ…. Do vậy, phát triển ngành nghề sẽ góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và thúc đẩy CHH, HĐH nông nghiệp và nông thôn … Đến nay, cơ cấu kinnh tế ở
8
nhiều làng nghề truyền thống đã chuyển dịch theo hướng 60-80% cho công nghiệp và
dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp.
 NNNT góp phần tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động cải thiện
đời sống nhân dân ở nông thôn:
Việc mở mang đầu tư phát triển ngành nghề ở các làng nghề là biện pháp tốt
nhất để huy động nguồn lao động này. Bởi vì, sản xuất ngành nghề chủ yếu thực hiện
bằng tay, không đòi hỏi cao về chuyên môn, kĩ thuật như đối với các lĩnh vực sản xuất
khác. Các cơ sở sản xuất thủ công trong làng nghề tuy có quy mô nhỏ, thậm chí là sản
xuất của các hộ gia đình nhưng đã thu hút một số lượng khá lớn lao động nông thôn.
Nhiều ngành nghề ở các làng nghề nước ta hiện nay thu hút trên 60% lao động tham
gia vào các hoạt động ngành nghề. Sự phát triển của làng nghề không những chỉ thu
hút lao động trong xã mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác.
Ngoài ra, sự phát triển của các làng nghề còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát
triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó, tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng thu nhập của người lao
động, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. Thu nhập từ nghề

thủ công chiếm tỉ lệ cao trong tổng thu nhập đã đem lại cho người dân ở các làng nghề
một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất lẫn tinh thần.
 NNNT góp phần phát triển kinh tế địa phương và xây dựng nông thôn mới:
Phát triển nghề, làng nghề góp phần tăng thu nhập của người dân, đồng thời đã
tạo ra nguồn tích lũy khá lớn và ổn định cho các hộ gia đình cũng như cho ngân sách
địa phương. Vì vậy, nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được huy
động từ sự đóng góp của người dân tại các địa phương có NNNT phát triển cũng khác
hẳn so với các địa phương không có nghề.
 Hoạt động sản xuất kinh doanh của các NNNT góp phần làm tăng giá trị tổng
sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế:
Phát triển các ngành nghề có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế,
xã hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé, được phân bố rộng khắp ở các vùng nông thôn,
hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa khá lớn
phục vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế
9
quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng. Năng lực sản xuất, kinh doanh
của các làng nghề là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa ở nông
thôn. Thực tế cho thấy ở địa phương nào có nhiều làng nghề thì ở đó kinh tế, hàng hóa
phát triển.
 NNNT phát triển góp phần phát huy tiềm năng, thế mạnh nội lực của địa phương:
Các nghề thủ công trong làng nghề cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn
lực ở địa phương, cụ thể là nguồn lao động, nguyên vật liệu, tiền vốn. Làm nghề
truyền thống có thể làm được điều này vì nó có nhiều loại quy mô, dễ dàng chuyển
hướng kinh doanh…
Một khi ngành nghề ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao
động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Chính thông qua lực lượng này để tiếp
thu những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản
phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như
vậy, các ngành nghề càng phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn. Hơn nữa khi cơ sở vật chất kĩ thuật được tăng cường và hiện

đại, chính là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công
nghiệp, nâng cao tính tổ chức kỉ luật. Đồng thời trình độ văn hóa của người lao động
ngày một nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật và
công nghệ vào lĩnh vực sản xuất vào hoạt động dịch vụ trong làng nghề.
 Phát triển NNNT góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:
Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử phát triển nền văn hóa Việt Nam
luôn gắn liền với lịch sử phát triển của các ngành nghề, làng nghề truyền thống. Văn
hóa làng nghề với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng
giềng, hôn nhân, nghề nghiệp với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang
đậm những sắc thái riêng, tạo nên bản sắc truyền thống văn hóa phong phú sâu đậm
của dân tộc ta. Vì vậy, để các làng nghề truyền thống mai một cũng tức là đánh mất đi
một phần máu thịt của nhiều thế hệ, đánh mất một vốn quý của dân tộc.
Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, xã hội và văn hóa thu nhỏ. Nó bảo lưu
những tinh hoa nghệ thuật và kĩ thuật từ đời này sang đời khác, hun đúc các thế hệ
nghệ nhân tài ba và những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng. Bởi vậy, các làng
10
nghề truyền thống với những bàn tay vàng của người thợ thủ công cần được coi trọng,
bảo tồn và phát triển. Bảo tồn và phát triển NNNT trong các làng nghề là tăng thêm
sức mạnh cội nguồn, gieo vào lòng mỗi người dân tình cảm dân tộc, yêu quý, trân
trọng, giữ gìn di sản và bản sắc văn hóa. Điều đó không gì khác là giữ gìn và phát huy
một bộ phận của nền văn minh nhân loại, làm tăng những giá trị văn hóa truyền thống
trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động.
Với vai trò to lớn của làng nghề trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, để khôi phục và phát triển làng nghề đòi hỏi các cấp chính quyền phải nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của làng nghề; kịp thời có những biện pháp hỗ trợ các
làng nghề phát triển phù hợp với đặc điểm từng địa phương cũng như yêu cầu của thị
trường.
2.1.2.2 Đặc điểm của ngành nghề nông thôn
Nhìn chung, ngành nghề nông thôn nước ta đều có những đặc điểm chung nổi
bật sau đây:

Một là, tổ chức sản xuất kinh doanh của các ngành nghề nông thôn theo hộ gia
đình là chủ yếu. Ngoài ra, một số ngành nghề có những loại hình sản xuất khác như:
doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác,… Hầu hết các ngành nghề đều tồn tại ở các làng
nghề trong nông thôn.
Hai là, hầu hết các ngành nghề nông thôn sử dụng công nghệ thủ công và thô
sơ. Cho đến nay vẫn chỉ có một số mặt hàng có khả năng cơ giới hóa được một số
công đoạn sản xuất. Có thể nói, đặc điểm này đã đem lại những đặc tính riêng biệt và
sự quý hiếm cho các sản phẩm của làng nghề. Tuy nhiên, chính đặc điểm này làm cho
năng suất, chất lượng sản phẩm của nhiều ngành nghề nông thôn bị thấp, khả năng
cạnh tranh của nhiều ngành nghề bị hạn chế.
Ba là, ở các làng nghề TTCN thường có nhiều nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ
lành nghề. Việc sản xuất các sản phẩm thủ công trong làng nghề đều có các nghệ nhân
và đội ngũ thợ lành nghề, có kỹ thuật tinh xảo làm hạt nhân để phát triển. Mỗi làng
nghề thường có một ông tổ nghề là người truyền dạy bí quyết, kỹ thuật nghề. Phương
thức dạy nghề chủ yếu là truyền nghề, kèm cặp của người thợ cả đối với thợ họ việc.
11
Bốn là, nguyên liệu sử dụng cho sản xuất của làng nghề chủ yếu là nguyên liệu
sẵn có ở địa phương và trong nước như tre nứa, song mây, gỗ, rừng, tơ tằm…Ngoài ra
có nhập khẩu một số nguyên liệu từ nước ngoài; việc tận dụng phế liệu cho sản xuất
cũng được coi trọng.
Năm là, sản phẩm của làng nghề thường là những sản phẩm độc đáo, được sản
xuất theo kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, nhiều sản phẩm không thể sử dụng máy móc
vào quá trình sản xuất được mà chỉ có bàn tay con người mới thực hiện được. Sản
phẩm của các làng nghề TTCN truyền thống mang tính độc đáo, tính nhân văn, nét
nghệ thuật cao,…tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương và chứa đựng trong nó
những ảnh hưởng văn hóa tinh thần, quan niệm nhân văn , tín ngưỡng tôn giáo của dân
tộc. Khác với các mặt hàng công nghiệp sản xuất hàng loạt bằng máy móc, giá trị của
hàng thủ công trong các làng nghề chính là ở lao động thủ công, ở tâm hồn và sự sáng
tạo cuả người thợ được thể hiện trong chính mỗi sản phẩm.
Sáu là, làng nghề TTCN ở Việt Nam không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa

“nghề” với “nghiệp” mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần đậm nét, được phản
ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và nhiều quy định khác. Trước hết có thể nói
đến là những quy ước, luật lệ để giữ gìn bí quyết nghề, để bảo tồn nghề của dòng họ
hay của cộng đồng làng xã. Có thể nói tất cả các nghề thủ công đều có bí quyết. Việc
giữ gìn bí quyết không chỉ đơn thuần là giữa nghề mà nó còn chi phối cả các quan hệ
xã hội khác như quan hệ hôn nhân, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong một số
đối tượng cụ thể, như chỉ truyền cho con trai, hoạc chỉ truyền cho con trưởng hoặc
cháu đích tôn. Điều này đã tạo ra một trật tự trong làng nghề và những nét văn hóa đặc
thù trong các làng nghề Việt Nam. Điều thứ hai cần đề cập đến trong đặc điểm văn hóa
tinh thần của làng nghề là: hầu như làng nghề nào cũng có tục thờ cúng tổ nghề và gắn
kiền với lễ hội cùng với các hoạt động văn hóa dân gian khác. Như vậy, ở làng nghề
ngoài yếu tố sản xuất còn mang rất đậm yếu tố văn hóa và phần nào còn có những yếu
tố tâm linh phù hợp. Bởi làng nghề ngoài phạm vi đơn vị sản xuất và khái niệm đơn vị
hành chính còn có đặc trưng riêng biệt là tính cộng đồng cư trú, cộng đồng lợi ích rất
cao.
12
2.1.3 Nội dung phát triển ngành nghề TTCN ở Việt Nam
Phát triển TTCN nông thôn là hoạt động thu hút nhiều người dân tham gia vào
sản xuất TTCN, nhằm mục tiêu nâng cao thu nhập, cải tiến chất lượng cuộc sống của
các cư dân nông thôn. Đồng thời, phát triển TTCN nông thôn cũng là quá trình thực
hiện CNH, HĐH nông thôn nhưng vẫn bảo tồn được những giá trị truyền thống thông
qua việc ứng dụng khoa học và công nghệ. Phát triển ngành nghề TTCN nông thôn là
đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, đảm bảo sức khỏe của người
dân và lao động làm nghề, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo cơ sở vật chất vững mạnh,
cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hóa nông thôn trên cơ sở giải quyết tốt
việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân
nông thôn, đưa nông thôn tiến lên một nền văn minh hiện đại.
Phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp thêu ren là tạo ra việc làm thu hút nhiều
người dân tham gia vào sản xuất, nhằm mục tiêu nâng cao thu nhập, cải tiến chất
lượng cuộc sống. Phát triển nghề theo hướng HĐH nhưng không làm mất đi yếu tố

truyền thống của nghề thêu ren, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
2.1.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển nghề thêu ren
Quá trình hình thành và phát triển của NNNT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự
nhiên, kinh tế, xã hội, trong đó thì các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ
hơn cả. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành nghề trong
nông thôn gồm có:
• Về cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách của Nhà Nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hay
suy vong của các nghề và làng nghề. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi
các hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong nông thôn, các
doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển chính thức, thì các NNNT, làng nghề có
điều kiện phục hồi và phát triển mạnh. Chính sách mở cửa hội nhập nền kinh tế nước
ta với khu vực và thế giới cũng làm cho một số sản phẩm làng nghề có điều kiện phát
triển vì mở rộng được thị trường, nhất là hàng thủ công mĩ nghệ, trong đó có sản phẩm
thêu ren truyền thống, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng nước ngoài tràn
vào thị trường trong nước khá nhiều, làm cho sản phẩm các làng nghề khó có thể cạnh
13
tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, làm hạn chế sự phát triển của mộ số ngành nghề.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nếu không có chính sách phát triển hợp lí đối
với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp thì các ngành nghề, làng
nghề ở nông thôn cũng khó có điều kiện phát triển.
• Nhu cầu thị trường:
Sự tồn tại và phát triển của NNNT phụ thuộc rất lớn vào khả năng đáp ứng nhu
cầu ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi của thị trường . Những
ngành nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị trường có sự phát
triển nhanh chóng. Sự thay đổi nhu cầu thị trường tạo tạo định hướng cho sự phát triển
của nghề. Những ngành nghề mà sản phẩm của nó phù hợp với nhu cầu xã hội, có khả
năng tiêu thụ lớn thì vẫn phát triển bình thường. Ngay cả trong mỗi một nghề, cũng có
những làng nghề phát triển, trong khi một số làng nghề khác lại không thể phát triển
được, do sản phẩm là ra chỉ là những sản phẩm truyền thống ít chú ý đến sự thay đổi

kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng và giá cả nhằm đáp ứng được sự thay đổi thị hiếu của
người tiêu dùng trên thị trường.
• Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng trước hết là giao thông điện, cấp và thoát nước, bưu chính -
viễn thông ….có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của các
ngành nghề, làng nghề trong nông thôn, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan
trọng nhất.
Từ xa xưa, các làng nghề truyền thống thường nằm trên các đầu mối giao thông
thủy, bộ khá thuận lợi. Ngày nay, khi giao lưu kinh tế phát triển rộng khắp, khi mà thị
trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề không chỉ ở tại địa phương mà vươn tới
các thị trường xa xôi khác, khi mà nguồn nguyên liệu tại chỗ đã cạn kiệt phải vận
chuyển từ nơi xa về thì nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải phát triển thuận lợi đối
với các làng nghề là rất quan trọng.
Trong công cuộc CNH, HĐH sự phát triển của các nghề, làng nghề chịu ảnh
hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện, nước và thoát nước, trong việc đưa thiết bị,
công nghệ, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền, làm tăng năng suất lao
14
động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề và làm giảm thiểu ô nhiễm môi
trường ở các làng nghề.
Sự hoạt động của các làng nghề trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu tác
động mạnh bởi yếu tố thông tin nói chung, bưu chính viễn thông nói riêng. Nó sẽ giúp
cho các chủ doanh nghiệp nắm bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác những thông tin
về thị hiếu, giá cả, mẫu mã, chất lượng, quy cách sản phẩm trên thị trường để có
những ứng xử thích hợp đáp ứng nhu cầu trên thị trường. Bên cạnh đó, hệ thống cửa
hàng, cửa hiệu, nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm, chợ nông thôn, trường học, bệnh
viện,…cũng là những nhân tố tích cực giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm nhanh, phát
triển mạnh nguồn nhân lực có sức khỏe, trình độ tri thức và kĩ thuật tay nghề cao, tạo
điều kiện cho các ngành nghề phát triển.
• Trình độ kĩ thuật và công nghệ
Trình độ kĩ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng rất quan trọng đối với bất

kỳ ngành nghề nào, sản phẩm nào. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động,
chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa
trên thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại hay suy vong của một cơ sở
sản xuất, một ngành nghề nào đó. Hiện nay, phần lớn các cơ sở sản xuất của các nghề
trong làng nghề vẫn sử dụng thiết bị thủ công, công nghệ cổ truyền chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm có tính chất cha truyền con nối trong từng hộ gia đình là chính. Bởi vậy,
sản phẩm sản xuất ra với năng suất, số lượng và chất lượng sản phẩm thấp kém, không
đồng bộ, giá thành cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm làng nghề. Để
đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề
không thể không đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng một số tiến bộ khoa học công
nghệ vào các lĩnh vực sản xuất.
• Vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh:
Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kì quá trình sản xuất, kinh
doanh nào. Sự phát triển của các ngành nghề cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của
nhân tố vốn sản xuất. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất, kinh doanh trong các làng
nghề rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay mượn của bà con họ
15
hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày nay, trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi
hỏi các hộ, sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề phải có lượng vốn khá lớn để đầu
tư, cải tiến công nghệ, đưa thiết bị máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn,
công việc có thể thay thế kĩ thuật lao động thủ công được, nhằm nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.
• Yếu tố nguyên vật liệu:
Yếu tố nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất của các
ngành nghề, làng nghề. Khối lượng, chủng loại, phẩm cấp và khoảng cách tới cơ sở
sản xuất tới nơi có nguồn vật liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm
của các đơn vị sản xuất. Cho nên, các làng nghề thường chú ý nhiều đến yếu tố nguyên
vật liệu. Trước đây các làng nghề được hình thành do có nguồn nguyên vật liệu tại chỗ

và nghề nghiệp chủ yếu được gắn bó với nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương.
Hiện nay, nguồn nguyên liệu tại chỗ của nhiều nghề truyền thống đã cạn kiệt, phải vận
chuyển từ những nơi khác về, điều kiện khai thác, vận chuyển có ảnh hưởng tới việc
đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các làng nghề. Trong điều kiện khoa học và công
nghệ phát triển như hiện nay, nguyên vật liệu cho các làng nghề đã có sự phong phú,
đa dạng. Một loại nguyên vật liệu có thể dùng cho nhiều loại sản phẩm, ngược lại một
loại sản phẩm có thể dùng nhiều loại nguyên vật liệu thay thế. Vì vậy, vấn đề chọn lựa
và sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế hợp lí, theo hướng đa dạng hóa, giá rẻ,
đảm bảo cho quy trình sản xuất nhanh, đảm bảo sản phẩm của các làng nghề có được
chất lượng cao, giá thành hạ là điều kiện cần được quan tâm.
• Yếu tố truyền thống:
Đây là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển các nghề, làng nghề,
là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà chi phối cả tiêu
dùng và đời sống của cư dân nông thôn. Sự bình ổn của các làng nghề là điều kiện tạo
ra truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp cho làng nghề ổn định hơn, phát
triển truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống có những tác động trái ngược nhau tới
sự phát triển của làng nghề.
16

×