Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân xã yên thắng, huyện yên mô, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.12 KB, 118 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG
TIẾP CẬN DỊCH VỤ KHUYẾN NÔNG CỦA HỘ NÔNG DÂN
XÃ YÊN THẮNG, HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH”
Người thực hiện ĐINH THỊ THU HÀ
Chuyên ngành KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Lớp KTNNB - K56
Niên khóa 2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn PGS.TS. MAI THANH CÚC
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả
trong Luận văn này hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2014
Sinh viên
2
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ của các cá nhân tập thể. Tôi xin có lời cảm ơn chân thành
nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài
nghiên cứu này.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Mai Thanh Cúc, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tiến hành thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Học viện Nông nghiệp Việt
Nam, Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn, các thầy cô giáo đã trực


tiếp tham gia giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo UBND xã Yên Thắng,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình và những hộ nông dân trên địa bàn xã Yên Thắng đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập.
Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt quá trình học tập và thực tập tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do chủ quan, khách quan, khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự thông cảm
và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các độc giả để khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin gửi lời chúc sức khoẻ và chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng11 năm 2014
Sinh viên
Đinh Thị Thu Hà
3
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Trong vòng gần ba thập kỷ trở lại đây Việt Nam luôn là những nước đứng
đầu về xuất khẩu lương thực của thế giới. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu,
tự cung, tự cấp, quy mô nhỏ, chúng ta đã vươn lên để dần dần trở thành một nước
có nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có tỷ suất
hàng hoá ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta đã trở
thành một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu gạo, cà phê, điều, tiêu, thuỷ hải
sản trên thị trường quốc tế (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2008). Để có được những
thành tựu đó thì không thể phủ nhận vai trò qua trọng của công tác khuyến nông với
sự phát triển của nên nông nghiệp Việt Nam. Chính phủ đã ban hành một số những
Nghị định về khuyến nông như Nghị định 13/CP, Nghị định 56/2005/NĐ-CP và
Nghị định 02/2010/NĐ-CP. Công tác khuyến nông, khuyến ngư có đạt được kết quả
như mong muốn hay không thì còn phải phụ thuộc vào khả năng tiếp cận về các
dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận về các dịch vụ
khuyến nông giữa các hộ nông dân là khác nhau. Có những hộ được tiếp cận

khuyến nông một cách đầy đủ, có những hộ tiếp cận khuyến nông một cách không
hoàn toàn, đây là các hộ chỉ tham gia một vài hoạt động và khả năng áp dụng các
kiến thức đó có kết quả không cao. Yên Thắng là một xã thuần nông của huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình. Công tác khuyến nông được triển khai trên địa bàn khá tốt,
song khả năng tiếp cận các dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân vẫn chưa được
cao và chưa được đồng đều giữa các hộ. Hiện nay xã đã thực hiện quy hoạch “Thửa
ruộng mẫu lớn” vậy cơ cấu cây trồng, vật nuôi ra sao để phù hợp với việc quy
hoạch. Chính vì thế sự cần thiết trong đổi mới công tác khuyến nông của xã để nâng
cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông góp phần phát triển bền vững kinh tế
nông hộ, giúp hộ nâng cao được thu nhập đang là vấn đề cấp thiết đặt ra tại địa
phương. Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng
và giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân
xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu chung của đề tài là: “Đánh giá thực trạng khả năng tiếp cận dịch
vụ khuyến nông của hộ nông dân trên địa bàn xã Yên Thắng, phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông cho hộ nông dân
xã” được cụ thể hóa bằng 4 mục tiêu cụ thể sau: (1) Hệ thống hóa cơ sở lý luận và
4
thực tiễn về khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân; (2) Đánh giá
thực trạng khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân xã Yên Thắng;
(3) Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp dịch vụ khuyến nông của
hộ nông dân xã Yên Thắng; (4) Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận
dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân xã Yên Thắng trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề khả
năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân và nâng cao khả năng tiếp cận
dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân tại xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình.Chủ thể nghiên cứu của đề tài là hộ nông dân, cán bộ khuyến nông của xã và
các cơ sở cung cấp dịch vụ khuyến nông trên địa bàn xã, các dịch vụ khuyến nông
như: Chuyển giao kỹ thuật, tập huấn, giới thiệu cây trồng vật nuôi mới cho năng

suất cao
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, phỏng vấn
điều tra trực tiếp 60 hộ nông dân tại 3 thôn (thôn Vân Thượng 1, thôn Khai Khẩn,
thôn Quảng Thượng) mỗi thôn 20 hộ; trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng
phương pháp chuyên gia, chuyên khảo và phương pháp điều tra, đánh giá nhanh
nông thôn (PRA); Số liệu thu thập được tổng hợp xử lý bằng các phương pháp
thông kê mô tả, phương pháp so sánh.
Qua quá trình nghiên cứu, tôi thu được những kết quả sau: Trong ba năm qua,
công tác khuyến nông của Trạm tại xã Yên Thắng đã đạt được những kết quả nhất
định. Với 16 lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho hơn 670 lượt người tham gia, xã đã
xây dựng được 2 mô hình trình diễn với 10 hộ tham gia, Trạm đã tổ chức được 5
chuyến đi tham qua hội thỏa đầu bờ để mở rộng mô hình trình diễn với 152 lượt
người tham gia góp phần nâng cao được thu nhập và cải thiện đời sống cho hộ nông
dân. Tiếp cận hoạt động đào tạo, tập huấn kỹ thuật vẫn còn nhiều hạn chế. Do lịch
tập huấn được thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã và thôn nên tất cả người
dân trong xã đều biết tới lịch tập huấn nhưng mới chỉ có 61,67% số hộ tham gia tập
huấn. tỷ lệ những hộ áp dụng kỹ thuật sau khi được tập huấn mới chỉ ở mức trung
bình khá (59,46%). Kết quả của áp dụng kỹ thuật được người dân đánh giá ở mức
khá và tốt là 81,67% số hộ. Tiếp cận hoạt động xây dựng và nhân rộng MHTD: là
hoạt động mà số hộ dân tiếp cận thấp nhất mới chỉ có 55% hộ nông dân được biết
về hoạt động xây dựng MHTD, nhưng chỉ mới có 16,67% hộ tham gia xây dưng
MH. Còn với hoạt động nhân rộng MHTD mới chỉ có 26,67% số hộ biết và tham
5
gia các chuyến tham quan hội thảo đầu bờ.Tiếp cận hoạt động thông tin tuyên
truyền: là hoạt động mà người dân được tiếp cận với mức độ cao nhất, phần đa hộ
đều tiếp cận thông tin tuyên truyền qua kênh truyền thanh của xã, thôn. Hộ đều áp
dụng những kiến thức về khuyến nông mà hộ được tiếp cận. Tiếp cận tư vấn và dịch
vụ nông nghiệp: hoạt động tư vấn hiện tại vẫn hoạt động chưa đúng mục đích của
nó, nó chỉ hoạt động nhằm hỗ trợ cho dịch vụ cung cấp giống, thuốc BVTV và vật
tư của HTX nông nghiệp. Với các dịch vụ nông nghiệp, HTX cung cấp 4 dịch vụ và

phần đa các hộ đều sử dụng cả 4 dịch vụ mà HTX cung cấp. Trong 4 hoạt động thì
hộ đánh giá mức hài lòng cao nhất đối với hoạt động thông tin tuyên truyền, tiếp
theo là hoạt động tư vấn và dịch vụ khuyến nông, thứ 3 là hoạt động đào tạo & tập
huấn KT, cuối cùng là xây dựng & nhân rộng MHTD.
Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của
hộ nông dân tại xã Yên Thắng: (1) Đặc điểm của hộ bao gồm trình độ học vấn, giới
tính, lao động, quy mô sản xuất, điều kiện kinh tế của hộ; (2) Năng lực và trình độ
của CBKN; (3) Nguồn kinh phí cho các hoạt động khuyến nông; (4) Nội dung và
chất lượng hoạt dộng khuyến nông; (5) Điều kiện tự nhiên và điều kiện về kinh tế -
xã hội; (6) Chính sách của Nhà nước và địa phương. (7) Gợi ý cải thiện dịch vụ do
hộ đưa ra chủ yếu xoay quanh về các nội dung như: CBKN cần tiếp xúc với người
dân nhiều hơn, kiểm tra, giám sát khi người dân áp dụng các kỹ thuật vào sản xuất;
cung cấp tài liệu cho tất cả mọi người đều có thể dễ dàng đọc và dễ áp dụng các kỹ
thuật nông nghiệp; chủ đề, nội dung của các hoạt động cần đa dạng và phong phú
hơn; các khóa tập huấn cần được giảng trực tiếp và có thực hành; cần cung cấp
thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra cho quá trình sản xuất.
Để nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân tại xã
Yên Thắng, đề tài đề xuất một số giải pháp giúp nâng cao khả năng tiếp cận các
dịch vụ khuyến nông đề tài đề xuất một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng và
hiệu quả các giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn xã Yên Hòa như sau:
(1) Hoàn thiện tổ chức hệ thống khuyến nông; (2) Nâng cao nguồn lực cho hoạt
động khuyến nông; (3) Tăng kinh phí cho các hoạt động khuyến nông; (4) Tăng
cường và nâng cao chất lượng các hoạt động khuyến nông; (5) Nâng cao nhận thức
của người dân.
6
MỤC LỤC
Trang
7
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AD Áp dụng

BVTV Bảo vệ thực vật
CB Cán bộ
CBKN Cán bộ khuyến nông
CNTY Chăn nuôi thú y
ĐLCS Đường lối chính sách
DNNN Doanh ngiệp nông nghiệp
DVKN Dịch vụ khuyến nông
FAO Tổ chức nông lương liên hợp quốc
HKKT Khoa học kĩ thuật
HTX Hợp tác xã
KHTB Khoa học tiến bộ
KN Khuyến nông
KNV Khuyến nông viên
KNVSC Khuyến nông viên cơ sở
MH Mô hình
MHTD Mô hình trình diễn
NN & PTNT Nông nghiệp & phát triển nông thôn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
QM Quy mô
TTCN - CN - XD Tiểu thủ công nghiệp – Công nghiệp – Xây dựng
TTKN Trung tâm khuyến nông
UBND Uy ban nhân
8
DANH MỤC BẢNG
Trang
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
9
DANH MỤC HỘP
DANH MỤC SƠ ĐỒ
10

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong vòng gần ba thập kỷ trở lại đây Việt Nam luôn là những nước đứng
đầu về xuất khẩu lương thực của thế giới. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu,
tự cung, tự cấp, quy mô nhỏ, chúng ta đã vươn lên để dần dần trở thành một nước
có nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có tỷ suất
hàng hoá ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta đã trở
thành một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu gạo, cà phê, điều, tiêu, thuỷ hải
sản trên thị trường quốc tế (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2008). Để có được những
thành tựu đó thì không thể phủ nhận vai trò qua trọng của công tác khuyến nông với
sự phát triển của nên nông nghiệp Việt Nam.
Kể từ ngày 02/3/1993, khi Chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác
khuyến nông - khuyến ngư, hệ thống khuyến nông - khuyến ngư Việt Nam đã được
hình thành, củng cố và ngày càng phát triển một cách toàn diện. Khuyến nông
khuyến ngư đã tích cực chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới, đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ kỹ thuật, canh tác cho nông dân, chuyển tải
kịp thời mọi chủ trương, đường lối, chính sách phát triển sản xuất nông lâm ngư
nghiệp của Đảng và Nhà nước và thực sự đã góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh
mẽ về năng suất, chất lượng sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, góp phần đảm bảo
an ninh lương thực, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo và
sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Để giải quyết được
nhưng khó khăn, vướng mắc và nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sản xuất, khoa
học công nghệ và xu hướng hội nhập Chính phủ đã ban hành Nghị định
56/2005/NĐ-CP về khuyến nông, khuyến ngư và Nghị định 02/2010/NĐ-CP để làm
tăng tính hiệu quả của công tác khuyến nông, khuyến ngư.
Công tác khuyến nông, khuyến ngư có đạt được kết quả như mong muốn hay
không thì còn phải phụ thuộc vào khả năng tiếp cận về các dịch vụ khuyến nông của
hộ nông dân. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận về các dịch vụ khuyến nông giữa các hộ
nông dân là khác nhau. Có những hộ được tiếp cận khuyến nông một cách đầy đủ,
đây là những hộ được biết và tham gia tất cả các hoạt động của khuyến nông và áp

dụng được các kiến thức khuyến nông học được một cách hiệu quả. Có những hộ
11
tiếp cận khuyến nông một cách không hoàn toàn, đây là các hộ chỉ tham gia một vài
hoạt động và khả năng áp dụng các kiến thức đó có kết quả không cao. Vậy nguyên
nhân do đâu, có thể là do nhân lực khuyến nông cấp cơ sở còn thiếu và yếu, chưa
đáp ứng được nhu cầu của người dân; số nông dân được đi tập huấn, đào tạo và giáo
dục về kỹ năng phát triển sản xuất nông nghiệp, về thị trường và quản trị kinh
doanh còn hạn chế mà nguyên nhân là do việc tiếp cận đầy đủ các dịch vụ khuyến
nông rất khó khăn đối với hộ nông dân, đặc biệt là những hộ nghèo, ở một số nơi,
khuyến nông địa phương chỉ tham gia mang tính chất phối hợp chứ chưa đóng vai
trò chủ trì nên chưa phát huy được sự chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng và
nhân rộng mô hình; tính kịp thời và tính phù hợp của các dịch vụ khuyến nông chưa
cao; khả năng áp dụng các kỹ thuật mới vào thực tiễn sản xuất còn rất thấp. Thực
trạng này đòi hỏi hoạt động khuyến nông cần phải cải tiến hơn nữa, góp phần giúp
cho các hộ nông dân tiếp cận các dịch vụ khuyến nông.
Yên Thắng là một xã thuần nông nằm ở phía tây huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình,có địa hình không bằng phẳng, chủ yếu là vùng đồng bằng chiêm trũng và
vùng bán sơn địa với diện tích nhỏ ở phía tây nam. Hoạt động kinh tế chủ yếu của
người dân nơi đây đó là sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, công tác
khuyến nông được triển khai trên địa bàn khá tốt. Mặc dù vậy, khả năng tiếp cận các
dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân vẫn chưa được đầy đủ, chưa được đồng đều
giữa các hộ. Năm 2013, Yên Thắng đã thực hiện xong quy hoạch “thửa ruộng mẫu
lớn” theo tiêu chí số 1 về quy hoạch của “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới”. Song cơ cấu cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với việc
quy hoạch và việc sản xuất sao cho năng suất cao lại là một vấn đề khá nan giải.
Chính vì thế sự cần thiết trong đổi mới công tác khuyến nông của xã để nâng cao
khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông góp phần phát triển bền vững kinh tế nông
hộ, giúp hộ nâng cao được thu nhập đang là vấn đề cấp thiết đặt ra tại địa phương.
Vậy thực tế hiệu quả hoạt động khuyến nông của xã ra sao? Tình hình tiếp
cận các dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân ở xã như thế nào? Các dịch vụ

khuyến nông có đáp ứng được nhu cầu của hộ? Những nguyên nhân nào ảnh hưởng
tới khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ? Cần có những giải pháp gì giúp
tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân tại xã?
12
Xuất phát từ những lý do trên,tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và
giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân xã
Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân
trên địa bàn xã Yên Thắng, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận
dịch vụ khuyến nông, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng
tiếp cận dịch vụ khuyến nông cho hộ nông dân xã.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông
của hộ nông dân;
- Đánh giá thực trạng khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân xã
Yên Thắng;
- Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp dịch vụ khuyến nông của hộ
nông dân xã Yên Thắng;
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ
nông dân xã Yên Thắng trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tương nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông
của hộ nông dân và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông
dân tại xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Chủ thể nghiên cứu của đề tài là hộ nông dân, cán bộ khuyến nông của xã và
các cơ sở cung cấp dịch vụ khuyến nông trên địa bàn xã, các dịch vụ khuyến nông
như: Chuyển giao kỹ thuật, tập huấn, giới thiệu cây trồng vật nuôi mới cho năng

suất cao,
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến
nông của hộ nông dân, đề tài giới hạn nghiên cứu các dịch vụ khuyến nông do Trạm
13
khuyến nông của huyện cug cấp. Nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao khả năng
tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân tại xã Yên Thắng, huyện Yên Mô,
tỉnh Ninh Bình.
1.3.2.2 Phạm vi không gian
Đề tài được thực hiện trên phạm vi xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình.
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
- Số liệu thứ cấp: Đề tài nghiên cứu trong 3 năm từ năm 2011 đến 2013.
- Số liệu sơ cấp được thu thập qua khảo sát, phỏng vấn các đối tượng trong
năm 2014.
- Thời gian thực tập đề tài: Bắt đầu từ ngày 20 tháng 05 năm 2014 đến ngày
28 tháng 11 năm 2014.
14
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Dịch vụ khuyến nông
a) Khuyến nông
Khuyến nông là một thuật ngữ khó có thể xác định một các chính xác được.
Vì ở mỗi quốc gia khác nhau, mỗi địa phương khác nhau lại có các đối tượng tham
gia vào khuyến nông khác nhau, với tổ chức bằng nhiều cách để phục vụ những
mục đích khác nhau.
Theo nghĩa Hán - Văn: “Khuyến” có nghĩa là khuyên người ta cố gắng sức

trong công việc, còn “khuyến nông” là khuyến mở mang phát triển trong nông
nghiệp.
Theo tổ chức FAO (1987) “Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến
trình của sự hòa nhập các kiến thức KHKT hiện đại. Các quan điểm kỹ năng để
quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương sử dụng
các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự hỗ trợ giúp đỡ từ bên ngoài để có khả năng vượt
qua các trở ngại gặp phải”.
Còn theo Malla (1988) thì khuyến nông khuyến lâm là làm việc với nông
dân, lắng nghe những khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự quyết định lấy vấn đề
chính của họ.
Theo Adams thì khuyến nông là vật tư cho nông dân giúp họ tìm ra những khó
khăn trở ngại trong cuộc sống và sản xuất, đồng thời đề ra những giải pháp khắc
phục. Khuyến nông còn giúp cho nông dân nhận biết được cơ hội của sự phát triển.
Theo Maunder thì khuyến nông như là một dịch vụ hay một hệ thống giúp
cho người dân hiểu biết phương pháp canh tác, kỹ thuật cải tiến tăng hiệu quả sản
xuất và thu nhập. Làm cho mức sống của họ tốt hơn và nâng cao giáo dục trình độ
của nông dân.
Ở Việt Nam, năm 2000 cục khuyến nông Việt Nam đã tổng hợp nhiều khái
niệm khuyến nông của các quốc gia, các tác giả và đức kết từ những thực tiến hoạt
động khuyến nông như sau: “Khuyến nông là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề
15
cho người nông dân, đồng thời giúp cho họ hiểu được chủ trương, chính sách về
nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm về quản lý kinh tế, những
thông tin về quản lý thị trường, để họ có đủ khả năng để giải quyết được các vấn đề
của gia đình và cộng đồng nhằm cải thiện cuộc sống, nâng cao dân trí, góp phần xây
dựng và phát triển nông thôn mới” (Nguyễn Văn Long, 2006).
Khuyến nông cần trả lời ba câu hỏi: Làm gì? Đạt mục đích gì? Làm bằng
cách nào?
Như vậy: Khuyến nông là cách giáo dục không chính thức, một quy trình vận
động mọi hoạt động nhằm truyền bá những kiến thức về KTTB, công nghệ mới cho

người dân, đồng thời cung cấp cho họ những thông tin về cuộc sống, chủ trương,
chính sách, đường lối của Nhà nước và những hoạt động tập huấn luyện tay nghề
cho nhân dân, để những kiến thức, những hiểu biết này giúp cho người dân có khả
năng tự giải quyết những vấn đề của họ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao
thu nhập, cải thiện mức sống, nâng cao trình độ dân trí trong đời sống nông thôn để
đạt được hai mục tiêu phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn.
b) Dịch vụ khuyến nông
Dịch vụ khuyến nông là một loạt các hoạt động được thực hiện bởi các cơ
quan Nhà nước và các bên liên quan khác với mục tiêu cung cấp các dịch vụ chuyển
giao kiến thức và các kiến thức kỹ thuật sản xuất nông nghiệp cho nông nghiệp cho
nông thôn, góp phần giúp cho họ cải thiện năng xuất lao động, nâng cao đời sống
vật chất cũng như tinh thần góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Khuyến
nông xuất phát từ nhu cầu sản xuất và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành
nông nghiệp, thông qua việc thông tin tuyên truyền; đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn;
xây dựng mô hình và chuyển giao các KHTB trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, cơ khí, bảo quản chế biến, thủy nông và ngành nghề
nông thôn. Qua đó hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.
Dịch vụ nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông
nghiệp. Theo cơ chế mới thì hộ nông dân là hộ kinh tế tự chủ, tự do kinh doanh trên
mảnh đất của mình. Chính vì thế dịch vụ khuyến nông lại càng có ý nghĩa hơn, nó
giúp cho người nông dân áp dụng được KHTB vào trong quá trình sản xuất, định
16
hướng nhu cầu của thị trường về sản phẩm nông nghiệp và giúp nâng cao năng lực
cạnh tranh của nông dân trong sản xuất kinh doanh.
2.1.1.2 Tiếp cận dịch vụ khuyến nông
Theo “Từ tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học hội Việt
Nam thì tiếp cận vừa là một danh từ vừa là một động từ với các nghĩa như ở gần, ở
cạnh, đến gần, có sự tiếp xúc, hoặc là từng bước, bằng các phương pháp nhất định,
để tìm hiểu một đối tượng trong hệ thống nhất định.
Tiếp cận là sự cần thiết của một hệ thống. Mỗi hệ thống (Hệ thống nên kinh

tế, hệ thống cây trồng, vật nuôi, hệ thống khuyến nông) đều có một cấu trúc tổ chức
riêng, có sự lãnh đạo, có nguồn nhân lực, trang thiết bị và cơ sở vật chất. Nó cũng
có chương trình hoạt động với mục tiêu, phương pháp, kỹ thuật thực hiện. Nó cũng
có liên kết với các tổ chức khác, các cộng đồng dân cư và cũng như các đối tượng
mà nó phục vụ (Đỗ Kim Chung, 2011).
Vậy nên tùy theo vào mục đích, lĩnh vực nghiên cứu mà nó lại có các hướng
tiếp cận khác nhau, chẳng hạn như tiếp cận giới, tiếp cận thị trường, tiếp cận tín
dụng, tiếp cận khuyến nông…
Tiếp cận dịch vụ khuyến nông là sự thiết yếu của hệ thống khuyến nông,
bao gồm các hoạt động nhằm tìm hiểu, nắm bắt thông tin về dịch vụ khuyến nông
cũng như điệu kiện và phương thức để thiết lập mối quan hệ để cung cấp dịch vụ
với các tổ chức hoặc cơ quan khuyến nông tại một khu vực hay một địa phương nào
đó. Sự tiếp cận diễn ra theo hai hướng ngược chiều nhau, từ cơ quan khuyến nông
đến người dân và ngược lại. Trong đó cơ quan cung cấp dịch vụ khuyến nông là
người sở hữu lượng giá trị và nông hộ chính là người có nhu cầu sử dụng các dịch
vụ này (Phạm Tài Thắng, 2009).
2.1.1.3 Khái niệm hộ nông dân
Từ các khái niệm về hộ gia đình mà nhiều nhà kinh tế - xã hội như Frank
Ellis (1993); A.V Traianop (1996), Lê Đình Thắng (1993) khi nghiên cứu trong
nông nghiệp đều thống nhất rằng hộ nông dân là các hộ gia đình làm sản xuất nông
nghiệp và có những đặc trưng sau:
- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất chính là nông
nghiệp, nguồn thu nhập, sinh sống chính bằng nghề nông. Ngoài hoạt động nông
17
nghiệp hộ nông dân còn tham gia hoạt động phi nông nghiệp (như tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ…)
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn
vị tiêu dùng, đó là điều khẳng định. Tuy vậy kinh tế hộ nông dân thường nằm trong
hệ thống kinh tế lớn hơn, chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị
trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao.

Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị kinh tế độc lập tuyệt đối và
toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào nền kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Khi
trình độ phát triển lên mức cao của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thị trường xã hội
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều
hơn vào hệ thống kinh tế mở rộng và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ
thuộc nhiều hơn vào hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vị một vùng,
một nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình
hình hiện nay.
2.1.1.4 Khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân
Khả năng tiếp cận là một thuật ngữ dùng để nói đến việc tạo ra những điều
kiện thuận lợi, dễ dàng nhất giúp cho các nhóm người dân khác nhau có thể sử dụng
được một dịch vụ nào đó. Khả năng tiếp cận bao gồm nhận thức, kỹ năng và thái độ
của người dân đối với dịch vụ đó.
Để tiếp cận được các dịch vụ khuyến nông, người nông dân cần có đủ 3 điều
kiện: điều kiện tự nhiên, điều kiện vật chất và điều kiện tri thức (bao gồm cả kiến
thức, kỹ năng và nhận thức). Ở các quốc gia, các vùng sinh thái khác nhau khả năng
tiếp cận của người dân cũng khác nhau.
Không chỉ trong các dịch vụ khuyến nông, trong các dịch vụ khác để có thể
tiếp thu những kiến thức, thông tin, khoa học kỹ thuật thì chủ thể phải có những
điều kiện thuận lợi để tiếp nhận, sử dụng các dịch vụ đó một cách có hiệu quả nhất.
Do vậy, khả năng tiếp cận đóng một vai trò rất quan trọng, nó là mắt xích quyết
định sự thành công của người nông dân.
Khi tiếp cận dịch vụ khuyến nông, người nông dân cần có những điều kiện
về tự nhiên, cơ sở vật chất và tri thức. Tùy thuộc vào từng vùng khác nhau thì người
dân cũng có các điều kiện tiếp cận khác nhau. Có được điều kiện tự nhiên thuận lợi
18
thì người nông dân có thể tiếp cận với các dịch vụ khuyến nông một cách dễ dàng
hơn. Điều kiện cơ sở vật chất và tri thức là yếu tố mà người nông dân luôn thiếu.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây điều kiện về cơ sở vật chất ngày càng được nâng
cao cùng với sự phát triển của xã hội thì nhiều hộ đã được tập huấn về các kỹ thuật

về trồng trọt, chăn nuôi, được tiếp cận với các thông tin đại chúng ngày càng nhiều.
Khi sự tiếp cận của người dân tới các dịch vụ khuyến nông được dễ dàng thì họ sẽ
hiểu hơn, nhận thức rõ hơn vai trò, tầm quan trọng của khuyến nông. Nông dân từ
việc chưa nhận thức được thì nay họ đã nhận thức rõ được tầm quan trọng các kiến
thức khoa học kỹ thuật, những nguồn thông tin về thị trường nông sản… Và họ đã
tiếp nhận chúng và mong muốn làm thay đổi điều kiện sống của mình, đưa cuộc
sống của mình ngày càng được nâng cao. Sau khi học tập và thử nghiệm, họ sẽ tự
đánh giá, đúc rút kinh ngiệm cho chính bạn thân mình và họ sẽ chính là người vận
dụng, chia sẻ, trao đổi những kiến thức đó một cách có hiệu quả nhất.
2.1.2 Vai trò của tiếp cận dịch vụ khuyến nông
Trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân thì tiếp cận
khuyến nông cũng có vai trò quan trọng. Vai trò đó thể hiện như sau:
- Tiếp cận DVKN giúp người nông dân biết được KHKT và công nghệ mới, giúp họ
hiểu được nó và áp dụng chúng vào trong đời sống sản xuất được tốt hơn.
- Giúp nông dân nâng cao được kiến thức và tiếp cận các nguồn thông tin phục vụ
cho đời sống sản xuất và phát triển kinh tế.
- Tiếp cận DVKN làm cho nông dân được đào tạo và nâng cao tay nghề sản xuất
nông nghiệp. Giúp họ tăng khả năng tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập cho lao
động ở nông thôn.
- Người nông dân xóa đói giảm nghèo một cách bền vững. Do tiếp cận DVKN hỗ trợ
sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi giống cây trồng vật
nuôi, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản, phát triển kinh tế, tạo điều
kiện để nông dân thoát nghèo.
- Giúp người nông dân định hướng sản xuất một cách bền vững và thân thiện với môi
trường sống và cộng đồng.
19
2.1.3 Nội dung tiếp cận dịch vụ khuyến nông của hộ nông dân
2.1.3.1 Nhận thức của hộ nông dân về vai trò của khuyến nông và khả năng tiếp
cận với cán bộ khuyến nông
Chúng ta biết rằng, vai trò của khuyến nông quan trọng trong phát triển

sản xuất nông nghiệp. Nhưng nhận thức của hộ nông dân về vai trò của khuyến
nông như thế nào? Họ có biết được khuyến nông giúp cho hộ thay đổi được phương
thức sản xuất lạc hậu, kém hiệu quả, giúp họ tăng năng xuất cây trồng, vật nuôi, đưa
những giống mới vào sản xuất, đưa những kỹ thuật mới vào trong sản xuất,…Khả
năng tiếp cận với CBKN của hộ như thế nào? Họ có gặp được CBKN khi họ cần, họ
có được tư vấn thường xuyên không? Để đánh giá được nhận thức của hộ về vai trò
của khuyến nông và khả năng tiếp cận với CBKN ra sao thì cần quan tâm tới số
lượng hộ nhận thức được và đúng về vai trò của khuyến nông; số lượng hộ được
tiếp cận với CBKN.
2.1.3.2 Tiếp cận về đào tạo và tập huấn kỹ thuật
Chúng ta biết rắng, đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho hộ nông dân là một
trong những hoạt động quan trọng của công tác khuyến nông. Nó chính là hoạt động
nhằm giúp cho người nông dân được tiếp cận, được chuyển giao các tiến bộ kĩ thuật
mới và chính sách của Nhà nước về khuyến nông. Qua đó, giúp cho người nông dân
biết được các kỹ thuật mới và áp dụng nó trong sản xuất, giúp họ thay đổi đươc tập
quán sản xuất lạc hậu, kém hiệu quả, nâng cao thu nhập, nâng cao sinh kế cho hộ
nông dân.
Để đánh giá mức độ tiếp cận về hoạt động đào tạo, tập huấn kỹ thuật chúng ta
cần quan tâm đến thực trạng tiếp cận hoạt động đào tạo và tập huấn kỹ thuật bao
gồm một số nội dung sau: số hộ biết về đào tạo, tập huấn kỹ thuật ; số hộ tham gia
các lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật; lý do tham gia, lý do hộ khuông tham gia là gì,
chủ đề tập huấn; và khả năng áp dụng các kiến thức đó vào thực tế sản xuất của hộ.
Và đánh giá của hộ về hoạt động đào tạo và tập huấn kỹ thuật trên địa bàn thì bao
gồm các nội dung như về nội dung của buổi tập huấn có cần thiết không; thời gian
của buổi tập huấn như thế nào? Đánh giá của hộ về phương pháp tập huấn, về ứng
xử của CBKN; các hộ có được phát tài liệu không và nó có dễ hiểu không?
20
2.1.3.3 Tiếp cận hoạt động xây dựng và mở rộng mô hình
Hoạt động này bao gồm 2 hoạt động nhỏ khác đó là xây dựng MHTD và
tham qua, hội thảo đầu bờ. Đây là hoạt động mang tính thuyết phục cao đối với hộ

nông dân.
a) Hoạt động xây dựng mô hình trình diễn
Khi chuẩn bị đưa một TBKT vào sản xuất đại trà, cần phải kiểm nghiệm
thực tế xem TBKT đó có phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, thời tiết khí hậu
của địa phương hay không. Quá trình kiểm nghiệm đó là hoạt động xây dựng mô
hình trình diễn.
Để đánh giá mức độ tiếp cận về hoạt động xây dựng MHTD thì cần quan
tâm tới thứ nhất là về thực trạng tiếp cận hoạt động xây MHTD bao gồm các nội
dung sau: số hộ hiểu MHTD, số hộ tham gia các MHTD, lý do hộ tham gia và
không tham gia là như thế nào, kết quả của các mô hình và khả năng áp dụng của
MH ra đồng trà. Thứ hai là đánh giá hoạt động xây dựng MHTD bao gồm các nội
dung sau: nội dung của MHTD có phù hợp với nhu cầu, đặc điểm kinh tế xã hội của
địa phương hay không và tính kịp thời hay không? Cán bộ khuyến nông có thường
xuyên kiểm tra giám sát trong quá trình MH được thì điểm, khả năng áp dụng của
MH ra động trà tại địa phương.
b) Hoạt động tham quan, hội thảo đầu bờ
Hội nghị đầu bờ là buổi họp và thảo luận trực tiếp và các người dự hội nghị
trực quan cây đang trồng, tất cả đều ngồi ngay trên đầu bờ đám ruộng để thảo luận
vấn đề khoa học kỹ thuật đang áp dụng cho đám ruộng đang trồng để rút ra ưu
điểm, khuyết điểm để có kinh nghiệm và phổ biến cho nông dân. Đám ruộng ấy
đang được làm thí điểm. Cuộc hội nghị ấy ở trên đầu bờ ruộng, không có ghế, trực
tiếp quan sát cây đang trồng và thảo luận.
Đánh giá mức độ tiếp cận hoạt động tham quan hội thảo đầu bờ cần chú ý tới
thực trạng tiếp cận hoạt động tham quan, hội thảo đầu bờ bao gồm những nội dung
sau: Số hộ biết về các cuộc hội thảo đầu bờ tổ chức ở địa phương; số hộ tham gia
các chuyến tham quan, hội thảo, lý do họ tham gia, lý do các hộ không tham gia là
gì? Đánh giá về hoạt động tham quan hội thảo đầu bờ bao gồm các nội dung sau:
21
nội dung của hội thảo có hữu ích không? Đánh giá của hộ về khả năng áp dụng
những MH, kỹ thuật mới học được từ hội thảo, lý do không áp dụng là gì?

2.1.3.4 Tiếp cận hoạt động thông tin tuyên truyền
Thông tin tuyên truyền là hoạt động rất phổ biết và đa dạng về nguồn và
phương tiện hoạt động. Có thể nói đây là kênh tuyên truyền có tính lan truyền cao
và có hiệu quả. Thông tin tuyên truyền thường dùng các phương tiện như: Đài phát
thanh ở các địa phương tiếp cận về thông tin tuyên truyền thì cần tìm hiểu các nội
dung như: Thông tin thường được người dân tiếp cận qua các phương tiện nào?
Để đánh giá được khả năng tiếp cận thông tin tuyên truyền cần quan tâm tới
thực trạng tiếp cận hoạt động thông tin tuyên truyền bao gồm các nội dung sau: số
hộ được tiếp cận thông tin khuyến nông; hộ nghe thông tin khuyến nông từ ai? Tần
suất nghe thông tin có thường xuyên hay không; phương tiện hộ theo dõi thông tin;
chủ đề của các thông tin khuyến nông; thời gian nghe thông tin; số lượng hộ áp
dụng những thông tin đó. Đánh giá của hộ về hoạt động thông tin tuyên truyền bao
gồm các nội dung: đánh giá về tính kịp thời của thông tin, nội dung có phù hợp hay
không? Cách truyền đạt thông tin có dễ hiểu không? Số lượng thông tin như thế
theo hộ đã đáp ứng được nhu cầu của hộ, họ cần thêm những thông tin gì cho qua
trình sản xuất.
2.1.3.5 Tiếp cận hoạt động tư vấn và dịch vụ nông nghiệp
Đây là hoạt động tư vấn cho nông dân những thông tin mà họ có nhu cầu, và
cung cấp các dịch vụ mà người nông dân cấn cho quá trình sản xuất như: dịch vụ
thuỷ lợi, dịch vụ làm đất, dịch vụ giống cây trồng và dịch vụ thuốc bảo vệ thực vật
và vật tư nông nghiệp.
Đánh giá tiếp cận hoạt động tư vấn và dịch vụ nông nghiệp cần qua tâm đến
thực trạng tiếp cận hoạt động tư vấn và dịch vụ nông nghiệp bao gồm các nội dung
sau: số hộ tham gia các dịch vụ và tư vấn khuyến nông, lý do họ tham gia, và họ
không tham gia là do đâu, dịch vụ khuyến nông nào được sử dụng nhiều nhất. Đánh
giá của hộ về chất lượng các dịch vụ khuyến nông mà họ sử dụng, số dịch vụ đó có
đáp ứng nhu cầu sản xuất của hộ không? họ cần thêm những dịch vụ nào cho quá
tình sản xuất của mình?
22
2.1.3.6 Đánh giá của hộ nông dân về các dịch vụ khuyến nông tại xã

Từ tìm hiểu thực trạng tiếp cận các hoạt động khuyên nông, đánh giá của hộ
về các hoạt động cho thấy được mức độ tiếp cận của hộ với các hoạt động như thế
nào. Từ đó hộ sẽ đánh giá cho điểm về mức hài lòng đối với các hoạt động như thế
nào? Hoạt động nào hộ đánh giá ở mức cao nhất và lý do tại sao, hoạt động nào
được đánh giá ở mức thập nhất.
2.1.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông của
hộ nông dân
2.1.4.1 Đặc điểm của hộ
- Trình độ học vấn là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc tiếp cận DVKN của
hộ. Trình độ của chủ hộ và các thành viên trong hộ thể hiện qua nhận thức về
HKKT, qua kiến thức kinh tế, thị trường, xã hội, môi trường do khuyến nông cung
cấp.
- Giới tính: đây cũng là yếu tố phần nào ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận DVKN.
Thường thì những chủ hộ là nam giới thì thường mạnh dạn hơn những chủ hộ là nữ.
Nam giới họ thường quyết đoán và mạo hiểm hơn giám làm giám chịu, còn nữ giới
thì thường thận trọng hơn, không giám mạo hiểm. Như vậy những chủ hộ là nữ thì
khả năng tiếp cận DVKN sẽ gặp khó khăn hơn, đặc biệt là việc áp dụng mô hình sản
xuất mới.
- Lao động: đây là một đầu vào quan trọng trong quá tình sản xuất hộ, số lao động và
độ tuổi lao động cũng ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận dich vụ khuyến nông như
khả năng tiếp thu được khoa học tiến bộ không, số lượng lao động có phù hợp để hộ
áp dụng những kỹ thuật vào sản xuất.
- Quy mô sản xuất: hay nói các khác là về đất đai sử mà hộ sử dụng để sản xuất cũng
ảnh hưởng tới tiếp cận của hộ, hộ phải lựa chọn những tiến bộ khoa hoặc phù hợp
với quy mô của hộ đang có, với những hộ có quy mô sản xuất nhỏ nó sẽ hạn chế
việc hộ tiếp cận và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
- Điều kiện kinh tế của hộ: Hiện nay công các khuyến nông mới chỉ tập trung chủ yếu
vào những đối tượng có điều kiện, còn những người nghèo, vùng đồng bào dân tộc,
vùng sâu vùng xa vẫn khó tiếp cận (Vi Thị Nguyệt, 2013).
23

2.1.4.2 Trình độ và năng lực của cán bộ khuyến nông
Trình độ và năng lực của cán bộ khuyến nông thể hiện qua hiểu biết về kiến
thức, kỹ năng giao tiếp và hành vi ứng xử của họ với người dân. Cán bộ khuyến
nông có hiểu biết sâu rộng không chỉ vè kỹ thuật, về thị trường, về chính sách, môi
trường, xã hội…thì mới có thể giải đáp những thắc mắc hay là tư vấn cho người dân
trong lĩnh vực nông nghiệp mọi lúc khi nông dân cần, thêm vào nữa là sự nhiệt tình,
sông sáo trong công việc, thân thiện với nông dân thì khả năng tiếp cận các dịch vụ
khuyến nông của hộ nông dân sẽ được thận lợi hơn.
2.1.4.3 Nguồn kinh phí cho hoạt động khuyến nông
Mỗi hoạt động khuyến nông được đề ra, muốn đi vào thực hiện thì luôn cần
phải có kinh phí cho hoạt động đó. Nguồn kinh phí này để mua sắp trang thiết bị
phục vụ cho hoạt động, chi trả cho lương và phụ cấp của cán bộ khuyến nông.
Nguồn kinh phí mà được phân bổ chậm và ít thì việc triển khai các dịch vụ khuyến
nông tới bà con nông dân cũng bị đình trệ lại, dẫn tới việc tiếp cận các dịch vụ
khuyến nông của hộ cũng giảm sút. Cũng như thế với lương và phụ cấp cho cán bộ
khuyến nông không phù hợp với công việc của họ làm, dẫn tới các CBKN không
nặm mà với công việc, không nhiệt tình làm cho chất lượng dịch vụ bị giảm sút, ảnh
hưởng đến khả năng tiếp cận của hộ.
Ngoài ra, vốn là nhân tố quan trọng cần thiết cho sản xuất, các chương trình
khi được triển khai tới các hộ dân, họ cũng rất cần vốn để đưa KTTB mới vào sản
xuất, để thực hiện các MHTD. Khi nguồn kinh phí đầu tư cao, các dịch vụ sẽ được
cung cấp nhiều, rộng, có chất lượng và ngược lại (Lương Tiến Khiêm, 2008).
2.1.4.4 Nội dung và chất lượng của dịch vụ khuyến nông
Các chương trình, dự án, hoạt động khuyến nông phải xuất phát từ nhu cầu
của người nông dân, phải phù hợp với khả năng và điều kiện địa phương của họ. Có
như vậy thì mới thu hút được sự tham gia của hộ, chất lượng của dịch vụ cũng phải
được đảm bảo với sự tham gia của các CBKN có kinh nghiệp, chuyên môn sâu về
nội dung đó, trang thiết bị, vật tư cho hoạt động phải đầy đủ và có tính thuyết phục
cao đối với hộ.
2.1.4.5 Đặc điểm về đất đai và địa hình

Đặc điểm về đất đai và đại hình có ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận của hộ.
Các vùng trung du, miền núi do điều kiện địa hình phức tạp, làm cho việc đưa các
24
máy móc, trang thiết bị phục vụ cho sản xuất, việc triển khai các hoạt động khuyến
nông phù hợp với đăc điểm này gặp nhiều khó khăn. Do đó kết quả của chương
trình khuyến nông không đạt hiệu quả. Vì thế nên khả năng tiếp cân với các hoạt
động khuyến nông của người dân bị giảm xuống
2.1.4.6 Chính sách về khuyến nông của Nhà nước
Chính sách của Nhà nước về khuyến nông ban hành nhằm mục địch chỉ rõ
được nội dung của từng hoạt động khuyến nông là gì? Ai là người tham gia thực
hiện? Ai là người hưởng thụ? Tổ chức thực hiện, nhiệm vụ của các bên như thế nào?
Các chính sách của Nhà nước về khuyến nông được ban hành được tuyên
truyền phổ biến xuống cấp cơ sở. Việc thực hiện chính sách khuyến nông chính là cụ
thể hóa nội dung chính sách, triển khai thực hiện các hoạt động khuyến nông tại đại
phương. Các cơ quan triển khai thực hiện chính sách theo cấu trúc ngành dọc từ
Trung tâm khuyến nông quốc gia đến trung tâm khuyến nông tỉnh/thành phố đến
Trạm khuyến nông huyện/thị xã đến khuyến nông viên cơ sở và cộng tác viên
khuyến nông của các thôn. Bên cạnh đó có sự phối hợp giữa các cơ quan trong và
ngoài ngành. Chính sách khuyến nông được thực hiện dựa trên phương pháp có sự
tham gia của người dân. Người dân là đối tượng hưởng thụ chính của việc thực hiện
chính sách khuyến nông. Việc phát huy sự tham gia của người dân trong thực hiện
chính sách là rất quan trọng. Nội dung của Chính sách khi được triển khai phải phù
hợp với nhu cầu của người dân. Có như vậy thì việc thực hiện chính sách mới nâng
cao khả năng tiếp cận các dịch vụ khuyến nông và hiệu quả của các hoạt động
khuyến nông, đồng thời tăng vai trò của người dân trong thực hiện chính sách sẽ
phát huy được nguồn lực của cộng đồng và nên làm cho cộng đồng phát triển bền
vững.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Chính sách của Nhà nước về khuyến nông
Ngày 02/3/1993 chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác khuyến

nông – khuyến ngư, hệ thông khuyến nông – khuyến ngư Việt Nam đã được hình
thành và phát triển, nhưng công tác khuyến nông vẫn gặp không ít những khó khăn,
vướng mắc, chưa đáp ứng được với nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nhà sản xuất,
khoa học công nghệ và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế… Ngày 18 tháng 7 năm
2003 Chính phủ ban hành Nghị định 86/CP cho phép tách Cục Khuyến nông và
Khuyến lâm thành hai đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp-PTNT. Ngày 26/4/2005
25

×