Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

thực trạng và những giải pháp nâng cao hoạt động marketing tại nhà hàng sota

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.56 KB, 48 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường, thầy cô khoa du lịch-trung tâm
thực tập đã tạo điều kiện cho em được cọ xát với thực tế, hiểu rõ hơn nhiệm vụ cũng như
hành trang sau này khi ra trường qua khóa thực tập tại trường.
Em cũng xin cám ơn thầy Lê Ngọc Vinh quản lý công ty lữ hành và cô Nguyễn
Thị Thu Thủy quản lý nhà hàng SOTA đã giúp đỡ, chỉ bảo và tận tình giúp em những
kinh nghiệm thực tế trong ngành trong thời gian em thực tập.
Em cũng cám ơn quý thầy cô, bạn bè và anh chị đi trước đã truyền đạt cũng như
trao đổi những thông tin cần thiết để em hoàn thành bài báo cáo một cách tốt nhất.
Đây cũng là lần đầu tiên em được tìm hiểu thực tế về chương trình mà em được
học tại trường cũng như em học hỏi nhưng anh chị đi trước để làm báo cáo.Tuy nhiên
trong quá trình làm báo cáo không tránh khỏi những sai sót cũng như có khuyết điểm.
Kính mong quý thầy cô xem xét bỏ qua cho em.


Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên Thực Hiện
Trần Thị Vân
LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch là sứ giả hoa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc các quốc gia trên
thế giới. Du lịch được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn mang lại lợi nhuận với tốc độ
cao. Nó mang lại lợi nhuận với tốc độ cao. Nó mang lại nhiều lợi nhuận về kinh tế - xã
hội.Với xu thế nền kinh tế thế giới hiện nay đang phát triển một cách nhanh chóng, nhận
thấy được tầm quan trọng của du lịch cũng như theo kịp xu hướng, Việt Nam cũng đã xác
định ngành du lịch là nền kinh té mũi nhọn của nước nhà.
Trong thành công của mỗi doanh nghiệp, có rất nhiều yếu tố, nhưng không thể không kể
đến vai trò của những chuyên gia marketing chính là chiến lược giúp doanh nghiệp thắng

thế trong cuộc chiến giành chỗ đứng trong tâm trí khách hàng
Marketing hiện là một trong những nghề có nhu cầu lớn nhất. Theo thống kê, 49% bản
tin tuyển dụng ở Việt Nam hiện nay dành cho những vị trí thuộc lĩnh vực Marketing.Đây
là nghề có nhu cầu nhân lực rất lớn vì nền kinh tế càng phát triển người ta càng cần đến
Marketing. Có đến 30% vị trí quản lý doanh nghiệp cấp cao được nắm giữ bởi những
người từng ở các vị trí khác nhau thuộc Marketing. Cơ hội thăng tiến ở nghề này là rất ca.
Marketing , dù mới xuất hiện ở Việt Nam chừng hơn một thập kỉ, đã nhanh chóng trở
thành một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất và thu hút rất nhiều lao động,
những người muốn tìm kiếm cho mình một cơ hội công việc thú vị, lương cao và nhiều
thử thách.
Từ thực tế trong quá trình thực tập cũng như học qua môn marketing du lịch em xin
chọn đề tài:THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG

MARKETING TẠI NHÀ HÀNG SOTA.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING TRONG KINH DOANH NHÀ
HÀNG
1.Khái niệm về marketing,marketing du lịch và marketing nhà hàng:
1.1 Khái niệm marketing:
Marketing đã thay đổi rất nhiều và có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về
Marketing, sau đây là một số định nghĩa marketing được coi là chuẩn mực nhất.
Định nghĩa marketing theo cha đẻ của marketing hiện đại Phillip Kotler
“Marketing là những hoạt động của con người hướng vào việc đáp ứng những nhu cầu và
ước muốn của người tiêu dùng thông qua quá trình trao đổi"
Marketing là :
Quá trình tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra

và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể,
đến sản xuất và đưa hàng hoá đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty
thu được lợi nhuận như dự kiến.
-Định nghĩa thứ 3 :Về marketing được xem là định nghĩa đầy đủ vá đúng nhất về
markeing :"Marketing là khoa học điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu
sản xuất đến khâu tiêu thụ, nó căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói khác
đi là lấy thị trường làm định hướng ".
Song song với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, là sự ra đời của các loại
hoạt động Marketing. Nếu như xưa kia, Marketing truyền thống phù hợp với giai đoạn thị
trường: thị trường của người bán (nhà sản xuất), thì ngày nay, Marketing hiện đại phù
hợp với giai đoạn thị trường: thị trường người mua (người tiêu dùng).
Marketing hiện đại ra đời, để đáp ứng được những nhu cầu của khách hàng. Ngày

nay, khách hàng có quyền lực hơn bao giờ hết, họ có thể kiểm soát việc sản phẩm, dịch
vụ tiêu thụ ở đâu, vào lúc nào, như thế nào, đồng nghĩa với nó là họ sẽ có nhiều sự lựa
chọn, họ ít khi trung thành với một nhãn hiệu nào đó.
Khái niệm Marketing hiện đại được chính Philip Kotler đưa ra nhằm đánh giá sự
tiến bộ của ngành marketing và các quan điểm hiện đại nhất về vấn đề này.
Marketing hiện đại (Modern Marketing) là chức năng quản lý công ty về mặt tổ
chức và quản lý toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc phát hiện ra và biến
sức mua của người tiêu thụ thành nhu cầu thực sự về một sản phẩm cụ thế, dẫn đến việc
chuyển sản phẩm đó đến người tiêu thụ một cách tối ưu (bán cái thị trường cần chứ
không phải là bán cái có sẵn, xuất phát từ lợi ích người mua, coi trọng khâu tiêu thụ, phải
hiểu biết yêu cầu thị trường cùng với sự thay đổi thường xuyên về cả số lượng và chất
lượng cần thỏa mãn).

Điều hết sức quan trọng trong các định nghĩa Marketing trên là các từ "nhu cầu "
"thị trường ", " người tiêu dùng" được nhắc lại rõ ràng nhất, nhiều nhất, và đó cũng chính
là bản chất của Marketing.
Vậy để hiểu rõ hơn về nhu cầu , mong muốn, thị trường là gì ?
* Nhu cầu: Bao gồm những cảm giác thiếu hụt của con người về một cái gì
đó và cần được thỏa mãn. Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu cơ bản được giảm
mạnh và được thay thế bằng nhu cầu được ăn ngon, mặc đẹp, vui chơi, giải trí và hưởng
thụ cuộc sống.
* Mong muốn: Mong muốn là nhu cầu đặc thù, đặc trưng cho một phong tục tập
quán. thói quen tiêu dùng, tôn giáo tín ngưỡng của một khu vực, vùng miền và nó mang
tính khách quan.
* Yêu cầu: Yêu cầu là nhu cầu, là mong muốn kèm theo điều kiện có khả năng thanh

toán. Nhu cầu của con người là vô hạn, trong khi đó nguồn lực để thỏa mãn nhu
cầu, mong muốn và yêu cầu của khách hàng, hay nói cách khác là phải có sự điều tra thu
nhập qua từng thời kỳ.
* Hàng hóa: Hàng hóa là những gì có thể thỏa mãn được nhu cầu của con người và được
phép chào bán trên thị trường dưới sự dẫn dắt của giá cả. Những sản phẩm được sản
xuất ra mà không thỏa mãn được nhu cầu thì không được gọi là hàng hóa.
* Giá trị: Là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng, hay tính năng của sản phẩm.
* Thị trường: Bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong
muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong
muốn đó.
Như vậy, quá trình trao đổi đòi hỏi phải làm việc. Doanh nghiệp muốn bán hàng
thì cần phải tìm người mua, xác định những nhu cầu của họ, thiết kế những sản phẩm phù

hợp, đưa chúng ra xếp vào kho, vận chuyển, thương lượng về giá cả trên thị trường…Nền
tảng của hoạt động Marketing là những việc tạo ra sản phẩm, khảo sát, thiết lập quan hệ
giao dịch, tổ chức phân phối, xác định giá cả, triển khai các dịch vụ.
1.2 Marketing du lịch:
* Khái niệm:
-Marketing du là một triết lý quản trị mà nhờ người nghiên cứu, dự đoán, chọn dựa trên
nhu cầu của du khách nó có thể đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp với
mục đích thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó.
-Marketing du lịch là một loại phương pháp và kỹ thuật được hỗ trợ bằng một tinh thần
đặc biệt và có phương pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu không nói ra hoặc nói ra của khách
hàng có thể là mục đích tiêu khiển hoặc mục đích khác bao gồm công việc gia đình, công
tác hoặc họp hành.

-Marketing du lich là một tiến trình nghiên cứu,phân tích những nhu cầu của khách
hàng,của sản phẩm, dịch vụ du lịch và những phương thức cung ứng, hỗ trợ để đưa khách
hàng đến với sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ,đồng thời đạt được những mục
tiêu của tổ chức.
*Đặc điểm marketing du lịch:
-Trong marketing có 4 chiến lược quan trọng là:
+ Chiến lược sản phẩm.
+Chiến lược giá.
+Chiến lược phân phối.
+Chiến lược xúc tiến.
Marketing là hoạt động tìm hiểu nhu cầu, khám phá nhu cầu và đáp ứng nhu cầu đó một
cách hiệu quả nhất.

Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt gì đó mà con người nhận được, con người có nhiều
nhu cầu đa dạng và phức tạp.Nhu cầu thì vô hạng và thay đổi theo thời gian theo đà phát
triển của xã hội. Xã hội phát triển càng cao thì con người cần có những nhu cầu cao trong
xã hội đó. Nhu cầu con người được sắp xếp theo thứ tự nhất định và có ý nghĩa quan
trọng nhất đến ít quan trọng nhất.
Trong marketing, qua sự sắp xếp thứ bậc về nhu cầu đã chứng minh cho chúng ta
thấy được rằng nhu cầu của con người ngày càng phát triển như hiện nay là quá cao.Với
đất nước đang trên đà phát triển như đất nước ta hiện nay thì nhu cầu cái ăn no, mặc
ấm.Vì vậy sản phẩm cung ứng phải là nhu yếu chứ không phải là nghệ thuật.
1.3 Marketing nhà hàng:
Khái niệm marketing nhà hàng là những phương thức quảng cáo đa dạng mà các nhà
hàng áp dụng để tiếp thị thực đơn của mình. Tuy nhiên, các khái niệm marketing luôn ảnh

hưởng đên tất cả các khía cạnh của nhà hàng trong suốt quá trình quảng cáo
 Các loại khái niệm:
Một khái niệm nhà hàng có thể bao gồm một thực đơn mới. Ví dụ, một nhà hàng
thức ăn nhanh quyết định giới thiệu một một bữa tiệc ngoài trời vài tuần trong suốt mùa
hè. Nhà hàng có thể đặt một cái tên đặc biệt cho bữa tiệc ngoài trời của họ để xây dựng
sự nhận thức về thương hiệu. Sau này, nếu thành công khái niệm về tiệc ngoài trời có thể
được lặp đi lặp lại mỗi năm. Ngoài ra, một số trung tâm đưa ra khái niệm marketing nhà
hàng xung quanh các chủ đề phim ảnh. Do đó, nhà hàng cũng có thể giới thiệu các diễn
viên điện ảnh nổi tiếng hay sưu tầm các bộ phim ngang tầm với phim Hollywood
- Nét đặc trưng :
Hầu hết các khái niệm marketing nhà hàng mới phải có nét đặc trưng trên các bản
thực Đơn. Thêm vào đó, nhà hàng cần thường xuyên lập trình tất cả các mặt hàng và giá

cả mới cho hệ thống tính tiền (Point of sales) hoặc cà thẻ (register system). Tại POP
(điểm mua), nhiều phần quà có thể đi kèm với khuyến mãi. Một nhà hàng cũng sẽ chiếu
chương trình truyền hình và quảng cáo tạp chí đa dạng tập trung xung quanh khái niệm
nhà hàng. Một số nhà hàng cũng sẽ quảng cáo các khái niệm marketing mới của họ trên
các tạp chí thông qua phiếu giảm giá, thường được phân phối qua thư.
-Thử nghiệm khái niệm
Hầu hết các nhà hàng đều thử nghiệm những khái niêm marketing khác nhau. Ví dụ,
một chuỗi bữa ăn bình thường có thể tiến hành những cuộc khảo sát qua điện thoại về
nghiên cứu thị trường ở một vài thị trường then chốt. Chuỗi nhà hàng có thể trao đổi với
những khách hàng tìm năng và không tiềm năng để đạt được một tiêu chuẩn chính xác
về thương hiệu và nhận thức quảng cáo, bên cạnh đó cũng sẽ quan tâm đến sở thích của
khách hàng trong đề tài marketing và sản phẩm mới. Nhà hàng cũng sẽ chú ý đến việc

khách hàng có muốn mua những sản phẩm mới và khuyến mãi nữa hay không. Cuối
cùng, nhà hàng cũng sẽ quan tâm đến lợi nhuận của mình trong đợt khuyến mãi.
-Lợi ích:
Theo tập đoàn tiếp thị, nhà hàng giới thiệu những khái niệm tiếp thị khác nhau để
tăng tần suất khách hàng. Tuy nhiên nếu thực hiện cùng chính sách ưu đãi trong một thời
gian sẽ làm khách hàng nhàm chán.
- Những cân nhắc
Nhà hàng sẽ luôn luôn duy trì sự đồng nhất về thực đơn của mình khi giới thiệu các khái
niệm marketing khác nhau. Có lẽ, món ăn mới có thể trở thành món ăn chính trong thực
đơn.
1.4. Nội dung hoạt động về marketing trong kinh doanh nhà hàng:
1.4.1.Công tác tổ chức bộ phận Marketing trong nhà hàng:

Bộ phận marketing nói chung có vai trò và vị trí quan trọng trong quá trình nghiên
cứu sản xuất và tiêu thụ.Trong doanh nghiệp vai trò vị trí của marketing trải qua 4 giai
đoạn.
+Giai đoạn 1: phó giám đốc phụ trách quản lý nhân lực của bộ phận marketing và khâu
quảng cáo,nghiên cứu và tiếp thị.
+Giai đoạn 2: trong giai đoạn này hình thành bộ phận marketing riêng biệt với một giám
đốc tiếp thị vì nhu cầu nghiên cứu, quảng cáo dịch vụ khách hàng phát triển.
+Giai đoạn 3: tồn tại song song với phó giám đốc tiếp thị và phó giám đốc kinh doanh do
nhu cầu dịch vụ và khách hàng phát triển.
+Giai đoạn 4: Có sự xung đột giữa hai phó tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc bán hàng
thường nghĩ đến kế hoạch ngắn hạn và bán được nhiều sản phẩm.Trái lại phó tổng giám
đốc có tầm nhìn xa nghĩ đến sản phẩm và nghĩ đến thị trường lâu dài đôi khi hy sinh kế

hoạch ngắn hạn. Chính vì vậy tổng giám đốc để cho phó giám đốc marketing phụ trách
toàn bộ các chức năng tiếp thị kể cả bán hàng.
Để quản trị lực lượng bán hàng và Marketing,những đơn vị cung ứng phải thực
hiện những bước trong quá trình hình thành bộ máy thương mại sau :
-Xác định nhiệm vụ của bộ phận Marketing và bán sản phẩm.
-Thực hiện cơ cấu tổ chức hay hoạch định chiến lược của lực lượng bán sản phẩm.
-Tuyển chọn nhân viên và đại diện.
-Huấn luyện lực lượng sản phẩm và Marketing.
-Kiểm tra lực lượng bán sản phẩm.
-Đánh giá kết quả và có chế độ đãi ngộ.
Để việc tổ chức marketing trong nhà hàng một cách hợp lý,thiết lập phân chia rõ
ràng nhưng cầ kết hợp các khâu chặt chẽ nhằm:

+Tìm kiếm và thu hút khách hàng mới.
+ Phổ biến về thông tin sản phẩm,dịch vụ của đơn vị mình.
+Tiếp xúc với khách hàng.
+Cung ứng dịch vụ.
+Nghiên cứu thị trường,thu thập thông tin cập nhật về thị trường khác tiềm năng.
1.4.2. Vai trò của Marketing trong chiến lược của doanh nghiệp:
Từ khi ra đời thì các doanh nghiệp đã nắm lấy công cụ Marketing này để quản lý
quá trình kinh doanh và để lập chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Vai trò của
Marketing trong chiến lược của doanh nghiệp là rất khác nhau, nó phụ thuộc vào quá
trình phát triển của Marketing. Có thể chia ra một số giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Thập kỷ 70 của thế kỷ 19, người ta đánh giá vai trò của Marketing theo sơ
đồ bên. Marketing có vai trò ngang với các yếu tố sản xuất, tài chính, lao động.

- Giai đoạn 2: Từ những thập kỷ 20-30 của thế kỷ 20. Marketing có vai trò quan trọng
hơn các yếu tố khác (sản xuất, tài chính, lao động)
- Giai đoạn 3: Từ thập kỷ 30 đến chiến tranh thế giới thứ hai, Marketing có vai trò, chức
năng trung tâm và chủ yếu do sản xuất phát triển nhanh.
- Giai đoạn 4: Từ thập kỷ 70 cho đến nay, Marketing có vai trò ngang bằng các yếu tố
khác (sản xuất, tài chính, lao động). Người mua đóng vai trò trung tâm. Ngoài ra còn có
quan điểm cho rằng trong giai đoạn 4 này thì người mua đóng vai trò trung tâm và
Marketing đóng vai trò liên kết giữa người mua và các yếu tố khác.
Vậy, qua sự phát triển của sản xuất hàng hoá và của Marketing các nhà kinh doanh
đã khẳng định được vị trí của Marketing và chiến lược chung Marketing trong chiến lược
của mỗi doanh nghiệp.
 Phương hướng cơ bản của chiến lược Marketing:

- Chiến lược Marketing phải tập trung vào những nhân tố then chốt trong kinh doanh
của doanh nghiệp. Các nhân tố này chính là thị trường và môi trường kinh doanh của
doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp biết thu thập xử lý và vận dụng các nhân tố này một
cách thích hợp thì nó sẽ tạo nên sự thành công trong chiến lược Marketing cho doanh
nghiệp.
- Chiến lược Marketing phải tạo ra được ưu thế tương đối: phải tiến hành nghiên cứu
các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp sẽ tìm ra điểm mạnh, điểm yếu
của sản phẩm mình để không ngừng đổi mới. Đôi khi ta sẽ đối đầu vơí các đối thủ cạnh
tranh nhưng lại có lúc liên doanh liên kết, tìm kẽ hở của đối thủ cạnh tranh trên thị trường
cho doanh nghiệp.
- Chiến lược Marketing phải chọn đúng hướng quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp: với năng lực, tài nguyên và những kinh nghiệm sẵn có thì doanh nghiệp

phải biết không nên đổi mới cùng một lúc nhiều mặt sao cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường. Doanh nghiệp phải đi từ kế hoạch ngắn hạn sang kế hoạch dài hạn để đổi mới
dần. Tức là doanh nghiệp phải chọn mình một hướng đi đúng để thụ được lợi nhuận cao
nhất trong kinh doanh.
 Phương pháp xác lập chiến lược Marketing:
Quá trình xác lập chiến lược Marketing bao gồm 4 giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Xác định mục tiêu của chiến lược.
- Phân tích, dự đoán các khả năng có thể có và những yêu cầu bắt buộc.
- Xác lập các phương án, chiến lược có thể có.
- Đánh giá và lựa chọn phương án chiến lược.
 Xác định mục tiêu của chiến lược:
Có thể cân bằng các mục tiêu theo những nội dung sau:

- Xác lập trình tự ưu tiên các mục tiêu: sắp xếp các mục tiêu theo mức độ và tầm
quan trọng của các mục tiêu theo thứ tự.
- Điều chỉnh các mục tiêu bằng cách xây dựng một hệ thống số cho từng loại mục
tiêu. Các hệ số này biểu thị tầm quan trọng của mỗi mục tiêu. Việc lựa chọn sẽ được thực
hiện tuỳ theo giá trị chung của các mục tiêu, hướng đi đúng phải dựa trên cơ sở căn cứ
khoa học và nó có vai trò quan trọngđến việc quyết định sự tồn tại, phát triển của doanh
nghiệp. Nhưng nhìn chung khi xem xét đánh giá các hướng đi của chiến lược nhằm mục
đích tránh lãng phí tiền của, thời gian và nhân lực của doanh nghiệp.
- Quy định giới hạn (ngưỡng) của các mục tiêu: quy định cho tất cả các mục tiêu, các
giới hạn mà chúng buộc phải đạt được và chỉ tập trung vào mục tiêu bao trùm, có nghĩa là
phải giới hạn các mục tiêu khác và tìm mọi cách tăng tối đa các mục tiêu bao trùm.
 Phân tích, dự đoán các khả năng có thể có và những yêu cầu bắt buộc:

Sau khi đã xác định được các mục tiêu trước mắt thì doanh nghiệp bắt đầu vạch ra chiến
lược có thể đạt được những mục tiêu đó. Doanh nghiệp phải tiến hành phân tích các khả
năng, các tài nguyên mà doanh nghiệp có cũng như yêu cầu không thể thay thế mà doanh
nghiệp phải tính đến. Việc phân tích này dựa trên 2 phương diện:
 Phương diện doanh nghiệp:
Quá trình đề ra các chiến lược trước hết phải tính đến các mặt mạnh, mặt yếu của doanh
nghiệp và những yêu cầu bắt buộc này sinh từ trong ra mà chiến lược Marketing phải tính
đến.
- Nguồn tài chính mà doanh nghiệp dành cho Marketing.
- Khả năng tăng năng lực hiện có, khả năng nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, mua
bằng sáng chế phát minh của doanh nghiệp.
- Điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm hiện tại hay dự kiến sản xuất trong tương lai.

- Nguồn nhân lực có thể sử dụng về các mặt kiến thức, kinh nghiệm, thời gian có thể sử
dụng của cán bộ công nhân viên.
- Những cơ hội và nguy cơ của doanh nghiệp trong tương lai.
 Về phương diện thị trường:
Cần phân tích những yêu cầu bắt buộc về cơ cấu môi trường và thị trường, cũng như
những yêu cầu bắt buộc có tính chất pháp luật mà chiến lược Marketing của doanh
nghiệp phải tính tới:
- Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: cơ cấu của môi trường và thị trường mà
doanh nghiệp cần thích ứng
- Môi trường pháp lý: Những yêu cầu bắt buộc do luật pháp qui định về giá, về chất
lượng sản phẩm
- Dung lượng thị trường, số lượng người tiêu thụ, cơ cấu các kênh phân phối

- Môi trường văn hoá xã hội: tập quán, thói quen, sở thích, mốt của người tiêu dùng.
- Môi trường cạnh tranh: cơ cấu về cạnh tranh, thế lực của các đối thủ cạnh tranh
 Xác lập các phương án, chiến lược có thể:
Ở trong giai đoạn này thì doanh nghiệp có thể xây dựng một hoặc nhiều chiến lược
Marketing theo những mục tiêu đã định trên cơ sở phân tích, dự đoán những khả năng có
thể sử dụng và các yêu cầu bắt buộc đưa ra.
Thường là không thể liệt kê đầy đủ tất cả các chiến lược có thể có vì thực tế chúng là con
số không thể xác định. Tuy vậy các doanh nghiệp cần xác định nhiều chiến lược xen kẽ
để đánh giá, so sánh và lựa chọn được chiến lược tối ưu nhất. Việc lập một phương án
chiến lược có thể có thường được thực hiện theo 4 vấn đề sau:
 Lựa chọn đối tượng thực hiện:
Lựa chọn đối tượng thực hiện chiến lược chính là lựa chọn thị trường mục tiêu của

doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể có quan tâm tới toàn bộ thị trường hay các phân đoạn
của thị trường.
Do nhiều hạn chế về tài nguyên, sức cạnh tranh quá gay gắt thì các doanh nghiệp
chỉ nên lựa chọn các đoạn thị trường mà doanh nghiệp đã quan tâm, tránh tình trạng cố
gắng đột nhập vào toàn bộ thị trường. Khi doanh nghiệp đã lựa chọn được phân đoạn thị
trường nào đó thì họ cần quan tâm khai thác mạnh mẽ, cạnh tranh hoặc mở rộng thị
trường của phân đoạn thị trường đã lựa chọn. Ví như các Tổng công ty công trình giao
thông thì họ quan tâm đén toàn bộ thị trường xây dựng giao thông, còn các Công ty Cầu
thì họ chỉ chú ý đến đoạn thị trường về xây dựng cầu, tuy nhiên những công ty này vẫn
chú ý và tìm cách mở rộng thị trường khác nữa(thị trường xây dựng đường ).
Trên thực tế, doanh nghiệp có thể lựa chọn một hoặc nhiều mục tiêu được xác định
theo khu vực, dân cư, mức độ tăng trưởng kinh tế, theo khách hàng sử dụng sản phẩm của

doanh nghiệp. Đây chính là tiêu chuẩn lựa chọn quan trọng giữa việc khai thác tối đa
người tiêu dùng hiện tại, đấu tranh cạnh tranh để mở rộng thị trường.
• Khi lựa chọn đối tượng thực hiện chiến lược, doanh nghiệp sẽ dựa vào điều kiện
cụ thể của mình để lựa chọn một hoặc một số phân đoạn thị trường trong 4 phân đoạn thị
trường phổ biến sau:
- Những khách hàng độc quyền hiện tại của doanh nghiệp: Là những khách hàng
đã mua và chỉ mua sản phẩm của doanh nghiệp.
- Những khách hàng hỗn hợp của doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh: Là
những khách hàng vừa mua sản phẩm của sản phẩm của doanh nghiệp vừa mua sản phẩm
của đối thủ cạnh tranh.
- Những khách hàng của đối thủ cạnh tranh: Là những khách hàng chỉ mua sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh.

- Những khách hàng chưa quan tâm, chưa mua sản phẩm của doanh nghiệp và cả
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
• Trên cơ sở phân đoạn này, hình thành 3 quan điểm chiến lược cần thiết của doanh
nghiệp:
- Triệt để lợi dụng khách hàng hiện có của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là
doanh nghiệp phải quan tâm đến 2 giai đoạn đầu để làm cho khách hàng có thiện cảm và
mua nhiều hàng hoá hơn (nếu là khách hàng độc quyền như các Ban quản lý dự án) hoặc
để làm cho họ “ nhớ “ đến doanh nghiệp (nếu là khách hàng hỗn hợp).
- Đấu tranh có tính chất cạnh tranh tức là doanh nghiệp phải quan tâm đến giai
đoạn 3 nhằm tạo cho khách hàng thoát khỏi kẻ cạnh tranh với doanh nghiệp.
- Mở rộng thị trường tức là phát triển đến “nhu cầu tối thiểu” bằng cách tiếp cận
nhanh vào giai đoạn 4, đoạn bỏ trống của người khác.

Việc lựa chọn 1 hoặc nhiều mục tiêu phụ thuộc vào tiềm năng hay dung lượng của
mỗi đoạn thị trường, vào sự tếp nhận chắc chắn của doanh nghiệp và khả năng thực tại
của doanh nghiệp.
Lựa chọn chiến lược duy nhất hoặc chiến lược phân biệt:
Dù mục tiêu là toàn bộ thị trường hay chỉ một phần thị trường thì vấn đề đặt ra là
áp dụng chiến lược duy nhất hay chiến lược phân biệt.
Chiến lược duy nhất là chiến lược cung cấp cho toàn bộ thị trường những sản
phẩm cùng loại với mức giá giống nhau và cùng theo một kênh phân phối và cùng một
chính sách giao tiếp trên thị trường.
Chiến lược phân biệt là chiến lược áp dụng những biện pháp khác nhau của từng
đoạn thị trường hoặc cụ thể đối với từng đối tượng khách hàng có nghĩa là thay đổi một
số yếu tố của Marketing để phù hợp với những đặc điểm cụ thể của từng phân đoạn thị

trường.
Việc lựa chọn chiến lược nào phụ thuộc chủ yếu vào:
- Tính thuần nhất hay không thuần nhất của thị trường lựa chọn.
- Khả năng của doanh nghiệp.
Trên thực tế, chiến lược phân biệt có hiệu quả hơn khi doanh nghiệp đột nhập vào thị
trường không thuần nhất và thường tốn kém hơn khi vận dụng.
 Xác định tinh thần của chiến lược:
Đối với mục tiêu toàn bộ thị trường hay mỗi đoạn thị trường nếu doanh nghiệp áp
dụng chiến lược Marketing phân biệt thì cần phải xác định tinh thần của chiến lược này
với việc đánh giá vị trí sản phẩm mà doanh nghiệp muốn bán và các nhân tố thúc đẩy mà
doanh nghiệp sẽ dựa vào đó:
- Vị trí của sản phẩm: Được xác định so với sản phẩm cạnh tranh. Vị trí này được xác

định theo chất lượng, giá cả, cơ hội tiêu thụ, hình ảnh
- Các nhân tố thúc đẩy để đảm bảo sự thành công của sản phẩm: Là các mặt của
Marketing-Mix mà doanh nghiệp sẽ tính đến là:
+ Tính độc đáo và ưu việt của sản phẩm.
+ Quy trình sản xuất sản phẩm tiên tiến.
+ Giá cả vừa phải.
+ Phương thức thanh toán thuận tiện.
+ Chính sách yểm trợ mềm dẻo
Chính sự kết hợp các yếu tố trên sẽ xác định “tinh thần” chung chủ yếu của chiến lược
Marketing.
 Xác định Marketing-Mix:
Thực hiện việc xác lập các bộ phận cấu thành của Marketing hỗn hợp cũng như sự phối

hợp một cách liều lượng hợp lý giữa các bộ phận đó, bao gồm: chính sách sản phẩm,
chính sách phân phối và chính sách yểm trợ.
 Nội dung của chiến lược Marketing trong doanh nghiệp:
Qua sự phân tích mục tiêu và vai trò của chiến lược Marketing trong doanh nghiệp thì ta
thấy có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Do đó nội dung của chiến lược Marketing bao
gồm:
- Chiến lược chiếm lĩnh thị trường:
+ Chiến lược Marketing phân biệt.
+ Chiến lược Marketing không phân biệt.
+ Chiến lược Marketing tập trung.
- Chiến lược định vị hàng hoá:
+ Cạnh tranh với sản phẩm có sẵn.

+ Chiếm lĩnh một vị trí mới.
- Chiến lược cạnh tranh:
+ Chiến lược phân biệt hoá trong cạnh tranh.
+ Chiến lược tập trung hoá trong cạnh tranh.
- Chiến lược Marketing từ sự phân tích ma trận “sản phẩm-thị trường “:
+ Chiến lược thâm nhập sâu vào thị trường hiện có.
+ Chiến lược phát triển thị trường mới.
+ Chiến lược cải tiến và đổi mới sản phẩm.
+ Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm.
- Chiến lược Marketing từ sự phân tích ma trận” thị phần-tỉ lệ tăng trưởng”:
+ Chiến lược phát triển thị phần.
+ Chiến lược duy trì và phát triển thị phần hiện tại

- Chiến lược Marketing theo vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp:
+ Chiến lược của người dẫn đầu thị trường.
+ Chiến lược của người thách thức thị trường.
+ Chiến lược của người theo sau thị trường.
+ Chiến lược của người nép góc.
- Chiến lược cho chu kỳ sống của sản phẩm:
+ Các chiến lược cho giai đoạn phát triển sản phẩm.
+ Các chiến lược cho giai đoạn tăng trưởng sản phẩm.
+ Các chiến lược cho giai đoạn chín muồi.
+ Các chiến lược cho giai đoạn suy thoái.
- Chiến lược về giá:
+ Chiến lược giá hốt phần ngon.

+ Chiến lược giá thấp nhằm bám chắc thị trường.
+ Chiến lược điều chỉnh giá.
+ Chiến lược hạ giá
1.4.3. Ý nghĩa- Tầm quan trọng của việc vận dụng marketing trong kinh doanh nhà
hàng:
Xây dựng chiến lược Marketing là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của mỗi doanh
nghiệp nhằm thực hiện có hiệu quả nhất ba mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Trong
nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
doanh nghiệp đó phải tiến hành huy động mọi nguồn lực, phải biết điều hành tổng hợp
mọi yếu tố nhằm đạt được mục tiêu đã định sẵn. Thông qua chiến lược Marketing, doanh
nghiệp có thể phát huy hết nội lực hướng vào những cơ hội hấp dẫn trên thị trường và vì
thế sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh

trong quá trình mở cửa và tự do hóa nền kinh tế. Vai trò của Marketing nói chung đã
không còn mới mẻ nữa nhưng thực hiện các hoạt động đó như thế nào để có hiệu quả
nhất lại là mối trăn trở quan tâm của các nhà quản trị kinh doanh. Du lịch ở Việt Nam
trong thời gian vừa qua đã tạo được sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng.
Kết quả này đạt được là nhờ sự tác động của rất nhiều nhân tố, trong đó có sự góp mặt
của nhân tố Marketing. Tuy nhiên, ta dễ thấy rằng vai trò của nhân tố ứng dụng
Marketing vào hoạt động kinh doanh còn hết sức là hạn chế. Đất nước ta mới mở cửa với
thế giới bên ngoài, tiềm năng to lớn về phát triển kinh tế cũng như du lịch.
Xác định nhu cầu của khách hàng, thiết lập và lãnh đạo tiến trình đổi mới.
Phối hợp với các hoạt động nghiên cứu và phát triển khác để thúc đẩy tiến trình
thực hiện các sản phẩm mới, và nó là nhân tố quan trọng nhất tác động đến thành công
của một sản phẩm.

Giúp doanh nghiệp chỉ ra được những xu hướng mới, nhanh chóng trở thành đòn
bẩy, biến chúng thành cơ hội, giúp cho sự phát triển chiến lược và sự lớn mạnh lâu bền
của công ty.
Chuyển từ quan điểm theo đuổi việc bán hàng sang quan điểm tạo ra khách hàng.
Trước kia, nhà sản xuất hay cung ứng dịch vụ chỉ chạy theo khách hàng, nay họ biết đi
trước, đón đầu để nắm bắt thị hiếu khách hàng, chủ động đáp ứng nhu cầu này. Thậm chí
họ chủ động khơi gợi nhu cầu của khách hàng.Đưa ra sản phẩm đảm bảo chất lượng đồng
thời giá cả phù hợp với từng đối tượng, tạo ra cầu nối giứa khánh hàng với nhà sản xuất
một cách gần nhất, tránh bị nâng giá mà nhà sản xuất không kiểm soát được.
-Chú trọng các mối quan hệ:
Marketing truyền thống chỉ chú ý đến các giao dịch còn marketing hiện đại chú trọng
không chỉ giao dịch mà còn là các mối quan hệ với khách hàng. Quan điểm cũ làm cho

việc kinh doanh trở nên thô thiển và thực dụng song không có chiều sâu và sự bền lâu.
Quan điểm mới chú ý xây dựng, vun đắp các quan hệ với khách hàng nên tổng đầu tư cho
giao dịch lại giảm xuống mà hiệu quả tăng lên. Như vậy, Marketing hiện đại chú trọng rất
lớn đến việc tạo mối quan hệ bền chặt với khách hàng.
-Chú trọng giành và giữ khách hàng:
Như chính Philip Kotler đã nhấn mạnh: “Trong marketing hiện đại, song song với việc
thiết kế một hỗn hợp marketing tốt nhất để bán được hàng, ngày càng có xu hướng chú
trọng hơn đến việc thiết kế hệ thống các mối quan hệ khách hàng tốt nhất để giành lấy và
giữ khách hàng”.
-Thỏa mãn và duy trì sự trung thành của khách hàng:
Thay vì đánh giá hiệu quả Marketing là phục vụ cho bán được nhiều hàng, ngày nay
các tiêu chí đánh giá quan trọng nhất với marketing hiện đại lại là những nhân tố vô hình,

đó là “thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng” và “duy trì tối đa lòng trung thành
của khách hàng”.
-Ảnh hưởng của tư tưởng Marketing hiện đại:
Tư tưởng marketing hiện đại đã ảnh hưởng đến nhận thức, hành xử của toàn bộ
ngành marketing. Trận chiến mới của các công ty là trận chiến để giành chỗ trong tâm trí
khách hàng, giành lấy “top of mind” của khách hàng.
Từ thay đổi này đã dẫn đến các phương pháp làm việc mới, các cách tiếp cận mới, nhân
bản và cũng tinh vi hơn.
Hơn thế nữa, tư tưởng marketing hiện đại còn tác động đến cả hành xử của nhà sản
xuất hay cung ứng dịch vụ với các nhà thầu phụ và nhà phân phối của mình. Họ bắt đầu
coi nhà thầu phụ và nhà phân phối là đối tác thay vì coi là khách hàng và đối xử tương
ứng theo nguyên tắc win – win.

Marketing không chỉ mang lại lơi ích riêng cho ngành nhà hàng còn mang lại rất
nhiều lợi ích cho hoạt động kinh doanh của tất cả các ngành.giúp cho doanh nghiệp hiểu
được nhu cầu của khách hàng cần gì ở doanh nghiệp.
1.4.4 Chiến lược Marketing chung của doanh nghiệp:
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình thì mọi doanh nghiệp đều phải nhì về
phía trước với những mục tiêu cần đạt tới và những cách thức để đạt được mục tiêu đó.
Ngày nay các công việc quản lý dựa trên những kinh nghiệm, trực giác và sự khôn ngoan
không thể là một sự đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp. Vì vậy một chiến lược
sẽ được thiết lập ra để phát triển các hoạt động của doanh nghiệp là điều cần thiết. Chiến
lược nói chung được hiểu là những đường lối, những chính sách và phương hướng hoạt
động của một tổ chức kinh tế nào đó. Chiến lược sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy rõ hơn
mục tiêu chỉ đạo, sự phối hợp các hoạt động được hoàn hảo hơn. Đồng thời nó giúp cho

các nhà quản trị suy nghĩ có hệ thống những vấn đề kinh doanh nhằm mang lại những
chuyển biến tốt đẹp hơn cho doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp đều có chiến lược của mình và trong quản lý theo chương
trìnhcó mục tiêu của mình thì người ta thường chia ra các cấp:
- Chiến lược chung: thường đề cập đến những vấn đề quan trọng, bao trùm lâu dài. Chiến
lược chung quyết định đến những vấn đề sống còn của doanh nghiệp như tốc độ tăng
trưởng, chiến lược thị trường, chiến lược tài chính, chiến lược con người Nó bao gồm
các nội dung sau:
+ Nhịp độ tăng trưởng và trình độ đạt tới về phát triển doanh nghiệp.
+ Lựa chọn phương thức sản xuất của doanh nghiệp.
+ Mục tiêu về tài chính, hiệu quả sản xuất và phân phối trong doanh nghiệp.
+ Các quyết định liên quan đến vấn đề tổ chức bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.

- Chiến lược bộ phận: Là chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ, chiến
lược chung Marketing, chiến lược đào tạo Như vậy chiến lược chung Marketing là
chiến lược bộ phận, thực chất nó là chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các chính sách.
- Các biện pháp.
Tuỳ theo những điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà chiến lược Marketing được
xây dựng vào những thời điểm khác nhau, đó là:
+ Doanh nghiệp đưa ra thị trường sản phẩm mới, mặt hàng mới hoặc tham gia vào một
khu vực thị trường mới.
+ Doanh nghiệp lập các kế hoạch hoạt động và dự kiến chi tiêu tài chính hàng năm.
+ Điều chỉnh lại kế hoạch của doanh nghiệp.
Cũng giống như các doanh nghiệp cá BASA ở nước ta hiện nay muốn tham gia

vào Châu Âu, Châu Mĩ thì phải đặt ra một chiến lược Marketing thật đầy đủ, chính xác
và kịp thời để từ đó tránh được những rủi ro trong kinh doanh mà đem lại lợi nhuận cao.
Do vậy việc xây dựng chiến lược chung Marketing đúng tại thời điểm đảm bảo
cho các chiến lược có độ chính xác cao, độ tin cậy lớn và có căn cứ đầy đủ. Và điều này
sẽ tạo đà cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.

Sơ đồ tổ chức chiến lược của nhà hàng
(Nguồn:Nguyễn Văn Mạnh năm 1998)
 Những mục tiêu của chiến lược chung Marketing:
Mục tiêu của chiến lược chung Marketing là cáiđích phải đạt tới của hoạt động
Marketing. Trong thực tiễn cho ta thấy khi doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh thì
việc xác định mục tiêu được đưa lên hàng đầu. Những mục tiêu này đều do doanh nghiệp

đặt ra và nó ở mức độ nào tuỳ thuộc vào năng lực, khả năng chủ quan của doanh nghiệp,
tuỳ thuộc vào các yếu tố khách quan của thị trường, của môi trường kinh doanh bên
ngoài.
Do đó khi doanh nghiệp đưa ra chiến lược Marketing đều có những mục tiêu nhất
định, đó là: lợi nhuận, tạo thế lực trong kinh doanh, an toàn trong kinh doanh, bảo đảm
chỗ làm việc và bảo vệ môi trường,
 Mục tiêu lợi nhuận:
Để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục được duy trì và phát triển
thì doanh nghiệp cần phải có tình hình tài chính ổn định và đảm bảo, tức là kinh doanh
phải có lãi. Vì thế mục tiêu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất để doanh nghiệp tiếp tục
tái sản xuất mở rộng đó là lợi nhuận. Đồng thời chỉ có lợi nhuận mới giúp doanh nghiệp
trang bị máy móc thiết bị mới, đưa công nghệ vào sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc

cho người lao động.
Lợi nhuận trở thành động lực to lớn đối với các nhà kinh doanh. Các doanh nghiệp
thường tối đa hoá lợi nhuận tức là lợi nhuận đạt được cao nhất trong điều kiện cho phép.
Và các nhà kinh doanh không những quan tâm đến số tương đối, số tuyệt đốimà còn quan
tâm đến tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận.
Xây dựng chiến lược chung Marketing đòi hỏi phải tính được lợi nhuận cho từng loại
sản phẩm, dịch vụ trong từng thời gian. Nhưng các nhà kinh doanh vẫn quan tâm nhất
đến lợi nhuận cho cả kỳ hoạt đông sản xuất kinh doanh.
 Mục tiêu tạo thế lực trong kinh doanh:
Khi xây dựng chiến lược chung Marketing phải xác định được thế lực trong kinh
doanh. Doanh nghiệp nào cũng muốn sau một thời gian thì doanh nghiệp sẽ đạt được sự
tăng trưởng, phát triển và có thế lực nhất định trên thị trường. Thế lực ấy thể hịên ở:

- Sản phẩm chiếm lĩnh được trên thị trường ngày càng lớn. Ví như trong thị trường
máy vi tính thì sản phẩm của Hãng Compag đang chiếm lĩnh thị trường, cũng giống như
nhắc đến bột giặt ở Việt Nam thì ai cũng nhắc đến bột giặt ÔMÔ vì sản phẩm này đang
chiếm lĩnh thị trường.
- Vai trò và vị trí của doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh. Trong xây dựng
giao thông thì vai trò và vị trí của doanh nghiệp thể hiện qua số lượng các hợp đồng trúng
thầu, các hợp đồng chỉ định thầu
- Xu hướng chống độc quyền trong kinh doanh: trên thị trường bao giờ cũng có nhân
tố chống lại sự độc quyền. Nhưng bằng những thủ đoạn thì các doanh nghiệp vẫn luôn
muốn có sự độc quyền, chính điều này đã làm cho sự cạnh tranh trên thị trường diễn ra
ngày càng gay gắt.
 Mục tiêu an toàn trong kinh doanh:

Kinh doanh bao giờ cũng chứa đựng mạo hiểm. Bởi vì người ta phải bỏ ra một lượng
vốn rất lớn, sau một thời gian nào đó mới có thể thu lại được. Sự thu lại đó thì phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố mà doanh nghiệp khó có thể kiểm soát nổi. Do vậy, các phương
án kinh doanh của doanh nghiệp phải dự kiến được khả năng an toàn của các phương án
kinh doanh.
Tuy nhiên trong kinh doanh cũng phải biết mạo hiểm, dám đầu tư vào những sản
phẩm, những lĩnh vực độc đáo như tham gia vào thị trường chứng khoán, mua chứng
khoán Khi đó để đảm bảo an toàn, chống lại nguy cơ bị phụ thuộc hoàn toàn vào một
thị trường, một sản phẩm thì doanh nghiệp phải thực hiện chính sách đa dạng hoá sản
phẩm, tìm tòi sản phẩm mới, thị trường mới để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong tương lai.
 Mục tiêu bảo đảm việc làm và bảo vệ môi trường:

Ngoài những mục tiêu như trên thì chiến lược chung Marketing còn đến việc bảo đảm
việc làm ổn định cho người lao động và cho họ mức thu nhập ổn định. Từ đó mới nâng
cao đời sống xã hội và giúp cho xã hội ngày càng phát triển.
Vấn đề bảo vệ môi trường là một trong những yêu cầu bắt buộc mà Nhà nước yêu cầu
doanh nghiệp thực hiện. Có hàng nghìn doanh nghiệp phát triển trong khi họ đang phá
huỷ môi trường. Họ không lường thấy hết những tác hại đó, do vậy Nhà nước cần có
những biện pháp xử lý nghiêm minh để sự phát triển của doanh nghiệp là sự phát triển
toàn diện.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG MARKETING TRONG KINH
DOANH NHÀ HÀNG SOTA
2.1 Tổng quan về đơn vị thực tập
2.1.1. Vị trí:

Nhà hàng SOTA nằm trên đường Phan Văn Hớn số 53/1 khu phố 5 phường Tân
Thới Nhất,quận 12 TP.Hồ Chí Minh. Đây là một điểm hẹn cho những phút giây thư giãn
giao lưu, với bạn bè,gia đình và cùng thưởng thức những thức uống mới lạ với nhiều
hương vị đặc biệt được chế biến từ batender chuyên nghiệp. Bên cảnh đó khung cảnh nơi
đây được trang trí bởi màu xanh lá cây, một màu êm dịu,tươi mát tạo nên khung cảnh gần
gũi với thiên nhiên,giúp quý khách có những trải nghiệm như đang được thư giãn cùng
bạn bè.
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển:
TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ DU LỊCH SÀI GÒN được
thành lập vào ngày 17.10.2006, theo quyết định số 5845/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo, do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nguyễn Thiện Nhân ký quyết định. Hằng năm, trường tổ chức lễ khai giảng vào ngày

17/10, đây cũng là ngày truyền thống của trường.
Trường là một cơ sở đào tạo đa ngành, có mục tiêu đào tạo sinh viên thành những
cán bộ có trình độ chuyên môn, có năng lực thực hành chuyên nghiệp trong các lĩnh vực:
Văn hóa, Nghệ thuật, Du lịch và Kinh tế, có tri thức đạo đức nghề nghiệp và có khả năng
thích ứng, sáng tạo trong xu thế hội nhập – cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn
nhân lực của TP.HCM và cả nước.
Được phép của Bộ Giáo dục & Đào tạo, tháng 11/2006, trường bắt đầu tuyển sinh
và đào tạo khóa 1 bậc Cao đẳng chính qui, thuộc 4 nhóm ngành: Văn hóa, Nghệ thuật, Du
lịch, Kinh tế và bậc Trung cấp chuyên nghiệp. Năm 2007 là năm đầu tiên trường có học
sinh Trung cấp chuyên nghiệp tốt nghiệp. Từ năm 2008, trường phát triển thêm nhiều
ngành và chuyên ngành theo nhu cầu của thị trường lao động, tổng cộng có 14 ngành bậc
Cao đẳng và 16 ngành bậc Trung cấp chuyên nghiệp. Đến nay, trường đào tạo 19 ngành

bậc Cao đẳng (Thanh nhạc; Diễn viên kịch – điện ảnh; Thiết kế đồ họa; Thiết kế thời
trang; Kinh doanh xuất bản phẩm; Thư ký văn phòng; Việt Nam học; Quản trị Khách sạn;
Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Tiếng Nhật; Tiếng Hàn Quốc; Tiếng Trung Quốc;
Tiếng Anh; Tin học ứng dụng; Quản trị kinh doanh; Kế toán; Tài chính - Ngân hàng;
Quay phim; Đạo diễn), 8 ngành Cao đẳng nghề (Quản trị KS-NH; Quản trị Dịch vụ Du
Lịch và lữ hành; Việt nam học- Hướng dẫn viên du lịch; Thư ký; Kế toán; Quản trị máy
tính; Thiết kế đồ họa, Thiết kế thời trang) và 14 ngành Trung cấp chuyên nghiệp (Thanh
nhạc; Diễn viên; Thiết kế đồ họa; Thiết kế thời trang; Phát hành xuất bản ấn phẩm; Thư
ký văn phòng; Lữ hành – Hướng dẫn viên; Quản lý khách sạn nhà hàng; Quản lý văn
hóa; Mạng máy tính; Hạch toán – Kế toán; Tài chính ngân hàng; Tài chính doanh nghiệp;
Quản trị doanh nghiệp – sản xuất).
Để quản lý và điều hành hoạt động đào tạo, trường có 6 khoa và 23 tổ chuyên môn,

11 phòng chức năng và 4 trung tâm.
Là trường ngoài công lập, không có kinh phí từ ngân sách Nhà nước, từ những khó khăn
ban đầu về chỗ học, chỗ làm việc, có giai đoạn trường đã phải thuê phần lớn địa điểm học
tập và làm việc, đến nay trường đã có 4 cơ sở đào tạo có khả năng đào tạo từ 15.000 đến
17.000 sinh viên; gồm nhiều phòng học, phòng thực hành và thư viện khang trang, đáp
ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên. Cơ sở 1: trụ sở của trường: 83/1 Phan
Huy Ích – phường 12 – quận Gò Vấp, có diện tích đất rộng khoảng 2055 m
2
, được xây
dựng thành một cao ốc 6 tầng và khu ký túc xá khang trang đi vào hoạt động từ tháng
11/2008. Cơ sở 2: 53/1 Phan Văn Hớn, Phường Tân Thới Nhất, Quận 12, TP.HCM. Tổng
diện tích xây dựng là 22.500 m

2
. Cơ sở 3: Dự kiến sẽ xây dựng cơ sở của Trường Đại học
Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn trên cơ sở nâng cấp từ Trường Cao đẳng Văn hóa
Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn tại Khu I-2 Khu đô thị Tây Bắc, Củ Chi, Tp.HCM. Cơ sở
4: Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và Giáo dục thể chất: 73/479A Phan Huy Ích, P.12,
Q.Gò Vấp, TP.HCM, tổng diện tích xây dựng là 14.091 m
2
.
Trường có quan hệ tốt với các với các trường đại học, viện nghiên cứu và với các cơ sở
hoạt động chuyên ngành Văn hóa, Nghệ thuật, Du lịch và Kinh tế của TP.HCM, điều này
mang đến lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực trao đổi giảng viên giảng dạy và tạo điều kiện
cho hàng ngàn sinh viên thực tập mỗi năm. Hợp tác với các trường đại học của Hàn

Quốc, Úc, Pháp, Anh … đã mang lại những kết quả thiết thực trong việc đổi mới chương
trình, nâng cao chất lượng đào tạo.
Tổ chức Đảng và các đoàn thể được chú trọng xây dựng và củng cố, làm nòng cốt
cho khối đoàn kết trong toàn trường. Các công tác tuyển sinh, quản lý đào tạo được thực
hiện đúng quy chế, được Bộ Giáo dục & Đào tạo công nhận và đánh giá tốt. Số lượng thí
sinh xin dự tuyển vào trường hằng năm ngày càng đông và là minh chứng thuyết phục
khẳng định niềm tin của xã hội đối với chất lượng đào tạo của nhà trường ngày một được
củng cố.

×