Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN XỬ LÝ LẠM PHÁT HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.31 KB, 28 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TIỂU LUẬN
XỬ LÝ LẠM PHÁT HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM
Tập thể tác giả: Nhóm 1 Lớp Quản lý Kinh tế 2 – K19
Hướng dẫn: PGS.TS. Phan Huy Đường
Hà Nội, tháng 06 năm 2011
1

LỜI NÓI ĐẦU
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 5 tháng đầu năm 2011 so với tháng 12 năm 2010
tiếp tục tăng ở mức hai con số trong điều kiện kinh tế thị trường đã định hình, điều đó
gợi lại nỗi ám ảnh về lạm phát “phi mã” với mức ba con số trong những năm cuối
1980 đầu 1990 cho người dân Việt Nam. Diễn biến phức tạp của lạm phát đang tác
động đến đời sống thường ngày của người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, cũng như gây khó khăn đối với kinh tế vĩ mô. Đây cũng là một
vấn đề trọng tâm mà Chính phủ đang tập trung theo dõi, nghiên cứu để tiếp tục thực
hiện các giải pháp điều hành.
Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là nhận diện và đánh giá đúng nguyên nhân
lạm phát để bình tĩnh giải quyết tối ưu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng ở
Việt Nam. Trong phạm vi của tiểu luận này, chúng tôi đã đưa ra thực trạng, nguyên
nhân lạm phát hiện nay của Việt Nam và phân tích hiệu quả của một số chính sách
mà Chính phủ Việt Nam đang sử dụng, đồng thời có đưa ra một số kiến nghị nhằm
kiềm chế lạm phát, ổn định tình hình kinh tế xã hội. Trong quá trình làm tiểu luận
chắc chắn không tránh được có sai sót cần bổ sung, sửa chữa, vì vậy chúng tôi rất
mong muốn nhận được sự phản biện, góp ý của các thành viên trong lớp Quản lý
Kinh tế 2 – Khóa 19, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Tập thể tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS. Phan Huy Đường – Trường
Đại học Kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã phân công và hướng dẫn tập thể tác giả
hoàn thành tiểu luận này.


TẬP THỂ TÁC GIẢ NHÓM 1
2

PHẦN 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
I. Cơ sở lý luận về lạm phát
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hoá tăng lên đồng loạt.
2. Phân loại và các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát và phân loại.
a) Phân loại
Lạm phát được chia làm 3 loại:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm
- Lạm phát phi mã: Lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ hai hoặc ba con số một năm.
- Siêu lạm phát: Xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao
vượt xa lạm phát phi mã, siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ
lạm phát trên 200%.
b) Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát và phân loại
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của các
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hang hoá trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép
đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá sinh hoạt(CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá
nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một
cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI
có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là “ sự
thiên lệch” trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi “sự ngang giá sức
3


mua” để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hoá khác
trong khu vực.
Chỉ số giá tiêu dung (CPI) đo giá cả các hàng hoá hay được mua bởi “người
tiêu dùng thông thường” một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp,
những sự thay đổi theo phần trăm hang năm trong các chỉ số này là con số lạm phát
thông thường hay được nhắc tới.
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua các đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản
xuất là không.
II. Lịch sử lạm phát của Việt Nam
1. Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986):
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên
vấn đề giá cả chưa chịu tác động của cơ chế thị trường và do đó lạm phát không
xuất hiện. Tuy nhiên , giai đoạn 1976-1985 nền kinh tế có nhiều biểu hiện suy thoái
khủng hoảng và lạm phát. Thời kỳ này, vay nợ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu
NSNN và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi ngân sách và năm 1980 là
18,1%, năm 1985 là 36,6% so với GDP. Hình thành hệ thống 2 giá: giá nhà nước
quy định và giá thị trường tự do, chênh lệch nhau hàng chục lần. Chính sách tín
dụng tuỳ tiện, giá bao cấp bất chấp quy luật phát triển vốn và không cân nhắc đến
yêu cầu chống lạm phát, là tác nhân quan trọng làm bùng nổ lạm phát trong 5 năm
1981-1985. Quý IV-1985 cuộc cải cách giá tiền lương đưa mặt bằng giá lên mức
phản ảnh được sức mua thực tế đồng tiền đã bị mất giá quá lớn năm 1981-1985 và
chuyển đổi từ chế 2 giá sang cơ chế 1 giá.
2. Thời kỳ kinh tế bắt đầu đổi mới (1986-1990):
Bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vẫn là thời kì khủng hoảng kinh
tế xã hội, kinh tế phát triển chậm và bất ổn định. Mức lạm phát kéo dài trong vòng 3
năm với tỷ lệ lạm phát trung bình đạt 463,9% năm (đạt mức đỉnh điểm là 774,7%
năm 1986 và 398,8% vào nưm 1988). Sự kiện hiếm có không những trong lịch sử

4

Việt Nam mà cả đối với phần lớn các nền kinh tế trên thế giới. Sau đó giảm dần
xuống lạm phát 2 chữ số nhưng vẫn còn ở mức cao ( năm 1989 là 34,7% và năm
1990 là 67,1%)
3. Thời kì kinh tế đi vào ổn định (1991-1995):
Giai đoạn này tình hình kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng
trưởng khá cao, liên tục và toàn diện. Tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 8,2% và
lạm phát bắt đầu được đẩy lùi (chỉ số CPI từ 67,1% (1990) còn 13,7% (1995).
4. Thời kì có dấu hiệu trì trệ ( 1996-2000):
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực có tác dộng không nhỏ đến nền kinh
tế nước ta. Điểm đặc biệt của thời kỳ này là đi cùng với tốc độ tăng truởng kinh tế
có chiều hướng chững lại là việc giảm xuống của tỷ lệ lạm phát dưới mức kiểm soát
và chuyển sang xu thế thiểu phát (tỷ lệ lạm phát năm 1996 là 4,5% xuống còn
-0,6% năm 2000)
5. Thời kì kinh tế có bước phát triển mới (2001-2004):
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định, trong 4 năm
2001-2004, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, mọi mặt đời sống xã hội được cải thiện và phát triển. Tỉ lệ lạm phát
tăng dần từ -0,6% năm 2000 lến 9,5% năm 2004.
6. Lạm phát từ năm 2004 đến hết năm 2006:
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển trở lại sau
một thời gian thiểu phát từ năm 1999 đến năm 2003 thì câu chuyện lạm phát lại trở
lại. Bởi trong xu thế toàn cầu hoá thì hội nhập kinh tế của từng quốc gia với nền
kinh tế khu vực và thế giới ngày càng sâu rộng. Giá cả thị trường tăng lên, mặt hàng
thực phẩm có giá tăng cao do dịch cúm gia cầm xảy ra với quy mô lớn, bên cạnh đó
giá thép cũng tăng cao, giá dầu thô lên cao tăng mức kỉ lục 41,56$/thùng.
Lý lẽ thứ 2 lạm phát bắt đầu từ tiền tệ, nghĩa là sự gia tăng cung tiền quá ngưỡng
cho phép.
5


Sang năm 2006 lạm phát ở nước ta chững lại ở con số 6.6%, mức tăng duy trì
ở con số 8,2-8,5 đất nước thoát khỏi được lạm phát cao năm 2004-2005. Đó là một
thành quả đáng ghi nhận của nhà nước ta trong vấn đề chống lạm phát.
7. Giai đoạn 2007-2008:
Với mức tăng CPI cả năm 2007 lên tới 12,63%, so với chỉ tiêu được Quốc hội
giao cho Chính phủ hồi đầu năm (chỉ tăng CPI không quá 8,5%) thì mức tăng giá
năm 2007 đã vượt quá xa so với mức tăng trưởng GDP, tăng gần 48,59% so với chỉ
tiêu kế hoạch được giao.
Đây là mức tăng CPI được coi là kỷ lục, bởi năm 2006 CPI chỉ tăng 6,6%; năm
2005 tăng 8,4% so với năm 2006, nhóm hàng lương thực của năm 2007 đã tăng
giá tới 15,02%; nhóm hàng thực phẩm tăng 10,06%; nhà ở và vật liệu xây dựng
tăng 11,01% và chỉ có riêng nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm được 2,91%.
Tính tổng cả năm, chỉ có một nhóm hàng giảm CPI so với năm trước là bưu
chính - viễn thông với mức giảm 11,76%. Các mặt hàng tăng giá mạnh nhất vẫn tập
trung vào lương thực (hơn 49%), thực phẩm (hơn 32%), phương tiện đi lại (16%),
nhà ở và vật liệu xây dựng (20,51%).
Tính riêng tháng 12 năm nay, CPI giảm 0,68% so với tháng trước, nhưng vẫn
tăng 19,9% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu do sự giảm giá của lương thực, thực
phẩm, nhà ở và vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại, bưu điện. Trong khi đó, các
nhóm hàng tiêu dùng khác lại tăng giá nhẹ vào tháng giáp tết như đồ uống, thuốc lá,
may mặc, mũ nón, giày dép, thiết bị và đồ dùng gia đình, dược phẩm, y tế. Tính
theo 10 địa phương được điều tra thì TP.HCM, Gia Lai và Đắc Lắc là ba địa
phương có mức giảm CPI thấp nhất, còn Hà Nội và Cần Thơ có tỉ lệ CPI giảm
mạnh nhất so với tháng 11-2008.
Giá vàng năm nay tăng mạnh so với năm ngoái, thêm gần 1/3 (xấp xỉ 32%),
mặc dù so với tháng trước mức tăng chỉ là 0,78%. Tỉ giá USD gần như không có
biến động mạnh: giá USD tháng 12-2008 tăng 1,14% so với tháng trước và tính cả
năm là 2,35% so với 2007.
6


8. Giai đoạn 2009-2010:
Chốt lại năm 2009, lạm phát tháng 12 năm năm 2009 cao hơn 6,52% so với
cùng kỳ; lạm phát bình quân 12 tháng năm 2009 so với cùng thời kỳ năm 2008 cao
hơn 6,88%. Như vậy, Chính phủ đã kiềm chế lạm phát thành công, ở mức dưới 7%.
Nhìn lại diễn biến CPI trong 12 tháng của năm 2009, Tổng cục Thống kê cho
rằng, tính quy luật diễn biến giá tiêu dùng hàng tháng đã diễn ra (quy luật này
thường xác lập trong những năm nền kinh tế phát triển ổn định, như các năm 2006,
hay 2007 trước đó).
Cụ thể, giá hàng hóa, dịch vụ thường tăng cao trong hai tháng đầu năm do
ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, sau đó giảm trong tháng 3 rồi tăng nhẹ từ tháng 4
đến tháng 10, hai tháng cuối năm giá tăng khá cao do áp lực tăng chi tiêu dùng và
đầu tư xã hội.
Tuy nhiên, việc CPI tháng 12/2009 tăng mạnh, trước thời điểm Tết Nguyên
đán tới 2 tháng, là diễn biến sớm so với nhiều năm trước. Nguyên nhân có thể do kỳ
vọng về một quy mô thị trường tiêu thụ lớn dịp Tết Nguyên đán, đang khiến nhiều
nguồn hàng tiêu dùng thiết yếu bị “găm” lại để chờ thời.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12 tăng ở 10/11 nhóm hàng
trong rổ hàng hóa đưa vào tính chỉ số giá tiêu dùng, với mức tăng từ 0,07 - 3,31%.
Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,02%.
Dẫn đầu về mức tăng giá mạnh nhất trong tháng là nhóm hàng ăn và dịch vụ
ăn uống; trong đó, lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28%, ăn uống ngoài
gia đình tăng 1,86%. Tiếp theo là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng với mức tăng
2,53%.
Các nhóm hàng hóa có mức tăng trên 1% gồm: may mặc, mũ nón, giày dép
tăng 1,81%; đồ uống, thuốc lá tăng 1,3%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,06%.
Các nhóm còn lại có mức tăng dưới 1% gồm thiết bị và đồ dùng gia đình; văn hóa
giải trí và du lịch; giao thông; thuốc và dịch vụ y tế. Giáo dục là nhóm tăng thấp
nhất (tăng 0,07%).
7


Cũng trong tháng này, chỉ số giá vàng và USD tăng lần lượt 5,43% và 2,86%
so với tháng trước. Nếu so sánh với tháng 12/2009, chỉ số giá vàng tăng 30%, USD
tăng 9,68%.
Như vậy, với mức tăng 1,98% so với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng của cả
năm 2010 đã vọt lên mức 11,75%. Với mức tăng này, CPI bình quân cả năm 2010
tăng 9,19% so với bình quân cả năm 2009.
Xét theo địa phương, chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh có mức tăng như: Hà
Nội tăng 1,83%; TPHCM tăng1,61%; Hải Phòng tăng 1,96%; Thái Nguyên tăng
2,01%; Gia Lai tăng 2,21%…
8

PHẦN II
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT HIỆN NAY CỦA
VIỆT NAM
Thực trạng và nguyên nhân gây ra lạm phát hiện nay của Việt Nam và các tác
động của lạm phát tới KT-XH
1. Thực trạng lạm phát hiện nay của Việt Nam
Từ đầu năm 2011 đến nay lạm phát tăng với tốc độ chóng mặt cụ thể như:
Đối chiếu với mốc tháng 12/2010, CPI đến hết tháng 3 đã tăng lên 6,12%, so
với tháng 3/2010 thì CPI đã tăng 13,89% và CPI bình quân quý I/2011 so với quý
I/2010 đã tăng 12,79%.
CPI tháng 4 tăng ở cả 11/11 nhóm trong rổ hàng hóa chung với mức tăng từ
0,02-6,04%; trong đó có 3 nhóm tăng trên 4%, 6 nhóm tăng trên 1% và 2 nhóm tăng
dưới 1%.
Tiếp tục tháng thứ hai liên tiếp, nhóm giao thông đạt kỷ lục tăng cao nhất là
6,04%, góp phần đẩy CPI tháng 4 cả nước tăng thêm 0.54%. Tiếp đến là các nhóm
hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 4,5%; trong đó, lương thực tăng 2,47%,
thực phẩm tăng 5,61% và ăn uống ngoài gia đình tăng 3,31%. Đặc biệt, nhóm thực
phẩm đã có mức tăng giá mạnh nhất kể từ tháng 2.2008 (năm khủng hoảng kinh tế)

và riêng nhóm thực phẩm đã đóng góp vào CPI chung cả nước tăng 1.37%. Giá hầu
hết các mặt hàng từ thịt heo, thịt gà, thịt bò và thủy hải sản đều tăng mạnh và thị
trường đang hình thành mặt bằng giá mới.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tiếp tục tăng 4.38%, góp phần kéo CPI
cả nước tăng thêm 0.44%.
Cũng trong tháng 4, tám nhóm còn lại trong rổ hàng hóa chung cũng có mức
tăng tương đối: May mặc và giầy dép tăng 1,63%, Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
1,38%, Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,31%, Thuốc và y tế tăng 1,03%, Hàng hoá
9

và dịch vụ khác tăng 1,02%, Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 1,01%, Giáo dục tăng
0,29%, bưu chính viễn thông tăng thấp nhất với 0,02%.
CPI tháng 5.2011 đã "giảm tốc", tuy nhiên mức tăng này vẫn còn cao hơn so
với mức CPI vào tháng 3 (2,12%). Như vậy, mức độ lạm phát từ đầu năm đến nay
đã đạt tổng cộng 12,07%, vượt xa chỉ tiêu (không quá 7%) trong cả năm.
Tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI của tháng 5 là nhóm hàng thực
phẩm (tăng 3,53%) và nhà ở - vật liệu xây dựng (3,19%). Xếp kế tiếp là nhóm giao
thông và hàng hóa, dịch vụ khác (tăng trên 2%).
Trong tháng 5 này, chỉ có nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông là giảm so với
tháng trước (giảm 1,68%). Chỉ số giá vàng tăng nhẹ 1,43% so với tháng trước, trong
khi chỉ số USD giảm 0,98%.
2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát.
2.1 Giai đoạn 2007-2008
* Giá nhiều loại vật tư, hàng hoá trên thế giới luôn trong chiều hướng tăng (trong đó
có những mặt hàng tỉ trọng nhập khẩu lớn: Xăng dầu 100%, phôi thép tác động tới
chi phí đầu vào tạo sức ép tăng giá lên nhiều mặt hàng trong nước.
* Một số vật tư quan trọng trong nước cũng được điều hành tăng giá: Giá điện tăng
than tăng , xăng tăng , diezel tăng ƒ
* Thời tiết có những diễn biến bất thường cộng với chi phí đầu vào sản xuất nông
nghiệp tăng, nhất là giá thức ăn chăn nuôi tăng làm cho giá nhóm lương thực, thực

phẩm tăng cao.
* Nhu cầu có khả năng thanh toán tăng cao: Tiền lương, tiền thưởng, lượng kiều hối
tăng, thu nhập của người nông dân tăng do giá cả nông sản - thực phẩm tăng, nguồn
vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư phát triển trong nước tăng, tổng phương tiện thanh
toán tăng 39,62% ( năm 2007) và tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế ước tăng
37,79% ( năm) giá cả hàng hoá trong nước.
10

2.2 Năm 2010 :
Theo đánh giá từ các chuyên gia, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 và cả năm
2010 tăng ngoài dự kiến là do tác động tương hỗ phức tạp, cùng lúc của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Điển hình là do dịch bệnh trên gia súc và gia cầm trên cả
nước chưa được khống chế, tốc độ tái đàn sau dịch bệnh còn chậm, thiên tai nặng
nề, mặt bằng giá lương thực thế giới tăng cao…
Ngoài ra, chỉ số giá tăng còn do việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu
quả kéo theo chính sách tiền tệ phải đáp ứng; giá nguyên vật liệu cơ bản phục vụ
tăng trưởng kinh tế như xăng dầu, phôi thép, ximăng, phân hóa học nhập khẩu tăng
gần 30% tác động vào giá thị trường trong nước…
2.3 Năm 2011:
Thứ nhất, nền kinh tế đã có độ mở lớn, nhưng lại nhập siêu cũng lớn (4 tháng
đầu năm 2011 nhập siêu tới 4,9 tỉ USD, chiếm 18,5% kim ngạch xuất khẩu). Cùng
với sự giảm giá trị đối ngoại của đồng nội tệ (phá giá nội tệ và/hoặc để tỷ giá tăng)
thì nguy cơ lạm phát kép là hiện hữu: lạm phát từ bên trong và lạm phát nhập vào từ
bên ngoài giống như cuối năm 2007 và năm 2008. Cần nhớ lại nền kinh tế của nước
ta suốt hơn 20 năm qua (trừ duy nhất năm 1992 có xuất siêu tuy chỉ được vài chục
triệu USD), liên tục là nền kinh tế nhập siêu, trong khi tỷ giá hầu như không đi
xuống mà chỉ có xu hướng trườn ngang và đi lên theo chiều giảm giá trị của đồng
nội tệ để theo đuổi chiến lược hướng về xuất khẩu, nhưng lại hóa ra chủ yếu làm đắt
hóa hàng nhập vào trong nước vì hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu của nước ta là
hàng gia công, lắp ráp có “ruột” và công nghệ nhập vào từ nước ngoài. Do đó, nhập

siêu ở nước ta đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát và làm tăng nợ nước ngoài qui
đổi. Những ngày qua do tăng cường kiểm soát tình trạng quản lý ngoại hối bị buông
lỏng trong thời gian dài, đã có tác dụng kéo tỷ giá thị trường tự phát về sát thị
trường chính thức, nhưng tính bền vững chưa được nhìn thấy rõ từ cơ cấu ngoại
thương và cơ chế thị trường. Nếu có bất ổn xẩy ra như triển vọng tăng trưởng xấu
đi, thất nghiệp gia tăng và dòng vốn ngoại chảy ngược ra, đồng nội tệ sẽ lại mất giá
11

mạnh, khi đó sẽ tác động tăng lạm phát cao hơn vì phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để có
một đồng ngoại tệ.
Thứ hai, về những tác động từ bên ngoài: Sau khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia đã lâm vào cảnh nợ công tăng cao và thất
nghiệp gia tăng, nhiều năm liền đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích hoạt
cho nền kinh tế. Đặc biệt với nền kinh tế lớn nhất thế giới, khi Chính phủ Mỹ liên
tục đổ tiền ra, cùng với chính sách hạ thấp lãi suất cơ bản xuống còn 0,25%/năm thì
giá trị đồng đô la cũng liên tục “rơi” mạnh xuống so với các đồng tiền mạnh khác -
một biểu hiện cụ thể của cuộc chiến tiền tệ, gây hiệu ứng đến toàn cầu và tạo áp lực
tăng giá vàng, bạc, hàng hoá tiêu dùng khác tính bằng đồng đô la Mỹ. Áp lực lạm
phát do đó lại gia tăng, nhất là với đồng đô la Mỹ, cứ 3 đồng đưa vào lưu thông thì
có tới gần 2 đồng lưu thông ở ngoài lãnh thổ Mỹ. Nếu tiếp tục tăng nhập khẩu từ
những nền kinh tế có đồng tiền giảm giá thì nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam
lại phải “nhập khẩu lạm phát” và/hoặc gây ách tắc cho xuất khẩu đất nước.
Thứ ba, tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu tiền vốn so với
cầu tín dụng phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy định dẫn đến
lãi suất cho vay cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng hàng hoá
hợp thị hiếu, làm cho tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất, không qua
ngân hàng, đọng lại ở thị trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng băng” do
giá cao chơi vơi, chỉ những “đại gia” mới s†n tiền để sở hữu những vị trí đẹp bằng
mọi giá.
Thứ tư, tổng cầu quá lớn so với tổng cung của nền kinh tế liên tục bị kéo dài

cũng là nguyên nhân cơ bản khiến gia tăng lạm phát. Từ nhiều năm nay, tổng cầu
nền kinh tế nước ta đã quá lớn hơn so với tổng cung được biểu hiện qua chỉ tiêu
tổng đầu tư xã hội và tiêu dùng cuối cùng đã vượt so với giá trị sản xuất (GDP) từ
15 đến 17% liên tục từ năm 2007 đến nay. Trong khi đó, năng suất lao động quá
thấp, vốn đầu tư cho tăng trưởng nhiều làm cho giá thành tăng quá cao, đẩy giá bán
tiếp tục tăng. Lạm phát suy cho cùng là bức tranh phản ánh của sự mất cân đối giữa
tổng cung và tổng cầu. Tuy nhiên cơ cấu cung và cơ cấu cầu trong môi trường thị
12

hiếu biến đổi nhanh và qui luật khan hiếm tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất cũng
tham gia gây hiệu ứng tới lạm phát.
3. Các tác động của lạm phát tới KT-XH
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tuỳ theo
mức độ của nó. Nếu là lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh
những tác hại không đáng kể. nếu là lạm phát cao thương gây những tác hại nặng nề
cho nền kinh tế và đời sống. Tuy nhiên, nếu lạm phát đó được dự báo, tiên đoán
trước thì không gây gánh nặng lớn kinh tế vì người ta có thể có những giải pháp để
đối phó. Nếu lạm phát không dự đoán trước dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân
phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
1.Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản, những người đang vay nợ là có
lợi vì giá cả các loại tài sản nói chung đều tăng lên, còn giá trị đồng tiền thì giảm
xuống. Ngược lại, những người làm công an lương, những người gửi tiền, những
người cho vay là bị thiệt hại.
2. Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Như đã nói ở trên, trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng,
lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền
tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích
thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến. Theo “Lý thuyết

trao đổi về lạm phát” của nhà kinh tế học A.W.Phillips thì một nước có thể mua môt
mức để thất nghiệp thấp hơn nếu s†n sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Các hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá
mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn"
để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí
thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này
khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ
13

thất nghiệp sẽ giảm.
Các hiệu ứng tiêu cực
Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào
nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã hội:
* Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và
lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm
cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên
đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn
giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà
người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
* Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp
sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
* Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn)
còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực
đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh
nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối
nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.

* Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm
phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng
thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả
phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
* Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo
trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các
cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên
14

lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn
người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi
còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc
siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực
của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là
không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức
vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân
phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy
chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
3. Các tác động khác
Trong lĩnh vực lưu thông, kho vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ
hàng hoá thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu
thông càng thêm rối loạn.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái.
Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh
tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động của nhập khẩu.

Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình
trạng khủng hoảng.
Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của
những khoản công phí. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế
nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định.
PHẦN 3
GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ - XÃ HỘI
15

I. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA CÁC CHUYÊN GIA KINH TÊ ĐƯA RA
NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT HIỆN NAY.
1. Giải pháp đầu tiên
Phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. Trong số thống kê về tỷ
lệ lạm phát 11,75% do Tổng cục Thống kê đưa ra thì yếu tố tiền tệ đóng góp tới
4,65%. Vì vậy, phải có biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ là
điều cần thiết. Phải kiểm soát được tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% (năm
2010 là 31%), Cung ứng tiền ra lưu thông chỉ khoảng 15% (năm 2010 là 26%) đồng
thời dành tín dụng ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ và đầu tư
cho các lĩnh vực thiết yếu khác trên nguyên tắc điều hành minh bạch. Cùng với việc
kiềm chế lạm phát, phải giảm dần lãi suất theo hướng hợp lý, coi lãi suất là một
trong những công cụ kiềm chế lạm phát.
Điều hành tỷ giá ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, Chính
phủ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ huy động và sử dụng các nguồn lực để kiểm
soát bằng được tỷ giá theo quy định, không để thả nổi tỷ giá; không để cho thị
trường chợ đen chi phối. Các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ cho ngân hàng và
ngân hàng s†n sàng đáp ứng đầy đủ về ngoại tệ cho các doanh nghiệp để nhập khẩu
các loại hàng hóa thiết yếu mà trong nước không sản xuất được.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh
doanh vàng miếng trên thị trường tự do, buôn lậu vàng qua biên giới.
2. Giải pháp thứ hai

Phải thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Thực hiện được mục tiêu tăng
thu từ 7-8% so với dự toán quốc hội đã thông qua, tiết kiệm chi tiêu thêm 10% của
9 tháng còn lại; dứt khoát phải giảm bội chi xuống dưới 5% GDP; coi giảm bội chi
là giảm cầu, làm giảm lạm phát. Bên cạnh đó, không ứng vốn ngân sách nhà nước
kể cả nguồn trái phiếu Chính phủ cho các dự án kéo dài, không cấp bách, ưu tiên
các dự án hoàn thành trong năm 2011.
3. Giải pháp thứ ba
16

Thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu
và sử dụng tiết kiệm năng lượng. Với mức giá nông sản tăng cao, đây là thời điểm
tốt để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống nhân
dân. Hạn chế tối đa các mặt hàng nhập khẩu trong nước có thể sản xuất được, phấn
đấu bảo đảm nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu.
4. Giải pháp thứ tư
Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo. Trong tình hình giá
xăng dầu đã bị kìm nén quá lâu trong khi giá xăng dầu thế giới đang ngày một tăng
cao, ngành điện đã lỗ tới 28.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010 và con số này sẽ còn
tăng vào năm 2011, việc điều chỉnh tăng đối với giá điện và giá xăng dầu là điều
cần thiết. Theo đó, giá điện tăng lên 165 đồng mỗi kWh và giá xăng tăng 2.900
đồng một lít. Việc điều chỉnh này mới chỉ là điều chỉnh từng bước, điều chỉnh một
phần dựa trên nguyên tắc Nhà nước vẫn lùi khấu hao tới 90%, cơ cấu vào giá chỉ
10% để tránh gây sốc cho nền kinh tế và tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà kinh tế và các chuyên gia thì với việc điều
chỉnh một bước đối với giá xăng dầu và giá điện, chỉ số CPI năm 2011 của nước ta
sẽ tăng 2%, tuy nhiên nếu các doanh nghiệp và cá nhân thắt chặt chi tiêu thì sẽ
không ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội.
Đối với những hộ nghèo, Nhà nước có chính sách hỗ trợ sau khi điều chỉnh
giá điện với mức 30.000 đồng/hộ/tháng. Các hộ thuộc diện thu nhập thấp có mức sử
dụng điện thường xuyên không quá 50kWh/tháng được ưu tiên mua điện theo giá

của bậc thang đầu tiên. Hiện cả nước có khoảng 3,1 triệu hộ (kể cả những hộ hiện
chưa sử dụng điện) nằm trong diện được hỗ trợ này, đây là chính sách rất tốt mà
Chính phủ đưa ra nhằm giảm khó khăn cho những hộ nghèo khi thực hiện lộ trình
đưa giá điện sát giá thị trường của Chính phủ.
5. Giải pháp cuối cùng
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Các phương tiện thông tin đại
chúng đẩy mạnh tuyên truyền về Nghị quyết, tuyên truyền về những thuận lợi cũng
17

như những khó khăn để nhân dân hiểu, tạo sự đồng thuận trong triển khai thực hiện
thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết đề ra.
II. CÁC BIỆN PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ ĐANG SỬ DỤNG NHẰM KIỀM
CHẾ LẠM PHÁP HIỆN NAY
NGHỊ QUYẾT 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 20111 về những giải pháp chủ yếu
tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách
tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo
đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán
khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh
doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và
vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh
vực bất động sản, chứng khoán;
- Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các
loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát.
- Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị
trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ
chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ
cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh
khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh

doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
- Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình Chính
phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập
trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị
trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc
tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban hành quy định và
18

chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy
định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi,
mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi
phạm.
2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước
a) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách
năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản
lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai
các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế
mới.
- Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm
thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao
gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con
người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế
hoạch đầu năm). Các Bộ, cơ quan, địa phương tự xác định cụ thể số tiết kiệm, gửi
Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 3 năm 2011.
Số tiết kiệm thêm 10% này các Bộ, cơ quan, địa phương tự quản lý; từ quý III năm
2011 sẽ xem xét, bố trí cho các nhiệm vụ cấp bách phát sinh ngoài dự toán hoặc

chuyển về ngân sách Trung ương theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tạm dừng
trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện,
nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu, ; không bố trí kinh phí cho các việc
chưa thật sự cấp bách. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử
dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội
thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước Không bổ sung ngân sách
ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống,
khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xử lý
nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm.
19

- Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt
chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực
hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối
tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư
nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012 cho các
dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách.
- Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước,
trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các
khoản này để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2011.
- Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, xác
định cụ thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong
năm 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các khoản đã bố trí nhưng chưa cấp bách,
không đúng mục tiêu, báo cáo và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ biện pháp xử lý
trong tháng 3 năm 2011.
- Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh
nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ các

dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài.
c) Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ
nguồn vốn tín dụng nhà nước.
d) Các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái
phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách
và các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA). Rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại để điều chuyển vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2011 trong phạm vi quản lý để tập
20

trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành
trong năm 2011.
- Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 4 năm 2011 danh mục các dự án cắt
giảm đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, danh mục các
dự án cắt giảm đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước trong phạm vi quản lý, đồng
gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ trong phiên họp thường
kỳ tháng 5 năm 2011.
đ) Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại các dự
án đầu tư, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ trong tháng 4 năm 2011 danh mục các dự án cắt giảm đầu tư, đồng gửi
Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính phủ trong phiên họp thường kỳ
tháng 5 năm 2011.
3. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập
siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng
a) Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Trong quý II năm 2011, ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung -
cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong
nước với điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng

dịch vụ; chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực
trong nước, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo
đảm an ninh lương thực; thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước
và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt
hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá.
- Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu không
quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập
khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh
nghiệp Nhà nước; phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện
21

nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị
sản xuất trong nước, nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập
khẩu; chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu
dùng, hạn chế nhập siêu.
- Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy
động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa
khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp
lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống.
b) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi
nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ
việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.
- Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập
khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu
nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục
thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu
trong năm 2011.

- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về
thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các
mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được;
nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không
khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô.
c) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết
yếu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa
thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban
hành.
22

d) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan,
địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát
triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu nhập cho
người lao động, bảo đảm an ninh lương thực.
đ) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa
phương, chỉ đạo sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước
hết là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, ; tăng cường
quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn.
e) Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cổ
phần hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới quản trị doanh
nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.
g) Các Bộ, cơ quan, địa phương tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt,
tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống
lãng phí; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử
dụng điện 10% theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ; đồng thời, áp dụng
các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp,

nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ
cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện.
4. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo
a) Tiếp tục thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường.
- Bộ Tài chính chủ động điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại
Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về kinh
doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới.
- Trong năm 2011 thực hiện điều chỉnh một bước giá điện; Bộ Công Thương hoàn
thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong quý I năm 2011 cơ chế điều hành
giá điện theo cơ chế thị trường.
b) Nhà nước có chính sách hỗ trợ hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện.
23

5. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền
a) Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương,
các cơ quan chủ quản thông tin, truyền thông, báo chí:
- Chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí bám sát các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước và nội dung của Nghị quyết này thông tin, tuyên
truyền đầy đủ, kịp thời, nhất là các nội dung thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả,
các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ hộ nghèo trực tiếp chịu tác động
của việc thực hiện điều chỉnh giá điện để nhân dân hiểu, đồng thuận.
- Xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không
đúng định hướng của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
b) Các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chỉ đạo và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác,
kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan
tâm.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Một là, cần thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ năng động và hiệu quả trong giai

đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
+ Hạ lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước và
xuất nhập khẩu, cung cấp hàng hóa cho nền kinh tế.
+ Hạn chế giải chấp chứng khoán, đề nghị các Ngân hàng, Cty chứng khoán tạm
ngừng giải chấp, tiếp tục gia hạn NHNN hỗ trợ tài chính thông qua hoạt động tái
chiết khấu để tạo thanh khoản cho các NH.
+ Xử lý cầu đầu tư nước ngoài: giữ tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào trung tâm
chứng khoán VN như hiện nay (49% - đối với CP các ngành khác, riêng CP ngành
NH là 30%) nhưng tháo gõ thủ tục hành chính.
+ Mở rộng đối tượng kiều bào nước ngoài mua nhà ở VN: Hiện nay, Quốc Hội đang
dự thảo nghị định cho người VN định cư ở nước ngoài mua nhà ở VN. Đây là một
24

giải pháp tốt đáp ứng được nguyện vọng của bà con xa xứ nhưng cũng là một biện
pháp cứu được sự đóng băng của thị trường bất động sản.
+ Tiếp tục siết chặt chi tiêu công đối với các dự án không hiệu quả: đề nghị Quốc
hội và Chính phủ tiếp tục cắt giảm để tập trung vào đầu tư xuất khẩu góp phần
thăng bằng cán cân thương mại.
+ Phòng chống giảm phát.
Hai là, đề xuất với Chính phủ thành lập quỹ kích cầu để kích thích tiêu dùng để
kích thích nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong thời gian tới.
Trước thực trạng nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát, cần phải giảm tốc đọ tăng lãi
suất huy động của ngân hàng, duy trì tốc đọ tăng trưởng 7% là hợp lý. Bên cạnh đó,
Chính phủ cần phải bố trí ngân sách quỹ kích cầu để kích thích tiêu dùng để kích
thíc nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong thời gian tới. trước mắt
cần đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động làm cho giá trị của nền
kinh tế “thật” không bị thoát li giá trị của nó do nền kinh tế “ảo” (các hàng hóa của
nền kinh tế ảo là các chứng từ có giá; chứng khoán, quyền chọn mua, quyền chọn
bán….)
Ba là, tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu công và tư

Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất xã hội. Để làm được
điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định
mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động
nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp nhất là đối với vật tư nguyên liệu
nhập khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện
công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tổ chức quản lý nhằm tăng năng suất lao
động. Đồng thời tiết kiệm chi tiêu công của nhà nước, từng gia đình, cá nhân.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch của chi
tiêu công
Cần soát xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu cả trung ương và
địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án,
các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là
25

×