Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty in công đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.33 KB, 98 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
mỗi doanh nghiệp khi tiến hàng sản xuất kinh doanh. Để tạo lợi nhuận ngày càng
cao các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao các yếu tố sản
xuất trong doanh nghiệp. Nhưng vấn đề áp dụng những biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm như thế nào cho đạt hiệu quả, làm thế nào để khơi dậy mọi
tiềm năng sáng tạo ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp là một vấn đề đạt
ra ngày càng được tiếp tục nghiên cứu để áp dụng.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm, là
một sinh viên trang bị những kiến thức kinh tế, xã hội. Tôi nhận thấy rằng việc
nghiên cứu và áp dụng biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm như thế nào
cho đạt hiệu quả, làm thế nào để khơi dậy mọi tiềm năng, sáng tạo của tập thể, cá
nhân người lao động, để tạo ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp là một
yêu cầu đạt ra cần được áp dụng nghiên cứu và áp dụng.
Nước ta từ khi thay đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước, đã giúp cho các doanh nghiệp nhận thức được
sự cạnh tranh là động lực của sự phát triển Vì vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm
ở mỗi doanh nghiệp là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn giúp doanh
nghiệp nang cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng mức cao nhất nhu cầu của khách
hàng.
Công ty in Công Đoàn là một trong những Công ty đang đứng trước những
thử thách lớn lao đó. Bằng sự từng trải trong thực tế, Công ty in Công Đoàn cũng
đã nhận thức rằng chất lượng là một vũ khí cạnh tranh đem lại hiệu quả cao nhất.
Công ty muốn tồn tại và phát triển bền vững không gì hơn là phải liên tục thay đổi
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp


Q11T1
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và nâng cao chất lượng sản phẩm, chính vì thế mà yếu tố quan tâm hàng đầu trong
hoạt động kinh doanh của Công ty là chất lượng.
Để học tập và phần nào đóng góp cho công cuộc phát triển của công ty in
Công Đoàn, trong thời gian thực tập em đã nghiên cứu và viết đề tài:”Một số biện
pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại Công ty in Công Đoàn”.
Kết cấu của khoá luận bao gồm có ba phần chính ngoài phần mở đầu và
phần kết luận.
Chương 1: Lý luận chung về nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chương 2: Thực trạng chất lượng và quản trị chất lượng tại Công ty in
Công Đoàn.
Chương 3: Một số giải pháp và ý kiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1.1. Những vấn đề chung về việc nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất rộng và phức tạp, nó phản ánh tập
hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội.Cùng với sự phát triển của khoa học
và kỹ thuật, chất lượng cũng không ngừng bổ sung hoàn thiện để phản ánh chính
xác yêu cầu của chất lượng. Trong sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống
xã hội, không có ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của chất lượng.Hiện nay
vấn đề chất lượng sản phẩm trong những doanh nghiệp được đạt ra một cách
nghiêm túc và khắt khe, được hầu hết các tổ chức quan tâm nghiên cứu nhằm mục
đích khoa học quản trị chất lượng phát triển.
1.1.1. Khái niệm về sản phẩm và chất lượng sản phẩm.

1.1.1.1. Khái niệm về sản phẩm.
Sản phẩm là tất cả mọi hàng hoá dịch vụ có thể đem chào bán có khả năng
thoả mãn mọi nhu cầu hay mong muốn của con người, gây sự chú ý, kích thích sự
mua sắm.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Có thể nói sản phẩm là những phương tiện truyền tải lợi ích mà người tiêu
dùng mong chờ. Bởi vậy mà nhà kinh doanh muốn thành công trong việc tung ra
thị trường những sản phẩm hàng hoá của mình thì họ xác định một cách chính xác
nhu cầu mà người tiêu dùng mong muốn. Từ đó xây dựng hoạt động sản xuất và
cung ứng hàng hoá dịch vụ có chất lượng đáp ứng tối đa nhu cầu người tiêu dùng.
1.1.2. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Cũng như các vấn đề khoa học khác, chất lượng sản phẩm được các học giả
nghiên cứu xem xét. Song trong từng góc độ nghiên cứu mà có những khái niệm
và quan điểm khác nhau.

Theo quan điểm triết học:”Chất lượng sản phẩm là phần tồn tại cơ bản
bên trong các sự vật”.

Theo quan điểm của Marl Marx thì ông cho rằng :”Người tiêu dùng
mua hàng hoá, không phải là do hàng hoá có giá trị mà vì hàng hoá có
giá trị sử dụng và thoả mãn những mục đích sử dụng “Điều đó nói lên
giá trị sử được đáng giá rất cao” (Chất lượng cũng như số lượng sản
phẩm được cân đo, đong đếm…)

Vậy chất lượng sản phẩm là thước đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó.
Giá trị của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và đó
chính là chất lượng sản phẩm.

Dựa vào đặc điểm này, các nhà kinh tế học của các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây và những nước tư bản chủ nghĩa vào những năm 30 của thế kỷ 20 đã
đưa ra những định nghĩa tương tự, các định nghĩa này rất phát theo quan điểm của
các nhà sản xuất :” Chất lượng sản phẩm là đặc tính kinh tế, kỹ thật nội tại phản
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đáp ứng nhu cầu định trước cho nó
trong những điều kiện xác định về kinh tế xã hội”.
*Quan điểm về chất lượng theo hướng công nghệ:

Chất lượng sản phẩm là mức độ mà sản phẩm ấy thực hiện được những
yêu cầu, chỉ tiêu thiết kế hay những quy định riêng cho sản phẩm ấy.

Chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với chỉ tiêu kỹ thuật .

Chất lượng sản phẩm là những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể
đo được hoặc so sánh được phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của
sản phẩm đó, đáp ứng những nhu cầu đặt trước trong điều kiện kinh tế
cũng như xã hội.
*Quan điểm chất lượng theo hướng khách hàng:

Theo quan điểm tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu:” Chất lượng sản
phẩm là mức độ mà sản phẩm đó đáp ứng được nhu cầu người sử dụng


Theo quan điểm tiêu chuẩn của Afnor50 _109 của Pháp thì:” Chất lượng
sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn những
nhu cầu của người sử dụng”.


Theo quan điểm kiểm tra chất lượng của Mỹ”: Chất lượng sản phẩm là
toàn bộ đặc tính và đặc trưng của sản phẩm, dịch vụ nhằm thoả mãn yêu
cầu đã đặt ra.

Để phát huy mặt tích cực và khắc phục hạn chế tiêu cực của các quan điểm
trên, tổ chức đo lường tiêu chuẩn Quốc Tế (Iso) đã đưa ra khái niệm:
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Theo iso (8420_1994):”Chất lượng là tập hợp các đặc tình thực tế đối
tượng tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm
ẩn “

Theo iso 9000:”Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu đặc trưng
kỹ thuật của thực thể, thoả mãn đẩy đủ trong điều kiện tiêu dùng của sản
phẩm mà người tiêu dùng mong muốn.
Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng nhà nước Việt Nam đã
đưa ra khái niệm:” Chất lượng của sản phẩm của một sản phẩm nào đó là phù hợp
với tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng, phù hợp với nhu cầu xã hội, điều
kiện kinh tế, đảm bảo yêu cầu sử dụng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả
năng sản xuất của từng người TCVN_(1814_1994)
Về thực chất những khái niệm này đều phản ánh chất lượng sản phẩm là sự
kết hợp giữa đặc tính nội tại khách quan của sản phẩm với chủ quan bên ngoài, là
sự phối hợp với khách hàng. Vì vậy những quan điểm này được chấp nhận khá
phổ biến và rộng rãi.
Quan điểm chất lượng sản phẩm luôn được phát triển, bổ sung và mở rộng
hơn nữa cho thích hợp với sự phát triển của thị trường hiện nay. Khái niệm chất

lượng là một chỉ tiêu động, nghĩa là để đáp ứng yêu cầu khách hàng các doanh
nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.Tuy nhiên không phải thế mà
doanh nghiệp thay đổi chất lượng với bất kỳ giá nào mà luôn có giớ hạn về kinh
tế, xã hội, công nghệ. Vì vậy chất lượng là sự kết hợp các đặc tính của sản phẩm
có thể thoả mãn nhu cầu khách hàng trong những giới hạn vế chi phí nhu cầu nhất
định. Điều này có nghĩa là lợi ích thu được từ chất lượng sản phẩm sản xuất ra
phải làm trong mối tương quan chặt chẽ với chi phí lao động xã hội cần thiết.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.2. Quá trình hình thành chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm không chỉ được hình thành trong quá trình sản xuất
mà còn liên quan đến kết quả của nhiều quá trình liên tục từ khâu nghiên cứ thiết
kế đến khâu sử dụng.
Vòng tròn chất lượng của Iso 9004_1987 và tiêu chuẩn Việt Nam ( TCCL)
5204_90 được chia thành các phân hệ: Thiết kế, sản xuất và dịch vụ sau khi bán.
Giai đoạn 1: Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu về số lượng dự
đoán chi phí chất lượng sản phẩm, mục tiêu kinh tế cần đạt được.
Giai đoạn 2: Thiết kế xây dựng các yêu cầu kỹ thuật dây chuyền , công
nghệ sản xuất, đầu tư xây dựng cơ bản.
Giai đoạn 3: Cung cấp vật tư kỹ thuật xác định nguồn gốc kiểm tra nguyên
vật liệu.
Giai đoạn 4: Chuẩn bị và triển khai quán triệt sản xuất.
Giai đoạn 5: Chế tạo sản phẩm hàng loạt

Giai đoạn 6 :
Thử nghiệm và kiểm tra chất lượng sản phẩm, tìm biện pháp
đảm bảo chất lượng quy định chuẩn bị xuất xưởng


Giai đoạn 7:
Tổ chức bao gói dự trữ sản phẩm.

Giai đoạn 8:
Bán và cung cấp sản phẩm.
Giai đoạn 9:
Nắp đặt vận hành và hướng dẫn sử dụng.
Giai đoạn 10:
Dịch vụ kỹ thuật hướng dẫn và bảo hành.
Giai đoạn 11:
Trưng cầu ý kiến khách hàng về chất lượng của sản phẩm lập
dự án cho các buớc sau, thanh lý sử dụng mỗi giai đoạn người ta phải thực thi
công tác quản lý chất lượng đồng bộ .Trong suốt quá trình người ta không ngừng
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cải tiến chất lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm ngày càng đạt hiệu quả cao.
Cho nên, có thể hình dung chất lượng quản trị, chất lượng sản phẩm là một hệ
thống liên tục đi từ nghiên cứu đến triển khai, tiêu dùng và lại trở về nghiên cứu
chu kỳ sau hoàn hảo hơn chu kỳ trước.
1.1.3. Phân loại chất lượng sản phẩm
1.1.3.1. Chất lượng thiết kế
Chất lượng thiết kế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản
phẩm được phát thảo qua văn bản, trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường, các
đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng đồng thời có thể so sánh với chỉ tiêu chất
lượng với mặt hàng tương tự cùng loại của nhiều hãng, nhiều công ty trong và
ngoài nước.
1.1.3.2. Chất lượng chuẩn
Chất lượng chuẩn là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng đã được cấp có thẩm

quyền phê chuẩn. Dựa trên cơ sở nghiên cứ chất lượng thiết kế các cơ quan Nhà
nước, doanh nghiệp, tổ chức điều chỉnh xem xét những chỉ tiêu của chất lượng sản
phẩm hàng hoá.
1.1.3.3. Chất lượng thực
Chất lượng thực tế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu chất lượng của sản
phẩm thực tế đạt được do các yếu tố chi phối nguyên vật liệu máy móc thiết bị
phương tiện.

1.1.3.4. Chất lượng cho phép
Chất lượng cho phép là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng
sản phẩm giữa chất lượng thật và chất lượng chuẩn, chất lượng cho phép của sản
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phẩm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội trình độ lành nghề của công nhân,
phương pháp quản lý của doanh nghiệp.
1.1.3.5. Chất lượng tối ưu
Chất lượng tối ưu là giá trị các chỉ tiêu chất lượng mà sản phẩm đạt được ở
mức độ hợp lý nhất trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Hay nói cách khác
sản phẩm hàng hoá đạt được chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm
thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng có khả năng cạnh tranh với nhiều hãng trên
thị trường, sức tiêu dùng nhanh và đạt hiệu quả cao.
1.1.4. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng sản phẩm

Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ mang lại cho doanh nghiệp kết
quả quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tăng chất lượng sản phẩm đồng nghĩa tăng năng xuất lao động và sử
dụng có hiêu quả nguồn nhân lực.


Tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm mở rộng thị trường cho doanh nghiệp.

Làm tăng uy tín của doanh nghiệp tạo tiền đề cho sự thành công.

Nâng cao chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với từng
doanh nghiệp, chất lượng giá cả và thời gian giao hàng là một trong các
yếu tố quan trọng nhất quyết định đến khả năng cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp. Nhờ chất lượng sản phẩm dịch vụ cao làm tăng uy tín của
doanh nghiệp, giữ được khách hàng cũ thu hút khách hàng mới mở rộng
thị trường tạo điều kiện cơ sở cho sự phát triển lâu dài của doanh
nghiệp. Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ nên sản xuất hàng
hoá không ngừng phát triển, mức sống con người ngày càng cải thiện,
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhu cầu hàng hoá ngày càng trở lên đa dạng và phong phú. Trong điều
kiện giá cả không còn là mối quan tâm duy nhất của người tiêu dùng thì
chất lượng ngày nay là công cụ cạnh tranh hữu hiệu. Nâng cao chất
lượng sản phẩm đồng nghĩa với nâng cao tính hưu ích của sản phẩm
thoả mãn người tiêu dùng, đồng thời giảm đi chi phí trên một đơn vị sản
phẩm nhờ vào hoàn thiện quy trình đổi mới cải tiến các hoạt động giảm
lãng phí, phế phẩm hoặc sản phẩm phải sửa chữa.

Nâng cao chất lượng sản phẩm làm tăng tính năng sử dụng tiêu thụ độ
an toàn của sản phẩm, giảm mức gây ô nhiễm môi trường, tiết kiệm
nguồn tài nguyên, tăng giá trị sản phẩm trên một sản phẩm đầu ra, nhớ
đó tăng khả năng tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng, hiện đại hoá công
nghệ, máy móc thiết bị thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển.


Nâng cao chất lượng sản phẩm còn làm tăng khả năng của sản phẩm
tạo uy tín cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường, mở rộng thị trường
trong nước và Quốc tế. Khắc phục tình trạng sản xuất ra không tiêu thụ
được dẫn đến ngừng trệ sản xuất, thiếu việc làm đời sống khó khăn, nên
cần sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, độc đáo, mới lạ đáp ứng
thị hiếu khách hàng sẽ kích thích tăng mạnh nhu cấu đối với sản phẩm.
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiêu thụ nhanh sản phẩm với số lượng
lớn, tăng giá trị bán, thậm trí có thể giữ vị trí độc quyền với sản phẩm
do những ưu thế riêng so với sản phẩm cùng loại. Khi đó doanh nghiệp
thu được lợi nhuận cao sẽ có điều kiện để ổn định sản xuất, không
ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm làm cho doanh nghiệp
ngày càng có uy tín phát triển mạnh mẽ hơn, sử dụng hiệu quả hơn các
yếu tố sản xuất. Khi sản xuất ổn định và cơ hội nhà kinh doanh có điều
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kiện ổn định việc làm cho người lao động tăng thu nhập làm cho họ tin
tưởng và gắn bó với doanh nghiệp đóng góp hết sức mình để sản xuất ra
những sản phẩm tốt nhất giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.

Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ thoả mãn tốt nhất yêu cầu người tiêu
dùng đối với chính hàng hóa đó góp phần cải thiện đời sống , tăng thu
nhập thực tế của dân cư bởi vì cùng một khoản chi phí tài chính người
tiêu dùng sẽ mua được sản phẩm có giá trị sử dụng cao hơn thuận tiện
hơn. Đứng trước trên góc độ lên kinh tế quốc dân mà nhận xét, đảm bảo
và nâng cao chất lượng sản phẩm tức là đảm bảo tiết kiệm, hợp lý nhất
là nguyên vật liệu, sức lao động,nguồn vốn của xã hội để thoả mãn nhu
cầu của nhân dân. Sự phát triển của doanh nghiệp (có được là nhờ tăng

chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng thu nhập cho nhân sách nhà nước).
Hiện nay hàng hoá Việt Nam đang phải cạnh tranh với hàng hoá nước
ngoài, trên thị trường Quốc tế cũng như cả thị trường trong nước. Do vậy bất kỳ
một doanh nghiệp nào dù tham gia trên thị trường nội địa hay nước ngoài muốn
tồn tại và đứng vững phải có tầm nhìn toàn cầu và trước mắt cần phải biết vận
dụng lợi thế mới đưa ra những sản phẩm tốt nhất cung ứng trên thị trường có hiệu
quả cao nhất
.

Chất lượng sản phẩm là công cụ số một để khẳng định vị trí của doanh
nghiệp, của sản phẩm Việt Nam trên thế giới. Tuy nhiên nếu các doanh
nghiệp chỉ chú trọng tới nâng cao chất lượng sản phẩm bằng mọi giá mà
không chú ý đến chi phí tạo ra sản phẩm đó dẫn đến giá thành quá cao,
không được thị trường chấp nhận thì doanh nghiệp đó khó có thể kinh
doanh có hiệu quả. Do vậy khi tìm biện pháp nâng cao chất lượng sản
phẩm cần chú ý tới chi phí tạo ra sản phẩm, điều kiện kinh tế của đất
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước đến thu nhập của người tiêu dùng, thị hiếu của họ để tạo ra sản
phẩm phù hợp.
1.1.5. Các chỉ số đánh giá về chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm là một thực tế đối tượng vật chất hay sản phẩm là dịch vụ thì có
chỉ tiêu đánh giá khác nhau. Để đánh giá chất lượng sản phẩm nói chung, người ta
dùng các chỉ tiêu sau:

Chỉ tiêu sử dụng đặc trưng cho các tiêu chuẩn xác đinh, các chức năng
yếu tố của sản phẩm và quy định lĩnh vực sử dụng của sản phẩm đó


Chỉ tiêu độ tin cậy là một chỉ tiêu phức tạp của sản phẩm hàng hoá vì
các chỉ tiêu riêng lẻ như: Khả năng duy trì tuổi thọ củân phẩm hàng hoá,
dễ bảo quản.

Chỉ tiêu Egonomic (công thái hoá) là sự tương quan phù hợp giữa sản
phẩm với người tiêu dùng, dựa trên cơ sở coi trọng thói quen tập quán
sử dụng.

Chỉ tiêu công nghệ là khả năng dễ gia công để chế tạo, dễ lắp ráp thành
sản phẩm hoàn chỉnh sử dụng công nghệ hợp lý.

Tính dữ liệu vận chuyển: Đó là khả năng bố trí sắp xếp các container
tiêu chuẩn đảm bảo dễ vận chuyển bằng đường sắt, đường hàng không,
đường sông và đường bộ.

Tính thống nhất hoá, chỉ tiêu hoá hạn chế bởi tính đa dạng quá mức của
một chủng loại sản phẩm bằng các văn bản tiêu chuẩn.

Chỉ tiêu sinh thái hoá đặc trưng cho độ độc hại của sản phẩm khi tác
động đến môi trường.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chỉ tiêu an toàn đặc trưng cho tính an toàn khi sử dụng, đảm bảo sức
khoẻ và tính mạng cho người tiêu dùng đây là chỉ tiêu đặc biệt quan
trọng đối với sản phẩm.

Ngoài ra để đánh giá phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các

bộ phận, các doanh nghiệp đối với hầu hết các sản phẩm, ta còn có các
chỉ tiêu so sánh sau
1.2. Mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm với chi phí và hiệu quả sản
xuất kinh doanh
Chất lượng có vai trò to lớn trong mỗi doanh nghiệp, nó đem lại lợi ích cho
doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm làm tăng giá trị sử dụng, làm tăng
thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp đảm bảo cho sản xuất kinh doanh diễn ra liên
tục và hiệu quả.
Ngày nay do sự đòi hỏi khắt khe của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
không chỉ cạnh tranh về mặt chất lượng mà cạnh tranh trên cả lĩnh vực giá cả. Tuy
nhiên, người tiêu dùng vẫn coi trọng giá trị chất lượng hơn cả, giá cả không còn là
yếu tố chủ yếu trong sự lựa chọn của người tiêu dùng, song nếu một doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm có chất lượng cao mà giá cả phù hợp với thị trường thì doanh
nghiệp mới tiêu thị được nhiều sản phẩm hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm
sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp do quyết định được hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá làm đúng ngay từ đầu sẽ giảm được số lượng sản phẩm
hỏng chắc chắn sẽ tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành làm cơ sở hạ giá
cả tạo điều kiện cho việc tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng hơn, tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm luôn phải tính tới yếu tố đầu ra cho
sản phẩm, nếu không thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm đó chắc chắn đã có
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiệu quả vì nếu chi phí để sản xuất một sản phẩm là quá lớn, giá thành quá cao
muốn có lãi thì doanh nghiệp đó bán ra với giá cao hơn. Như vậy sẽ có ít người
mua bởi khẳ năng thanh toán của người tiêu dùng là có giới hạn. Mặt khác, trong
cơ chế thị trường sự cạnh tranh về giá cả là hết sức khốc liệt nên doanh nghiệp sản
xuất ra sản phẩm không tiêu thụ được, hàng hoá tồn kho lớn ẩm ướt bị ứ đọng,
vòng quay vốn chậm dần đến tình hình tài chính của doanh nghiệp bị căng thẳng,

ảnh hưởng xấu đến kết quả sản xuất và thu nhập của người lao động.
Tóm lại khi tìm các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh
nghiệp cần phải đảm bảo chú ý đến chi phí sản xuất ra sản phẩm điều kiện kinh tế
xã hội, kỹ thuật công nghệ, mức thu nhập của người tiêu dùng và sức cạnh tranh
của thị trường chấp nhận. Có như vậy việc sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả
ngày càng cao, phát triển nhanh và doanh nghiệp sẽ đứng vững trong nền kinh tế
thị trường.

Sơ đồ 1: Cán cân chất lượng và chi phí


Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
15
Cân bằng tối ưu
Sản phẩm
So sánh dữ liệu
Phân tích chất lượng sản
phẩm
Phân tích chi phí
Chất lượng có thể
với chi phí thấp nhất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng:
Chất lượng là vũ khí quan trọng nhất. Không những thế chất lượng của sản
phẩm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và chỉ trên cơ sở xác định đầy đủ các yếu
tố đó thì mới đề xuất được những biện pháp không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm, tổ chức chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh. Công việc này đòi hỏi tất cả
mọi người đều phải quan tâm, cố gắng bởi có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nó,
những nhân tố này có ảnh hưởng theo hai chiều tích cực và tiêu cực. Vì vậy, nếu

các nhà quản trị nhận thức được sâu sắc sự ảnh hưởng của các nhân tố tới việc
quản lý chất lượng nói riêng của cơ quan mình.
Nhìn chung, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm được khái
quát trong các nhóm cơ bản sau:
1.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.3.1.1. Nhu cầu thị trường:
Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng, tạo lực hút
định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu tính chất, đặc
điểm và xu hướng của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Chất
lượng sản phẩm được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại thấp ở thị trường
khác. Điều đó phải đòi hỏi tiến hành nghiêm túc, thận trọng trong công tác điều tra
nghiên cứu nhu cầu thị trường khách hàng, thói quen truyền thống, phong tục tập
quán, văn hoá lối sống mục đích sử dụng sản phẩm và khả năng thanh toán nhằm
đưa ra những sản phẩm phù hợp nhất đối với từng loại thị trường. Thông thường
khi mức sống còn thấp, sản phẩm còn khan hiếm thì yêu cầu của người tiêu dùng
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chưa cao và do đó họ chưa quen nhiều tới mặt giá trị sử dụng của sản phẩm hàng
hoá. Nhưng khi đời sống xã hội nâng cao lên thì những đòi hỏi về chất lượng sản
phẩm cũng tăng theo. Một sản phẩm nếu bán cao hơn với giá trị sử dụng nhưng
vẫn được người tiêu dùng chấp nhận nếu sản phẩm có hình thức mẫu mã bên
ngoài đẹp hài lòng khách hàng. Hơn nữa, khi chuyển sang cơ chế thị trường sản
phẩm ngày càng đa dạng và phong phú, người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa
chọn sản phẩm mình ưng ý và nhu cầu thị trường cũng luôn thay đổi đa dạng hơn.
Do đó nếu các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường nghiên
cứu, định hướng hoá các nhu cầu trên cơ sở đó có chính sách đúng đắn về sản
phẩm và chất lượng của doanh nghiệp.
1.3.1.2. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật

Ngày nay chúng ta đang đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học
kỹ thuật hiên đại trên quy mô toàn thế giới. Cuộc cách mạng này đang thâm nhập
và chi phối hầu hết các hoạt động của xã hội loài người
Chất lượng của bất kỳ một sản phẩm nào cũng gắn liền với sự phát triển
của khoa học kỹ thuật hiện đại , chu kỳ công nghệ của sản phẩm được rút ngắn,
công dụng của sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng. Nhưng cũng chính vì vậy
mà sản phẩm không bao giờ thoả mãn mức chất lượng hiện đại mà phải thường
xuyên theo dõi mức biến động của thị trường về sự đổi mới của khoa học công
nghệ, thiết bị để điều chỉnh kịp thời nâng cao chất lượng sản phẩm phát triển
doanh nghịêp

1.3.1.3. Cơ chế quản lý
Các doanh nghiệp không thể tồn tại một cách biệt lập mà luôn có mối quan
hệ chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình kinh tế _xã hội và cơ chế
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chính sách của Nhà nước. Hiệu lực của cơ chế quản lý là đòn bẩy quan trọng trong
công việc quản lý chất lưọng sản phẩm đảm bảo uy tín và quyền lợi của nhà sản
xuất và người tiêu dùng. Mặt khác hiệu lực của cơ chế sản xuất quản lý có đảm
bảo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nước
và khu vực quốc tế

1.3.1.4. Nhân tố khách hàng
Khách hàng là người phán xét chất lượng sản phẩm của công ty một cách
đúng đắn nhất. Chính vì thế, nhiều công ty khi quảng cáo sản phẩm của mình
thường có khẩu hiệu “Khách hàng là thượng đế”. Song thực tế không phải khác
hàng nào cũng đánh giá sản phẩm của công ty một cách vô tư, mỗi người có cách
nhìn nhận khác nhau, nhu cầu đòi hỏi của khách hàng rất lớn song chính họ lại là

người tiêu dùng trực tiếp sản phẩm của công ty. Vì vậy có thể xem xét khác hàng
như một nhân tố quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng sản phẩm và chất
lượng sản phẩm có thể phụ thuộc rất nhiều vào ý thức trách nhiệm của họ. Ngoài
sự quan tâm tới khách hàng bên ngoài công ty còn phải đặc biệt chú ý một bộ phận
quan trọng bên trong. Họ là những người phải được quan tâm đầy đủ về vật chất
và tinh thần làm việc có hiệu quả.
1.3.1.5. Các yếu tố về phong tục tập quán và thói quen tiêu dùng
Đây là một yếu tố không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng
sản phẩm. Sở thích tiêu dùng của từng nước, từng tôn giáo không hoàn toàn giống
nhau. Do đó các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra, nghiên cứu nhu cầu sở thích
của từng thị trường cụ thể, nhằm thoả mãn những yêu cầu về số lượng cũng như
về chất lượng.
1.3.1.6. Môi trường cảnh quan
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đây là nhân tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp chất lượng sản phẩm bao
gồm những điều kiện về tự nhiên ở nơi sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm như thời
tiết, khí hậu, nhiệt độ …các nhà quản lý nên nắm rõ các đặc điểm về sản phẩm của
công ty mình để lựa chọn một môi trường phù hợp có như vậy mới thu hút được
đông đảo khách hàng cho công ty.
1.3.2. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.3.2.1. Nhóm yếu tố nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là yếu tố quan trọng tham gia trực tiếp vào giá thành sản
phẩm. Những đặc tính của nguyên vật liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, chất lượng
nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
Không thể có chất lượng sản phẩm nếu sản phẩm do được sản xuất với nguyên
liệu không đảm bảo. Mỗi sản phẩm sản xuất ra với nguyên liệu khác nhau, vì vậy
chủng loại cơ cấu nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.

Do đó doanh nghiệp cần kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên liệu khi mua và đưa
vào sản xuất theo đúng tiêu chuẩn xây dựng. Vì vậy cần phải quan tâm đặc biệt
đến khâu dự trữ, bảo quản nguyên vật liệu tránh để nguyên vật liệu xuống cấp,
ngoài ra chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc
thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở tạo dựng
mối quan hệ lâu dài, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người
cung ứng đầy đủ kịp thời chính xác đúng nơi cần thiết.
1.3.2.2. Nhóm yếu tố kỹ thuật _công nghệ _thiết bị
Kỹ thuật công nghệ thiết bị có tầm quan trọng đặc biệt, có tác dụng quyết
định việc hình thành chất lượng sản phẩm. Trong sản xuất hàng hoá, người ta sử
dụng và phối trộn nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau về thành phần tính chất và
công dụng. Nắm vững được đặc tính của nguyên vật liệu để thiết kế sản phẩm là
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
điều kiện cần thiết. Song trong quá trình chế tạo, việc theo dõi kiểm soát chất
lượng sản phẩm theo tỷ lệ phối trộn là điều quan trọng để mở rộng mặt hàng, thay
thế nguyên vật liệu xây dựng đúng đắn các chế độ gia công để không ngừng ra
công chất lượng sản phẩm.
Quá trình công nghệ là quá trình phức tạp thay đổi ít nhiều hoặc bổ sung
hoặc cải thiện tính chất ban đầu của nguyên vật liệu theo hướng sao cho phù hợp
với công dụng của sản phẩm vì vậy nó ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản
phẩm. Ngoài yếu tố kỹ thuật, công nghệ cần phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị
kỹ thuật và công nghệ được đổi mới. Những thiết bị cũ thì không thể nâng cao
được chất lượng sản phẩm, nhóm yếu tố này có mối quan hệ tương hỗ khá chặt
chẽ không những góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còng làm
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường tạo nhiều sản phẩm thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng hạ giá thành.


1.3.2.3. Nhóm yếu tố phương pháp, tổ chức quản lý (Methods)
Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một
trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy mạnh tốc độ cải tiến, hoàn thành chất
lượng của doanh nghiệp. Các chuyên gia quản lý chất lượng nói đồng tình cho
răng trong thực tế có 80% những vấn đế chất lượng là quản trị gây ra.Vì vậy nó
đến quản trị chất lượng ngày nay người ta nói rằng, trước hết đó là chất lượng
quản trị.
Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu –Kỹ thuật – công nghệ, thiết bị và
người lao động dù ở trình độ nào nhưng không biết tổ chức quản lý tạo ra rự phối
hợp đồng bộ, nhịp nhàng, ăn khớp giữa các khâu, giữa các yếu tố quản trị sản xuất
thì không thể sản xuất ra một sản phẩm có chất lượng cao được.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị
nhận thức hiểu biết về chất lượng và trình độ của cán bộ quản lý, khả năng xây
dựng chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo sản xuất tôt chức thực
hiện chương trình, kế hoạch chất lượng.Ngày nay, các nhà doanh nghiệp phải nhận
thấy rằng chât lượng sản phẩm là một vấn đề hết sức quản trọng phụ thuộc trách
nhiệm của toàn bộ công ty chứ không thể phó mặc cho các nhân viên kiểm tra chất
lượng sản phẩm hoặc một cá nhân nào được

1.3.2.4. Nhóm nhân tố con người (Men)
Dù cho sản xuất có được sự trợ giúp của máy móc hiện đại,tự động hoá cao
độ thì con người vẫn là yếu tố quyết định đến chất lượng hàng hoá dịch vụ. Trong
chế tạo có thể tự động hoá nhưng con bao nhiêu công việc mà máy móc chưa thay
thế con người: Như nghiên cứu nhu cầu, ý đồ thiết kế sản phẩm (sáng tạo trong
thiết kế ), tổ chức sản xuất ,tổ chức bán hàng. Doanh nghiệp phải biết tạo nên một
tập thể, một tập thể có trình độ lao động giỏi có tay nghề thành thạo, khéo léo,

nắm vững quy trình sản xuất và sử dụng máy móc, thiết bị có kiến thức quản lý
và sử dụng thành thạo có khả năng sáng tạo cao. Cần có những chương trình đào
tạo huấn luyện người lao động, thực hiện nâng cao chât lượng sản phẩm một cách
tự nguyện chứ không bắt buộc, để từ đó mới phát huy được chất lượng công việc
và tính chất quyết định đối với chất lượng hàng hoá dịch vụ.
Ngoài những nhân tố cơ bản trên, còn một khía cạnh nhỏ nữa cũng ảnh
hưởng ít nhiều đến chất lượng hàng hoá dịch vụ của công ty đó là: Bề dày lịch sử
công ty. Vẫn biết rằng chất lượng và giá cả đang là yếu tố quan trọng hàng đầu của
người tiêu dùng nhưng rõ ràng sản phẩm của một công ty danh tiếng sẽ được
khách hàng chú ý hơn so với sản phẩm mới lạ của công ty chưa có tiếng tăm. Khi
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mua sản phẩm của công ty này họ sẽ có cảm giác rằng chất lượng của công ty đó
cao.
1.4. Quản trị chất lượng trong doanh nghiệp
1.4.1. Vì sao phải quản trị chất lượng trong doanh nghiệp.
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, chất lượng hàng hoá dịch vụ
được coi là vấn đề hàng đầu Mấy năm bước vào nền kinh tế thị trường càng thấy
rõ điều này. Thời kỳ trước, tuy vấn đề chất lượng đã được đề ra nhưng trong thực
tế vấn đề số lượng vẫn giữ vị trí chủ yếu, chất lượng thường ở vị trí thứ yếu, có khi
chất lượng còn bị bỏ qua. Trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường
thế giới công tác quản lý doanh nghiệp cần được xem xét trong các yếu tố: Chất
lượng, giá cả, thời gian giao hàng, độ tin cậy đảm bảo chất lượng. Yếu tố độ tin
cậy về đảm bảo chất lượng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cạnh tranh
Chất lượng là vấn đề cầp bách đối với nền kinh tế Việt Nam. Nếu doanh
nghiệp nâng cao được chất lượng sản phẩm, họ sẽ dành thắng lợi trong cạnh tranh,
dành được uy tín thu được lợi nhuận. Chính vì vậy xây dựng một hệ thống quản trị
chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp là hết sức quan trọng và cần thiết

.
1.4.2. Khái niệm, thực chất, chức năng về quản trị chất lượng sản phẩm.
1.4.2.1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản trị chất lượng. Tuy
nhiên những khái niêm này có nhiều điểm tương dồng và phản ánh được bản chất
của quản trị chất lượng.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khoa học quản trị chất lượng được phát triển hoàn thiện liên tục ngày càng
thể hiện đầy đủ hơn bản chất tổng hợp phức tạp của vấn đề chất lượng. Vào những
năm đầu thế kỷ 20 chưa có khái niệm về quản trị chất lượng mà chỉ có khái niệm
về kiểm tra chất lượng. Là việc cung ứng các phương thức các thủ tục, các kiến
thức đảm bảo cho sản phẩm đang hoặc sẽ sản xuất phù hợp cho các yếu tố hợp
đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất với sự tham gia của các
chuyên gia.
Sau những năm 50 cung bắt đầu lớn hơn cầu trên thị trường, điều đó khiến
các doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhiều hơn. Khái niệm
về quản trị bắt đầu xuất hiện. Quan điểm của phương tây cho rằng:”Quản trị chất
lượng là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận khác
nhau trong những tổ chức, trong một đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm triển khai các
thông số chất lượng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng”.
Vào những năm của thập kỷ 70 sự cạnh tranh tăng lên đột ngột đã buộc các
doanh nghiêp phải nhìn nhận lại và thay đổi quan niệm về quản trị chất lượng,
những thay đổi về cách nhìn, về phương pháp quản trị chất lượng trong hàng loạt
các doanh nghiệp lớn trên toàn thế giới. Đặc biệt là ở Nhật, Mỹ và Tây Âu phát
triển để tạo ra cuộc cách mạng trên thế giới. Người ta đã biết đến quản trị chất
lượng theo phương pháp hiện đại dưới những cái tên quen thuộc phổ biến rông rãi
ở Nhật và theo Phương Tây như quản trị chát lượng đồng bộ(TQM).

Theo quan niệm phương Tây:TQM là một hệ thống hoạt động có hiệu quả
nhất của các bộ phận khác nhau, chịu trách nhiệm triển khai, duy trì mức độ đạt
được nâng cao mức chất lương để sử dụng và sử dụng sản phẩm ở mức kinh tế
nhất, nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng với vai trò kiểm tra quan trọng
của các chuyên gia. Theo giáo sư người Nhật Hitoshikume: TQM là một biện pháp
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quản lý đưa đến thàng công, tạo thuận lợi cho tăng trưởng bền vững của một số tổ
chức thông qua việc huy động tất cả các thành viên nhằm tạo ra chất lượng một
cách kinh tế theo yêu cầu của khách hàng .
Theo tiêu chuẩn Iso 8420: 1994(hay TCVN 5814:1994): TQM là cách quản
trị một tổ chức, một doanh nghiệp. Tập trung vào chất lượng dựa vào sự tham gia
của các thành viên nhằm đạt được sự thàng công lâu dài nhờ vào việc thoả mãn
khách hàng và đem lại lợi ích cho các thàng viên của tổ chức đó và cho xã hội đó.
Đặc biệt lớn nhât của TQM là một thay đổi triết lý trong quản trị kinh
doanh chất lượng là số một chứ không phải là lợi nhuận nhất thời. Khẩu hiệu
“Chất lượng là số một” có khía cạnh đạo đức của nó là đi cùng với tổ chức kinh
doanh có trách nhiệm, đạo đức với xã hội. Tuy nhiên đây không phải là mục tiêu
trực tiếp của TQM mà là cách tiếp cận quản lý dựa trên việc đặt chất lượng là số
một. TQM là phương pháp đảm bảo lợi nhuận lâu dài, vì vậy TQM giành được ưu
tiên đòi hỏi khách hàng bằng đề xuất sản phẩm dịch vụ mà họ mong muốn cùng
với nó là việc giảm chi phí sau khi yêu cầu về chất lượng đã đạt được.
Như vậy mặc dù các tác giả có lập luận khác nhau xong đều có nhìn nhận
giống nhau:”Quản trị chất lượng sản phẩm là hệ thống các biện pháp nhằm đảm
bảo chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cấu thị trường với chi phí thấp nhất, có
hiệu quả kinh tế cao nhất , được tiến hành ở tất cả các quá trình hình thành sản
phẩm ( chu kỳ sống của sản phẩm_nghiên cứu_ thiết kế_vận chuyển, bảo quản
tiêu dùng).

1.4.2.2. Thực chất của quản trị chất lượng.
Có thể hiểu quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ tìm
con đường đạt được một cách hiệu quả nhất. Mục tiêu của quản trị chất lượng
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong các doanh nghiệp là đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với
yêu cầu khách hàng với chi phí thấp nhất. Đó là sự kết hợp nâng cao những đặc
tính kinh tế, kỹ thuật hữu ích của sản phẩm đồng thời giảm lãng phí và khai thác
mọi tiềm năng để mở rộng thị trường. Thực hiện tốt công tác quản trị chất lượng
sẽ giúp các doanh nghiệp phản ứng nhanh với nhu cầu thị trường, mặt khác góp
phần giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh.
Thực chất của quản trị chát lượng là tập hợp các hoạt động của chức năng
quản trị như: Hoạch định, tổ chức kiểm soát và điều chỉnh. Nói cách khác quản trị
chất lượng chính là chất lượng quản trị. Đó chính là một hoạt động tổng hợp về
kinh tế, kỹ thuật, xã hội và tổ chức. Chỉ khi nào các yếu tố xã hội, công nghệ và tổ
chức được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ giàng buộc với nhau trong hệ thống
chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm được đảm bảo.
Quản trị chất lượng phải được thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ
thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kĩ thuật biểu thị mức độ nhu cầu thị
trường một hệ thống tổ chức điều khiển và hệ thống chính sách khuyến khích phát
triển chất lượng, chát lượng được duy trì đánh giá thông qua việc sử dụng các
phương pháp thống kê trong quản lí chất lượng. Quản trị chất lượng hiện đại cho
rằng vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt ra và giải quyết trong phạm vi toàn bộ
hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình nghiên cứu thiết kế đến chế tạo,
phân phối và tiêu dùng sản phẩm .
Vì vậy trong cơ chế thị trường hiện nay, để duy trì vị trí của mình trong các
cuộc cạnh tranh, việc quản lí chất lựơng trong các doanh nghiệp đòi hỏi phải dựa
trên một quá trình liên tục mang tính hệ thống, thực hiện việc gắn bó chặt chẽ giữa

doanh nghiệp.
Khoá luận tốt nghiệp, Phạm Thị Xuân - Lớp
Q11T1
25

×