Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN Áp dụng phương pháp dạy học trực quan để nâng cao chất lượng dạy học môn tin học khối 6 ở trường thcs quyết tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề ……………………………………………….……… ……
2. Giải quyết vấn đề …………………………………………….…………
2.1 Cơ sở lý luận của vấn đề ……………………………………… …
2.2 Thực trạng của vấn đề …………………………………… ………
2.3 Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết ………………… ……
2.3.1. Trực quan hoá thông tin dạy học……………………… ……
2.3.2. Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng
ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh……….……
2.3.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ……………
2.3.2.2. Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa……………
2.3.2.3. Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh …….………
2.3.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan ……………………… …
2.3.3 Xây dựng các kĩ năng, thực hành…………………………….…
2.3.3.1 Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng……… …
2.3.3.2 Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy…………………………
2.3.3.3 Học bằng chơi, chơi mà học. Giải trí thư giãn……… ……
2.4 Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm ………………………… …
3. Kết luận…………………………………………………………………
3.1. Ý nghĩa của SKKN …………………………………………………
3.2. Nhận định chung về việc áp dụng SKKN………………………
3.3: Bài học kinh nghiệm ………………………
3.3 Kiến nghị …………………………………………………………….
2
5
5
6
8
8
9
10


11
12
13
15
15
16
17
18
20
20
20
20
21
1. Đặt vấn đề.
1
1.1: Một số vấn đề trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục.
Thực hiện theo chủ đề năm học “Đổi mới quản lí và nâng cao chất lượng
giáo dục”, việc đổi mới giáo dục trong nhà trường đã trở thành nền nếp sâu rộng
từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học.
Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới
nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị,
phương tiện dạy học như bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm - thực hành,
máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng.
Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào
dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà
trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học, môn Tin
học là một môn khoa học công cụ, tri thức và kỹ năng Tin học được áp dụng
rộng rãi, hỗ trợ đắc lực cho rất nhiều ngành khoa học khác nhau trong hầu hết
lĩnh vực của đời sống và là một phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ

thông của con người trong thời đại mới. Bởi vậy dạy tin học cho học sinh không
chỉ truyền thụ nội dung đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận thức,
những hiểu biết ngang tầm thời đại
Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên
mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa
học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách
trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế.
Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp giảng dạy của giáo
viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng, phương tiện, thiết
bị và phần mềm dạy học. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi,
nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và nghiên cứu các ứng dụng của thiết bị và
phần mềm dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Trong quá trình tìm tòi,
nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số biện pháp hữu
ích góp phần trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6.
2
Để nâng cao chất lượng môn tin học nói chung và tin học 6 nói riêng tôi
đã đăng kí nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Áp dụng phương
pháp dạy học trực quan để nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học khối 6
ở trường THCS Quyết Tâm”, đề ra một số biện pháp về việc sử dụng phương
pháp dạy học trực quan với dụng đồ dùng dạy học đó là máy chiếu (Projecter),
các phần mềm dạy học (Netop school, Violet ), tranh ảnh, biểu tượng mà bản
thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công tại đơn vị trường THCS Quyết
Tâm.
1.2: Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm trong công
tác giảng dạy, giáo dục.
Môn tin học lớp 6 ở bậc THCS bước đầu giúp học sinh làm quen với một
số kiến thức ban đầu về CNTT như: một số bộ phận của máy tính, hệ điều hành,
tổ chức thông tin trong máy tính, ứng dụng soạn thảo văn bản với Microsoft
Word, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính
Học sinh có thái độ đúng khi sử dụng máy tính, bước đầu hiểu khả năng

ứng dụng CNTT trong học tập. Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:
Phần mềm soạn thảo văn bản, phần mềm vẽ (ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học
được từ môn Mỹ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hòa )
Việc nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng vào thực tiễn giảng
dạy góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh, giúp
các em vừa ôn luyện được kiến thức cũ, phát hiện nội dung kiến thức mới. Từ
đó các em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, say mê học tập, rèn
cho học sinh óc tư duy sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
1.3: Những mâu thuẫn giữa thực trạng với yêu cầu cần giải quyết.
Qua các năm giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy rằng nếu
truyền thụ tri thức chỉ thông qua lời nói thì học sinh cảm thấy mệt mỏi, không có
hứng thú trong học tập, việc tiếp thu bài giảng của học sinh không cao. Khi sử
dụng phương tiện trực quan trong bài giảng giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và
tham gia bài giảng một cách tích cực và chủ động. Phương tiện dạy học vừa điều
khiển nhận thức một cách sinh động, vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội
tri thức và rèn luyện kỹ năng. Phương pháp dạy học trực quan là một trong
3
những phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức
thông qua quan sát. Tuy vậy, trong quá trình dạy học một số học sinh vẫn chưa
chú ý đến sự hướng dẫn của giáo viên nên việc chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn thụ
động. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết kết hợp các phương
pháp dạy học một cách thích hợp, linh hoạt khai thác và vận dụng tốt các
phương tiện sẽ kích thích được hứng thú tư duy của học sinh.
Việc khai thác tốt các hình ảnh và mô hình đưa ra thông qua phương pháp
dạy học trực quan trong quá trình dạy học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến
thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện kỹ năng quan sát, phân tích,
dự đoán, so sánh, khái quát, kỹ năng vận dụng để học sinh nâng cao kỹ năng
kiến thức và có hứng thú hơn đối với môn học.
Khi đã tìm ra những phương pháp giảng dạy phù hợp giáo viên phải tiếp
tục thử nghiệm nhiều lần và tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm trong

việc giảng dạy theo phương pháp đó và học sinh đóng vai trò chủ đạo, để phát
huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh như thế mới phát huy được trí
lực của các em
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
4
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta
có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp
người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều
nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức.
Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời
đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng
đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng
những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học
được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội
dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng
trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người.
Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp
học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa
Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết
để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến.
Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học cũng không thể làm
trái với nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước
ta không phải là dễ, vì Tin học gắn liền với một công cụ riêng của môn học là
máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật
toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử
nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương
pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động

chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ
hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kĩ năng thực hành là một nhiệm vụ
rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.
Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy
giáo ngoài tinh thông về bộ môn Tin học, kĩ thuật dạy học môn tin học còn cần
nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là
5
phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu
tượng hay còn gọi là trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan.
2.2 Thực trạng của vấn đề
2.2.1: Thuận lợi
Học sinh ở trường THCS Quyết Tâm hiện nay đã có thuận lợi trong học
tập đó là: Đảng và Nhà nước đã chú trọng, đầu tư nhiều cho giáo dục, các em đã
có phòng học kiên cố. Bên cạnh đó phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc
học tập của con em mình, luôn có mối quan hệ chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm
duy trì trao đổi thông tin thường xuyên để nắm bắt được tình hình của con em
mình ở trường. Tuy môn tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường
trang bị phòng học, máy vi tính và phần mềm phục vụ cho việc dạy và học môn
tin học.
Giáo viên được đào tạo chuẩn về Tin học để đáp ứng cho yêu cầu dạy và học.
2.2.2: Khó khăn
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, dạy học định hướng
năng lực cho học sinh giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người
truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các
hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục
tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh
hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời
gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với
vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các họat động
tìm tòi, hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi

người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành
nghề mới tổ chức, hướng dẫn được tốt các hoạt động của học sinh mà nhiều khi
diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp
dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy
học còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin
học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu - Over head) hay máy
chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì
6
mỗi lớp cũng đều phải được trang bị đầy đủ trang thiết bị đáp ứng việc dạy và
học ứng dụng công nghệ thông tin một cách tốt nhất.
Tin học là một môn học mới được đưa vào giảng dạy tại trường THCS
Quyết Tâm gần 6 năm chậm hơn so với các trường trung tâm của thành phố 4
năm đặc biệt là các em lớp 6 vừa mới tiếp xúc với bộ môn mới đầu tiên mặc dù
các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý
thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là
bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy
tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực
hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên.
Bên cạnh đó do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn nhiều gia đình không có
điều kiện để mua máy tính cho con em học, theo thống kê của giáo viên dạy thì
trung bình mỗi lớp chỉ được 5 đến 6 em là gia đình có máy vi tính.
Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, chưa
thực sự hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự
học, tự rèn luyện yếu hoặc chỉ biết đến máy tính như một công cụ giải trí.
Qua điều tra khảo sát về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu
được kết quả như sau:
Khối
lớp
Tổng

số
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
6 74 5 6,7 8 10,8 47 63,6 10 13,5 4 5,4
Qua kết quả khảo sát thì đa số các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các
em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn
của giáo viên.
Tỉ lệ yếu kém còn cao: chiếm 18,9%
Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn
suy nghĩ phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc
hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ
tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra
7
một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6.
2.3 Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết
2.3.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.
Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học
tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô
hình, vật thật với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.
8
Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy
học, giáo dục qua mạng dựa trên cơ sở máy tính dụng cụ trực quan có thể
được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và
các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy
học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.
Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học
bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong
cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một
khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm

tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ trong học tập đây là một trong những mục
tiêu hàng đầu của giáo dục.
Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng
cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng vào dạy Tin học có hiệu quả
rất cao.
Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo
viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó
là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.
Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan.
Ví dụ dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ
dùng trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí
trung tâm (CPU), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB,
đĩa mềm, đĩa CD, DVD hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế
bằng cách chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS
mới nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.
Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với
đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì
phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội
dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính.
9
Chẳng hạn: khi nói đến máy tính hoặc máy in thì ta đưa hình ảnh minh họa,
bằng quan sát trực quan như thế học sinh sẽ ghi nhớ kiết thức tốt nhất.
Sau bài dạy tôi tiến hành kiểm tra nhận thức của học sinh bằng hình thức
kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được
Khối
lớp
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %

6 74 8 10,8 12 16,2 45 60,8 8 10,8 1 1,4
* Hiệu quả của biện pháp 1: Sau khi áp dụng một số ví dụ vào đề tài, số
học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên rõ rệt.
Tỉ lệ khá giỏi đã được nâng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: Tăng 9,5%
Tỉ lệ yếu kém giảm: 6,7%
Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết bị,
Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em vào làm bài
tập thực hành đã có hiệu quả rõ rệt.
2.3.2: Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông
qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.
Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên
người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và
trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy
học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho
nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính
trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong
10
nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại
hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học.
2.3.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.
Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẻ hoặc
câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.
Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng
trực quan bằng ngôn ngữ.
Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” giáo viên chiếu sơ đồ
cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát
và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng
đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần
trong cấu trúc máy tính.
V

í dụ dạy bài “Định dạng văn bản”, thì đưa lên màn hình các bước thực hiện
định dạng Font như sau:
Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng
Bước 2. Click Format \ Font
Bước 3. Hộp thọai Font xuất hiện chọn Font
11
+ Font: chọn phông chữ
+ Font Style: kiểu chữ
+ Size : cở chữ
+ Font color: màu chữ
+ Underline Style: đường gạch chân
+ Underline Color: màu đường gạch chân
+ Effects: các hiệu ứng
+ Preview: khung hiển thị
Bước 4. Click OK
Yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi liên quan:
? Nêu các bước để định dạng văn bản phông chữ, kiểu chữ, cỡ chữ bằng menu
lệnh (HS chỉ cần quan sát màn hình và nêu được các bước cần định dạng phông
chữ…)
? Thao tác quan trọng nhất trong định dạng văn bản là gì (HS chọn phần văn
bản cần định dạng)
2.3.2.2 Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa.
Biểu trưng đồ họa được tạo ra bằng nhiều cách, đồ họa liên quan với hình
ảnh, đồ họa liên quan với khái niệm, đồ họa tuỳ ý Việc dạy học trực quan bằng
biểu trưng đồ họa trong Tin học giúp người học có thể thao tác nhanh các bước
thực hành - đây là yêu cầu cần đạt của người học Tin học, dựa vào các biểu
trưng đồ họa này học sinh có thể phát hiện ra khái niệm, ý nghĩa của nó.
Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần
cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá) nhanh qua các
biểu tượng.

Giáo viên đưa các biểu tượng
12
Tương tự bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng
? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng
• Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh
giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.
HS nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các
em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.
* Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn
bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.
2.3.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh
Biểu trưng hình ảnh được tạo ra như ảnh chụp, tranh minh họa, tranh vẽ.
Tất cả đều phản ánh sự vật và ý nghĩa dưới dạng các biểu trưng cụ thể và mang
tính hiện thực cao, người học có khả năng phiên dịch các biểu trưng hình ảnh
thành các vật tương tự trong thế giới hiện thực.
Khi dạy bài “Máy tính điện tử” ta có thể sử dụng một số ảnh, ảnh minh
họa về máy tính, một số thiết bị của máy tính như đĩa mềm, USB ổ cứng, … để
học sinh quan sát và phân biệt.
13
Hoặc khi dạy bài “Hệ điều hành Windows” để giúp học sinh sớm hình
thành kĩ năng làm việc với máy tính như khởi động máy tính, tắt máy tính hay
phân biệt các đối tượng trên màn hình máy tính ta tiến hành đưa một số hình ảnh
liên quan.


2.3.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.
Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các
loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ họa với nhau. Đối với hầu hết
học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng

kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.
14
Các biểu tượng chương trình
Thanh công việc
Giáo viên yêu cầu:
- Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .
* Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Tổ chức thông tin trong
máy tính”, “Định dạng văn bản” ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực
quan

15

* Dạy bài “Định dạng văn bản” giáo viên chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho
học sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ trên máy tính thì
học sinh dể tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.
16
Thanh
cuộn
ngang
Thanh
Menu bar
Thanh
Tool
bar
Thanh
Formating
Thước dọc

Thanh
Drawing

Thước ngang
Thanh
cuộn
dọc
* Hiệu quả của biện pháp 2: Sau khi áp dụng biện pháp tạo những tác nhân
kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu
trưng tranh ảnh học sinh nhận biết các biểu tượng được nhanh hơn, phân biệt và
ghi nhớ các biểu tượng, các nút lệnh điều khiển được lâu hơn. Từ đó học sinh có
thể sử dụng các kiến thức đã học để thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn
tốt hơn.
2.3.3: Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.
2.3.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.
Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học
bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể
phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.
Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, Nối các ý của cột A,
B, C, D sao cho hợp lý.
A B C D
Ctrl + O
Ctrl + N
Ctrl + S
Alt + F4
File \ Open
File \ Save
File \ Exit
File \ New
Tạo tập tin văn bản mới
Đóng tập tin văn bản
Mở văn bản đã có
Lưu văn bản

* Bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho
phù hợp.
(1) Edit \ Copy
(2) Edit \ Cut
(3) Edit \ Paste
(4) Delete
(5) Ctrl + V
(6) Ctrl + C
(7) Ctrl + X
Các bước sao chép khối
Bước1. Chọn khối
17
Bước2. Click vào. (hay bấm tổ hợp phím hoặc Click biểu
tượng )
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước4. Click vào. (hay bấm tổ hợp phím hoặc Click biểu
tượng )
Các bước chuyển khối
Bước1. Chọn khối
Bước2. Click vào. (hay bấm tổ hợp phím hoặc Click biểu
tượng )
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước4. Click vào. (hay bấm tổ hợp phím hoặc Click biểu
tượng )
Các bước xoá khối
Bước1. Chọn khối
Bước2. Click vào. (hay bấm phím hoặc Click biểu tượng )
2.3.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy
Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh
nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy,

học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính
theo từng bước một. Với cách tổ chức học như thế này kết quả cho thấy học sinh
nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành.
* Hiệu quả của biện pháp 3: Sau khi áp dụng biện pháp xây dựng các kĩ năng,
thực hành học sinh dễ dàng phân biệt được các biểu tượng các nút lệnh mà vốn
học sinh rất khó nhớ và dễ nhầm lẫn. Tránh được hiện tượng học sinh khi thực
hành phải mò mẫm các công cụ, các biểu tượng khi sử dụng phần mềm để làm
bài tập thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn.
2.3.4. Biện pháp 4: Sử dụng phần mềm Netop School và mạng LAN.
2.3.4.1. Tổng quan về phần mềm Netop School 6.23
18
Sử dụng công nghệ kiểm soát từ xa tiên tiến, NetOp School cho phép giáo
viên có thể sử dụng máy vi tính của mình để hướng dẫn, kiểm soát và trợ giúp
học sinh. Ngoài ra, nó còn tạo cho học sinh cơ hội được trao đổi kinh nghiệm
trực tiếp với giáo viên, tiếp cận kiến thức mới một cách trực quan sinh động.
Chương trình hiện được sử dụng tại hơn 50 quốc gia trên thế giới, do Công ty
Danware (Đan Mạch) xây dựng. NetOp School có giao diện thân thiện, thích
hợp với hầu hết các phòng máy tại các trường học hiện nay.
Một số ứng dụng hiệu quả của phần mềm áp dụng dạy học trực quan:
*. Entire Screen: Quảng bá toàn bộ màn hình của giáo viên tới màn hình
của học sinh hoặc nhóm học sinh đã được giáo viên chọn trên Netop Teacher.
Dạy bài: “Quan sát các vì sao trong hệ mặt trời với phần mềm Solar
System 3D”
-
Áp dụng rất hiệu quả trong việc giảng dạy vì không cần đến máy chiếu và học
sinh không thể làm gì trên máy trong lúc giáo viên giảng bài. Học sinh quan sát
và làm theo hướng dẫn trực tiếp phần mềm trên máy tính của học sinh. Sau đó
giáo viên ngừng quảng bá và học sinh có thể tự thao tác, tự thực hành được trên
máy tính của mình một cách dễ dàng.
19

*. Media File: Quảng bá một chương trình nghe nhìn đang chạy trên máy
tính của giáo viên tới máy tính của học sinh.
Giới thiệu đoạn video ùn tắc giao thông không có đèn tín hiệu giao thông
và cảnh sát giao thông. Khi dạy bài “Hệ điều hành làm những việc gì?”
*. Student Screen: Chọn một màn hình của một học sinh nào đó từ trong
danh sách thả xuống và quảng bá tới tất cả các màn hình khác của học sinh.
- Ví dụ khi dạy bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên quảng bá một màn hình học
sinh nào đó đến tất cả các học sinh khác, cho cả lớp xem và nhận xét, bài làm
của bạn.
20
4. Remote Control: Điều khiển từ xa máy tính học sinh; Kiểm soát
chuột và phím của máy học sinh.
- Ví dụ dạy bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên có thể theo dõi, chỉnh sửa
bài tập cho học sinh từ xa.
21
* Hiệu quả của biện pháp 4: Sau khi áp dụng biện pháp sử dụng phần
mềm Netop School và mạng LAN để giảng dạy đã giúp cho học sinh tiếp nhận
kiến thức nhanh, ghi nhớ lâu từ đó vận dụng tốt trong thực hành. Giáo viên cũng
quan sát, giám sát, điều chỉnh kịp thời và quan tâm được tất cả các đối tượng
học sinh. Trong các biện pháp đã áp dụng thì biện pháp này đạt hiệu quả vượt
trội và rất phù hợp với đặc trưng bộ môn và điều kiện của nhà trường.
Để đánh giá nhận thức của học sinh tôi điều tra sáng kiến kinh nghiệm
qua bài kiểm tra.
Kết quả thu được từ bài làm của học sinh:
22
Khối
lớp
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém

SL % SL % SL % SL % SL %
6 74 10 13,5 15 20,3 43 58,1 6 8,1 0
* Bài học kinh nghiệm:
Để đạt hiệu quả trong mỗi tiết học trên lớp, giáo viên sử dụng triệt để mạng
thông tin trên kênh hình (tranh vẽ, ảnh chụp, đồ dùng trực quan, phần mềm dạy
học đặc biệt là Netop School) .
Sau mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và
rút kinh nghiệm cho lần sau.
* Hiệu quả: Qua phần kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh
kết quả tương đối khả quan. Lần kiểm tra sau kết quả cao hơn lần kiểm tra trước.
Chứng tỏ học sinh đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên tỉ lệ học sinh mắc những
sai sót còn khá cao.
Với cách tiến hành như vậy, những bài đầu thường mất rất nhiều thời gian,
các kết quả thường sai lệch rất lớn, nhưng càng về sau, thao tác của học sinh
thành thạo hơn, các em làm việc nhanh hơn, kết quả ngày càng chính xác. Để
khuyến khích học tập, giáo viên nên cho học sinh hoạt động theo nhóm để có sự
thi đua giữa các nhóm tạo điều kiện so sánh, chọn kết quả tốt hơn, lượng giờ học
tăng lên. Học sinh hứng thú trong học tập hơn vì bản thân từng em có thể tự giác
lĩnh hội kiến thức, hơn nữa qua các hoạt động như vậy các em có thể tự đánh giá
kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm, tự tiếp nhận kiến thức một cách chủ
động, tích cực. Giờ học trở nên nhẹ nhàng, học sinh hứng thú học tập hơn.
2.5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.5.1. Đối tượng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
- Học sinh khối 6 trường THCS Quyết Tâm.
2.5.2. Kết quả cụ thể
Qua một thời gian ngắn thực hiện ứng dụng các dụng cụ trực quan vào
dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy:
23
- Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một
cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó HS

có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến
thức lâu hơn
- Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng
hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ
kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng
các mức như sau:
* Kết quả khảo sát đầu năm
Khối
lớp
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
6 74 5 6,7 8 10,8 47 63,6 10 13,5 4 5,4

* Kết quả qua các lần kiểm tra.
Kiểm tra
thể
nghiệm
TS
HS
Giỏi Khá TB Yếu
Nhận xét
TS % TS % TS % TS %
Học kỳ I
15 phút
74
8 10,8 12 16,2 43 58,1 11 14,9
Khá, giỏi tăng: 9,5%

Yếu giảm: 4%
1 tiết 12 16,2 18 24,3 35 47,2 9 12,3
Khá, giỏi tăng: 13,5%
Yếu giảm: 2,6%
Học kỳ I 16 21,9 23 31,5 27 35,8 8 10,8
Khá, giỏi tăng: 5,4%
Yếu giảm: 1,5%
Học kỳ II
15 phút
74
18 24,3 23 31,5 46 37,4 5 6,8
Khá, giỏi tăng: 2,4%
Yếu giảm: 4%
1 tiết 22 29,7 25 33,8 26 35,1 1 1,4
Khá, giỏi tăng: 7,7%
Yếu giảm: 5,4%
Học kỳ II 25 33,8 27 37,8 21 28,4 0
Khá, giỏi tăng: 8,1%
Yếu giảm: 1,4%
Cả năm 26 35,2 24 32,4 24 32,4 0
So với chỉ tiêu giao
đầu năm:
Khá giỏi tăng: 13%
Yếu kém giảm:7,2%

Qua thời gian nghiên cứu đề tài trong năm học bằng nhiều phương pháp
khác nhau, qua dự giờ đồng nghiệp và dạy thể nghiệm. Tôi đã tìm ra một số kinh
24
nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định.
Trong giờ học các em chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích được khả năng tư

duy sáng tạo, tự tin của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy
móc. Kết quả số học sinh khá, giỏi tăng lên, số học sinh trung bình, yếu giảm đi
rõ rệt.

3. Kết luận
3.1 Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Dạy học là một nghệ thuật. Sử dụng tốt phương pháp dạy học trực quan là
con đường tốt nhất để đạt được mục đích yêu cầu tiết dạy trong đó phương tiện
dùng công cụ trực quan đặc biệt có hiệu quả tốt giúp người học hiểu và nắm
chắc thông tin cần thiết. Việc sử dụng dụng cụ trực quan vào quá trình dạy học
là cần thiết đối với mỗi giáo viên vì nó mang lại hiệu suất, hiệu quả của giáo
dục cao.
Muốn học sinh học tốt các môn học nói chung và môn Tin học nói riêng
thì điều đầu tiên người giáo viên phải tạo được ở học sinh niềm say mê, hứng
25

×