Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY HỢP DANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.8 KB, 19 trang )

A. PHẦN MỞ BÀI:
Là một hình thức công ti ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người, công ti hợp danh bao giờ
cũng được nhắc tới trước tiên trong các đạo luật hay các công trình ngiên cứu về công ti. Luật
Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005 số 60/2005/QH 11 và bắt đầu có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2006.
Bao gồm 172 điều do chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã ký. Trong đó công ty hợp danh được
quy định rất rõ ràng và chi tiết. Trong phạm vi bài làm trên, dựa trên những tìm hiểu về Luật
doanh nghiệp 2005, xin đưa ra một số bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 về
công ty hợp danh.
B. PHẦN THÂN BÀI:
PHẦN 1: Công ty hợp danh trong Luật doanh nghiệp 2005
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY HỢP DANH THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP NĂM 2005:
1. Khái niệm công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp năm 2005:
Luật Doanh nghiệp 2005 không đưa ra định nghĩa khái quát về công ty hợp danh mà xây
dựng khái niệm về công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm của công ty hợp danh
( Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005). Theo đó, công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới
một tên chung ( sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có
thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty.
Có thể thấy, khái niệm công ty hợp danh ở Việt Nam tương đối rộng. Căn cứ vào tính chất
thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2005
được chia ra làm hai loại, bao gồm: công ty hợp danh chỉ có các thành viên hợp danh và công ty
hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
2. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp năm 2005:
Theo Luật doanh nghiệp 2005, công ty hợp danh là doanh nghiệp thỏa mãn các đặc trưng
pháp lý cơ bản sau đây:


Thứ nhất, về thành viên công ty. Công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh là
chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, ngoài các thành viên
hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Công ty hợp danh ở Việt Nam có thể chỉ có một loại
thành viên duy nhất là thành viên hợp danh hoặc có cả thành viên hợp danh và thành viên góp
vốn. Theo quy định hiện hành, công ty hợp danh dù có một hay hai loại thành viên đều phải có
ít nhất hai thành viên hợp danh. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 không quy định số lượng
tối thiểu các thành viên góp vốn.
Thứ hai, về chế độ chịu trách nhiệm. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới
và vô hạn với mọi khoản nợ của công ty – chế độ trách nhiệm vô hạn còn thành viên góp vốn
được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trong
phạm vi phần vốn đã cam kết góp vào công ty. Những công ty hợp danh có thành viên góp vốn
sẽ tồn tại hai chế độ chịu trách nhiệm trong công ty. Đây là điểm khác biệt cơ bản và rõ ràng
nhất để phân biệt công ty hợp danh với các loại hình công ty khác khi mà các công ty đó luôn
luôn tồn tại một chế độ trách nhiệm chung và duy nhất cho toàn bộ các thành viên trong công ty.
Liên quan đến vấn đề giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh,
Luật doanh nghiệp 2005 hiện đang có sự mâu thuẫn giữa điểm c khoản 1 Điều 130 với khoản 3
Điều 131 và khoản 2 Điều 140. Điểm c khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã
góp vào công ty” . Tuy nhiên, khoản 3 Điều 131 Luật doanh nghiệp năm 2005 lại quy định như
sau: “ Trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn
chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty” . Và điểm a khoản 2 Điều
140 Luật doanh nghiệp năm 2005 cũng quy định như sau: “ thành viên góp vốn có các nghĩa vụ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp”
Rõ ràng, các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 đã không nhất quán trong các quy
định về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh gây ra nhiều khó
khăn trong công tác áp dụng pháp luật.
Thứ ba, về chuyển nhượng phần vốn góp. Dù là một công ty đối nhân nhưng vấn đề vốn
trong công ty hợp danh cũng vẫn là một vấn đề quan trong. Không một tổ chức kinh tế nào có
thể tồn tài và hoạt động nếu thiếu vốn; dù ít dù nhiều, các tổ chức kinh tế cũng cần có vốn. Tuy

nhiên, tầm quan trọng và cách thức thể hiện ra bên ngoài của yếu tố vốn cũng khác nhau giữa
công ty đối nhân và công ty đối vốn. Đối với các công ty đối vốn, vốn góp là vấn đề quan trọng
bậc nhất nhưng với các công ty đối nhân như công ty hợp danh sự hùn vốn chỉ là thứ yếu.
Vốn của công ty hợp danh chính là số vốn mà các thành viên góp vào vốn điều lệ của công
ty. Trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật, số vốn điều lệ của công ty hợp danh ít
nhất cũng phải bằng số vốn pháp định. Công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại
chứng khoán nào đề huy vốn trong công chúng. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động của
mình, công ty hợp danh chỉ có thể huy động vốn điều lệ bằng cách tiếp nhận thành viên mới
hoặc tăng vốn góp của các thành viên.
Công ty hợp danh là công ty đối nhân; do đó, yếu tố nhân thân đóng vai trò chủ đạo. Khác
với các công ty đối vốn, tài sản góp vốn vào công ty hợp danh rất đa dạng không hoàn toàn chỉ
là những tài sản mang giá trị vật chất. Tài sản góp vào công ty hợp danh có thể là bí quyết công
nghệ, kinh nghiệm hay danh tiếng....Loại vốn góp đặc biệt này chỉ áp dụng đối với các thành
viên hợp danh. Ngoài phần vốn góp đặc biệt này còn có phần vốn góp mang tính truyền thống
của thành viên góp vốn như tiền, vàng..... Tài sản của công ty hợp danh bao gồm: Tài sản góp
vốn của các thành viên đã được chuyển quyền sở hữu cho công ty; tài sản tạo lập được mang tên
công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân
danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của công
2
ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện và các tài sản khác theo quy định
của pháp luật ( Điều 132 Luật doanh nghiệp 2005)
Vấn đề chuyền nhượng phần vốn góp giữa thành viên hợp danh và thành viên góp vốn cũng
khác nhau. Với thành viên góp vốn, việc chuyển nhượng phần vốn của họ rất dễ dàng và không
bị hạn chế. Quy định này là hoàn toàn hợp lý. Công ty hợp danh được thành lập dựa trên sự tin
cẩn lẫn nhau giữa các thành viên hợp danh. Giữa họ yếu tố nhân thân mới là quan trọng. Nếu
chấp nhận việc tự do chuyển đổi phần vốn góp của thành viên hợp danh sẽ dẫn đến tình trạng
các thành viên hợp danh còn lại buộc phải tiếp nhận một thành viên hợp danh mới mà mình
không hề quen biết cũng không hiểu rõ về nhân thân của người đó. Việc này đi ngược lại với
bản chất dối nhân của công ty hợp danh.
Thứ tư, về vấn đề phát hành chứng khoán. Hiện nay, theo quy định của Luật doanh nghiệp

2005, công ty hợp danh không được phép phát hành bất kì một loại chứng khoán nào. Khoản 3
Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “ Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ
loại chứng khoán nào” . Điều này bắt nguồn từ tính đối nhân của công ty hợp danh.
Đối với các công ty đối nhân nói chung và công ty hợp danh nói riêng, yếu tố nhân thân là yếu
tố được coi trọng hàng đầu. Người ta hợp tác với nhau, chấp nhận chế độ trách nhiệm vô hạn vì
họ tin tưởng lẫn nhau và đa phần là họ đã quen biết nhau từ trước. Sự hùn vốn trong công ty hợp
danh chỉ là thứ yếu. Nếu công ty phát hành cổ phiếu như công ty cổ phần, công ty hợp danh sẽ
có thêm nhiều chủ sở hữu, cùng có quyền quản lý công ty. Như vậy, tính chất “ đóng” của công
ty hợp danh không còn nữa. Hơn nữa, công ty hợp danh với chế độ trách nhiệm vô hạn của các
thành viên hợp danh rất dễ dàng vay vốn ngân hàng, thêm vào đó, công ty hợp danh là mô hình
công ty vừa và nhỏ. Vì vậy, công ty hợp danh không cần thiết phải huy động vốn bằng cách
phát hành chứng khoản. Tuy nhiên, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành
trái phiếu là không công bằng với loại hình công ty này. Nội dung pháp lý này có thể là phù hợp
trong ngữ cảnh của Luật doanh nghiệp 1999 khi mà ở thời điểm đó công ty hợp danh không
được thừa nhận là một pháp nhân. Khi luật doanh nghiệp 2005 đã thừa nhận công ty hợp danh là
một pháp nhân mà vẫn cấm công ty này phát hành các loại chứng khoán là vấn đề cần được bàn
luận.
Thứ năm , về tư cách pháp lý của công ty hợp danh. Khoản 2 Điều 130 Luật doanh nghiệp
2005 quy định: “ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh” . Quy định này thể hiện quan điểm mới của nhà làm luật được chuyển tải
trong Luật doanh nghiệp 2005 so với Luật doanh nghiệp 1999. Theo quy định của Luật doanh
nghiệp 1999, công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân. Gần 5 năm kể từ ngày Luật doanh
nghiệp 2005 có hiệu lực, vấn đề tư cách pháp nhân của công ty hợp danh vẫn là một vấn đề
được nhiều người quan tâm và bàn cãi.
Có quan điểm cho rằng, việc quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là không phù
hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2005. Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“ Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;

4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Một trong những yếu tố quan trọng của pháp nhân là phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Nhưng ở công ty hợp danh thì tài sản của
3
công ty không hoàn toàn độc lập với tài sản của các thành viên hợp danh do chế độ trách nhiệm
vô hạn mà các thành viên này phải chịu. Trong trường hợp tài sản của công ty hợp danh không
đủ để hoàn thành nghĩa vụ của mình thì các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm trả nợ
thay cho công ty bằng toàn bộ tài sản của mình. Với tư duy tiếp cận như vậy, quan điểm này cho
rằng không có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và thành viên công ty cụ thể là thành viên
hợp danh. Như thế, công ty hợp danh không thể là pháp nhân – quan điểm này không phải là
không có nhân tố hợp lý.
Quan điểm khác, lại cho rằng, việc công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là hoàn toàn hợp
lý và không có sự mâu thuẫn với khái niệm pháp nhân của Bộ luật dân sự 2005 bởi lý do sau
đây:
- Thứ nhất, công ty hợp danh có những thành viên phải chịu chế dộ trách nhiệm vô hạn
nhưng công ty vẫn có tài sản độc lập với những cá nhân, tổ chức khác. Tài sản của công ty hợp
danh bao gồm tài sản góp vốn của các thành viên đã chuyển quyền sở hữu cho công ty; tài sản
tạo lập được mang tên công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp
danh thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã
đăng kí của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện; các tài sản khác
theo quy định của pháp luật
- Thứ hai, thực tế cũng không có ảnh hưởng gì về lý luận pháp lý khi thừa nhận tư cách pháp
nhân của công ty hợp danh, vì Bộ luật dân sự là luật chung còn Luật doanh nghiệp là luật
chuyên ngành. Vì vậy, cũng có thể coi việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh
trong khi Luật doanh nghiệp 2005 vẫn quy định ít nhất hai thành viên chịu trách nhiệm vô hạn
là một ngoại lệ của Luật doanh nghiệp 2005 so với quy định về pháp nhân trong Bộ luật dân sự.
- Thứ ba, công ty hợp danh cũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý chí và trách
nhiệm. Điều đó cho thấy không thể quan niệm công ty hợp danh là một cái gì đó khác hơn pháp
nhân. Còn các thành viên của công ty xét về mặt pháp lý là những người bảo lãnh liên đới cho
các hoạt động của công ty. Hoàn toàn có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản của các

thành viên.
II. QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ THÀNH LẬP VÀ CHẤM DỨT HOẠT ĐỘNG CỦA
CÔNG TY HỢP DANH:
Việc thành lập công ty nói chung và công ty hợp danh nói riêng là quyền của công dân. Đó
là quyền tự do kinh doanh, tự do lập hội đã được pháp luật ghi nhận. Điều 57 Hiên pháp 1992
quy định : “ Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Theo Điều 69
Hiến pháp 1992, mọi công dân đều có quyền tự do lập hội theo quy định của pháp luật. Quyền
tự do kinh doanh, tự do lập hội.
1. Thành lập công ty hợp danh:
Đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp:
Theo tinh thần của Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005, mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam cũng
như nước ngoài đều có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam trừ những đối
tượng sau:
4
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước
để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ
những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp khác;
- Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
- Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực
hành vi dân sự;
- Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh;
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.
Xét về khía cạnh lập pháp, điểm e và g khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 đã có
những sửa đổi hợp lý hơn so với Luật doanh nghiệp 1999. Các nhà làm luật đã không liệt kê các
trường hợp không được thành lập và quản lý doanh nghiệp như trước, thay vào đó là sự dẫn

chiếu đến những quy định khác của pháp luật. Cách quy định như vậy vừa đảm bảo tính khái
quát, hợp lý vừa phù hợp với tình hình thực tiễn, tạo sự ổn định lâu dài cho Luật doanh nghiệp
và góp phần tạo nên sự thống nhất của toàn hệ thống pháp luật.
Đối tượng có quyền góp vốn vào công ty:
Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn vào công ty hợp danh theo quy định của Luật doanh
nghiệp trừ các trường hợp sau:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước
góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức.
Việc quy định các đối tượng có quyền thành lập và góp vốn doanh nghiệp theo phương pháp
loại trừ như Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong
việc nhận thức pháp luật để tiến hành thành lập doanh nghiệp đúng pháp luật. Việc hạn chế một
số đối tượng trong việc thành lập hay góp vốn vào doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi
ích của nhà nước, lợi ích của xã hội và của chính bản thân nhà đầu tư.
Với Luật doanh nghiệp 2005 dù không thường trú tại Việt Nam, cá nhân, tổ chức nước ngoài
cũng có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Thêm vào đó, việc pháp luật
quy định quyền thành lập, góp vốn của cả cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài cùng trong
một điều luật đã thể hiện rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước trong thời kì hội nhập. Mọi
cá nhân, tổ chức không phân biệt trong nước hay nước ngoài đều bình đẳng trong việc thành lập
và góp vốn vào doanh nghiệp.
Đăng ký kinh doanh:
Đăng ký kinh doanh là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho công ty ( thừa
nhận tư cách pháp lý của công ty ) và công ty sẽ được đảm bảo về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất
thủ tục đăng ký kinh doanh. Thành lập công ty là quyền của công dân và nhà nước chỉ quản lý,
kiểm soát hoạt động của công ty bắt đầu từ giai đoạn đăng ký kinh hdoanh. Theo luật doanh
5
nghiệp 2005, việc đăng kí kinh doanh được thực hiện tại cơ quan đăng kí kinh doanh thuộc ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi công ty đặt trụ sở chính. Với vai trò
là đạo luật chung cho tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần sở hữu khác nhau, Luật

doanh nghiệp 2005 đã đưa ra những quy nhằm thống nhất về thủ tục đăng kí kinh doanh.
Bước 1: Người thành lập công ty hợp danh phải lập và nộp đủ hồ sơ đăng kí kinh doanh tại
cơ quan đăng kí kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ.
Cơ quan đăng kí kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ.
Hồ sơ đăng kí kinh doanh của coongg ty hợp danh bao gồm:
- Giấy đề nghị đăng kí kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có
thẩm quyền quy định;
- Dự thảo Điều lệ công ty;
- Danh sách thành viên, bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá
nhân hợp pháp khác của mỗi thành viên;
- Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty hợp
danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định;
- Chứng chỉ hành nghề của thành viên hợp danh và cá nhân khác đối với công ty hợp danh
kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghê.f
Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định rõ ràng và cụ thể hồ sơ đăng kí kinh doanh cho mỗi loại
hình công ty. Điều này đã khiến việc lập hồ sơ của người có nhu cầu thành lập công ty nói
chung và công ty hợp danh nỏi riêng trở nên dễ dàng và đơn giản hơn.
Bước 2: Cơ quan đăng kí kinh doanh có trách nhiệm giải quyết việc đăng kí kinh doanh và
cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh trong thồi hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận
hồ sơ; nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì phải thông báo bằng văn bản
cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ
sung.
Công ty sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Ngành, nghề đăng ký kinh doanh không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh;
- Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của pháp luật;
- Có trụ sở chính theo quy định của pháp luật;
- Có hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005 về cơ bản cũng giống
với trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 1999. Tuy nhiên, Luật

doanh nghiệp 2005 đã rút ngắn thời gian xem xét hồ sơ của cơ quan đăng kí kinh doanh từ mười
lăm ngày xuống còn mười ngày. Điều này phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và
nhu cầu của nhà đầu tư. Nếu phải chờ đợi quá lâu có thể họ sẽ đánh mất cơ hội kinh doanh của
mình.
Bước ba: Công bố việc đăng kí kinh doanh. Đây là thủ tục bắt buộc được quy định tại Điều
28 Luật doanh nghiệp 2005. Công bố thông tin về sự ra đời và hoạt động của công ty là yêu cầu
không thể thiếu trong nên kinh tế thị trường. Thực chất, ngay từ khi đăng kí kinh doanh công ty
đã tự công khai hóa về mình. Khách hàng có thể xem trong sổ đăng kí kinh doanh để nắm bắt
các thông tin về công ti mà mình quan tâm. Tuy nhiên, để tránh mọi sự nhầm lẫn không đáng có
công ty sau khi đăng kí kinh doanh vẫn phải công bố thông tin trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
6
2. Chấm dứt hoạt động của công ty hợp danh:
Giải thể công ty hợp danh:
Giải thể công ty là thủ tục chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của công ty, xóa tên của công ty
trong sổ đăng kí kinh doanh. Công ty hợp danh nói riêng và mọi doanh nghiệp nói chung chỉ
được giải thể khi đảm bảo thanh toán được toàn bộ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác.
Các trường hợp giải thể:
- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn
Công ty hợp danh ra đời dựa trên sự thỏa thuận của các thành viên hợp danh; và vì vậy, sự
tồn tại của công ty hợp danh cũng phụ thuộc vào sự thohar thuận này. Biểu hiện tối cao của sự
thỏa thuận giữa các thành viên công ty chính là Điều lệ công ty. Khi đến thời điểm kết thức hoạt
động đã ghi trong Điều lệ nếu công ty hợp danh không xin gia hạn thì công ty sẽ đương nhiên
phải tiến hành giải thể.
- Theo quyết định của tất cả các thành viên hợp danh:
Đây là một trường hợp giải thể tự nguyện, tuân theo ý chí của các thành viên hợp danh. Với
trường hợp này, các thành viên hợp danh có thể quyết định giải thể công ty hợp danh vì bất kì lý
do gì mà họ cho rằng việc công ty hợp danh tiếp tục tồn tại là hoàn toàn không cần thiết.
- Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật doanh nghiệp
trong thời hạn sáu tháng liên tục:

Pháp luật hiện hành quy định số lượng thành viên tối thiểu khác nhau cho mỗi loại hình
doanh nghiệp. Với công ty hợp danh, Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 đã đưa ra số lượng
thành viên tối thiểu là hai thành viên hợp danh và có thể có thành viên góp vốn. Như vậy, có thể
hiểu công ty hợp danh không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu là khi công ty hợp danh chỉ
có một hoặc không có thành viên hợp danh. Trong quá trình hoạt động, cơ cấu nhân sự của công
ty bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, pháp luật không buộc công ty phải
giải thể ngay sau khi không đủ số lượng thành viên tối thiểu. Công ty có sáu tháng kể từ ngày
công ty không có đủ số lượng thành viên tối thiểu để khắc phục tình trạng này. Nếu như sau sáu
tháng công ty hợp danh vẫn không thể có đủ hai thành viên hợp danh thì công ty bắt buộc phải
giải thể.
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh:
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là bằng chứng cho sự ghi nhận về mặt pháp lý của nhà
nước đối với công ty hợp danh. Đó là tấm giấy thông hành để có thể thực hiện các hoạt động
của mình trong mối quan hệ với nhà nước và các chủ thể khác. Bị thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước đã rút lại sự công nhận tư cách chủ thể của công
ty hợp danh và công ty bị buộc phải giải thể. Đối với trường hợp này Luật doanh nghiệp 2005
quy định công ty hợp danh nói riêng và công ty nói chung phải giải thể trong vòng sáu tháng kể
từ ngày bị thu hội Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hết thời hạn này mà cơ quan đăng ký
kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được
giải thể và cơ quan đăng kí kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Quy
định này đã khắc phục tình trạng doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
nhưng không chịu giải thể.
Thủ tục giải thể công ty hợp danh:
7

×