Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Cơ sở khoa học và thực tiến của việc lựa chọn và tính toán thử nghiệm một số chỉ số phản ánh mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.31 KB, 24 trang )


1

TỔNG CỤC THỐNG KÊ
VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ - VIỆN KHOA HỌC THỐNG KÊ




Đề tài khoa học
Nghiên cứu lựa chọn và tính toán thử nghiệm một số chỉ số phản ánh mức độ
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam







CHUYÊN ĐỀ 3

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
LỰA CHỌN VÀ TÍNH TOÁN THỬ NGHIỆM MỘT
SỐ CHỈ SỐ PHẢN ÁNH MỨC ĐỘ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM


















HÀ NỘI, 7 - 2009




2

TỔNG CỤC THỐNG KÊ
VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ - VIỆN KHOA HỌC THỐNG KÊ

Đề tài khoa học
Nghiên cứu lựa chọn và tính toán thử nghiệm một số chỉ số phản ánh mức độ
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam



CHUYÊN ĐỀ 3

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC

LỰA CHỌN VÀ TÍNH TOÁN THỬ NGHIỆM MỘT
SỐ CHỈ SỐ PHẢN ÁNH MỨC ĐỘ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM



Việc xây dựng, lựa chọn cũng như tính toán thử nghiệm
các chỉ số, chỉ tiêu phản ánh mức độ hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam không thể không dưa trên những
nền tảng của lý thuyết thống kê trong lĩnh vực này, và
cũng không thể không dựa vào thực tiễn cuộc sống đòi
hỏi thống kê phải can thiệp trong lĩnh vực này. Có sở
khoa học ở đây được hiểu là lý luận đã được người ta
tổng kết về việc lựa chọn và xây dựng chỉ số, chỉ tiêu, và
những điều đó đã được ứng dụng. Cơ sở thực tiễn ở đây
được hiểu là sự đòi hỏi của thực tế cuộc sống, cũng như
một số các công trình tương tự như của thế giới được
chọn lọc để áp dụng vào thực tiễn nước ta. Và những cơ
sở khoa học và thực tiễn đó đều phải nhất quán với
quan điểm và bước đi của Nhà nước ta trong vấn đề hội
nhập kinh tế quốc tế.







HÀ NỘI, 7 - 2008


3

MỤC LỤC

Mục
Trang
Giới thiệu chung
5


I. Phần một: Cơ sở khoa học xây dựng chỉ số tổng hợp phản
ánh hội nhập quốc tế của Việt nam
7


1.1. Lý luận chung xây dựng chỉ số tổng hợp
7


1.2. Lý thuyết lựa chọn chỉ tiêu và xây dựng chỉ số thống kê
tổng hợp trong các lĩnh vực cụ thể
11


II. Phần hai: Cơ sở thực tiễn
20


2.1. Cơ sở pháp lý
20



2.2. Nhu cầu thực tiễn
22


Kết luận và kiến nghị
24


Tài liệu tham khảo
25



















4

GIỚI THIỆU CHUNG

Từ hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đến nay, các nền kinh tế
quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau và hình thành hàng loạt các thể
chế kinh tế khu vực và quốc tế. Xu hướng vận động này tạo nên quá trình
toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, là quá trình vận động
theo hướng mở rộng các hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia
sang phạm vi khu vực hoặc toàn thế giới. Toàn cầu hoá trước hết là về thị
trường, bắt nguồn từ toàn cầu hoá về thông tin và cuối cùng là các quá
trình kinh tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, một quốc gia có chủ quyền
không còn là lực lượng duy nhất đưa ra chế độ, chính sách kinh tế ngay
tại nước mình mà là sự tồn tại đồng thời của bốn lực lượng là: quốc gia
dân tộc có chủ quyền; các khối kinh tế khu vực; các thể chế kinh tế quốc
tế và các công ty xuyên quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế
của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực hoặc toàn cầu;
trong đó, các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung
như: Liên minh châu Âu, AFTA, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu đơn thuần là
những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế
ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở,
tham gia các định chế kinh tế, tài chính quốc tế, thực hiẹn tự do hoá và
thuận lợi hoá thương mại, đầu tư nhằm mục tiêu mở cửa thị trường cho
hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản đối với trao đổi thương mại.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nước ta phát triển nhanh
và bền vững nhưng cũng đặt nước ta trước nhiều thách thức lớn.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đề ra: “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Nghị quyết Đại hội X của Đảng có điểm đổi mới là đã bổ sung

từ “tích cực” thành: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
“Chủ động” là ta tự quyết định đường lối phát triển kinh tế – xã hội nói
chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng; là nắm
vững các quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy
đầy đủ năng lực nội sinh của đất nước, xác định lộ trình, nội dung, quy
mô, bước đi hội nhập kinh tế quốc tế; đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ kinh tế quốc tế, không chỉ tập trung vào một thị trường, một sản
phẩm; chủ động thực hiện các cam kết song phương, đa phương và chủ
động vận dụng các “luật chơi” của các thể chế kinh tế – thương mại quốc
tế trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của đất nước vừa hợp tác vửa đấu
tranh, không bị động và cũng không tự phát, nóng vội, chủ quan, duy ý
chí; có sáng kiến, biết phân tích, chủ động lựa chọn đối tác và phương
thức kinh doanh, dự báo được những thuận lợi và khó khăn khi hội nhập
kinh tế quốc tế.

5
“Tích cực” là hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần mạnh mẽ hơn,
khẩn trương hơn, toàn diện và sâu rộng hơn so với giai đoạn trước; không
chần chừ, do dự mà đẩy mạnh đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh
đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn, từ Trung ương đến địa phương,
doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng và thực hiện chiến lược, lộ trình, kế
hoạch hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước
ngoài đồng thời mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài; đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế – xã hội, hoàn chỉnh hệ
thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và
nền kinh tế; mạnh dạn mở rộng, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối
ngoại và tham gia các thể chế, định chế kinh tế quốc tế, thực hiện các cam
kết quốc tế. “Tích cực” còn là không duy trì quá lâu các chính sách bảo
hộ của Nhà nước, khắc phục nhanh trình trạng trì trệ và tâm lý trông chờ,
ỷ lại ở sự bao cấp của Nhà nước. Tích cực nhưng vững chắc, có sự chuẩn

bị cần thiết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu quản lý, hệ thống luật
pháp, có thông tin cập nhật và dự báo tình hình tương đối chính xác, có
đội ngũ cán bộ hiểu biết về thị trường, đối tác, tinh thông nghiệp vụ kinh
doanh, hội nhập kinh tế.
Vai trò và nhiệm vụ của khoa học thống kê là phải mô tả, đo lường
được quá trình hội nhập quốc tế này thông qua các chỉ tiêu thống kê, các
con số thống kê, làm căn cứ cho Đảng, Chính phủ và Nhà nước đề ra các
chính sách, điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với thực tiễn cuộc
sống trong nước và trên thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển
nâng cao mức sống của nhân dân, mau chóng thoát khỏi tìnhg trạng
nghèo đói và lạc hậu, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn vậy, việc mô tả, đo lường thông qua các con số và chỉ tiêu
thống kê cũng cần phải dựa trên các căn cử khoa học và thực tiễn của
trình độ thống kê nước ta. Mục đích của chuiyên đề khoa học này là làm
sáng tỏ các căn cứ đó.

I- PHẦN MỘT:
CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG CHỈ SỐ TỔNG HỢP PHẢN
ÁNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1.1. Lý luận chung xây dựng chỉ số tổng hợp

Ngày nay, đã có những lý thuyết về xây dựng chỉ số tổng hợp.
Trong các nghiên cứu gần đây về các vấn đề kinh tế - xã hội, người ta sử
dụng ngày càng nhiều các chỉ số tổng hợp (synthetic index). Sở dĩ như
vậy vì các hiện tượng kinh tế xã hội về bản chất là các hiện tượng phức
tạp, nhiều chiều, để đánh giá và so sánh được các hiện tượng kinh tế xã
hội theo không gian và thời gian đòi hỏi phải xem xét chúng trên nhiều


6
phương diện khác nhau. Nhưng làm thế nào để có thể đánh giá và tổng
hợp chính xác được các khía cạnh khác nhau của hiện tượng nghiên cứu,
lý thuyết thống kê đã cung cấp cho chúng ta nhiều phương pháp khác
nhau để giải quyết vấn đề này.
Về mặt lý luận khi xây dựng chỉ số tổng hợp chúng ta phải giải
quyết hai vấn đề chính:
 Một là lựa chọn được các chỉ tiêu thành phần phản ánh được bản
chất của hiện tượng nghiên cứu.
 Hai là bằng cách nào đó chúng ta có thể gộp các chỉ tiêu thành
phần này, tức là xác định được các trọng số của các chỉ tiêu thành
phần trong chỉ tiêu tổng hợp.
Cho đến nay các công trình nghiên cứu vẫn chưa giải quyết thoả
đáng hai vấn đề cơ bản nêu trên, chính vì vậy chuyên đề này trình bầy
một phương pháp tổng quát và tương đối đơn giản, dễ vận dụng trong
thực tế xây dựng các chỉ số tổng hợp, và đưa ra nội dung của một vài chỉ
số tổng hợp đang thịnh hành trên thực tế ở các quốc gia, như chỉ số phát
triển con người, chỉ số chất lượng cuộc sống ở Ma-lai-xi-a, chỉ số năng
lực cạnh tranh, chỉ số thịnh vượng quốc gia. Trên cơ sở đó tiến hành lựa
chọn, đề xuất một phương pháp tương đối phù hợp cho việc tính toán chỉ
số tổng hợp phản ánh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Để phản ánh và mô tả các hiện tượng phức tạp, người ta sử dụng
các nhóm chỉ tiêu khác nhau đặc trưng cho từng khía cạnh của hiện tượng
và trong mỗi nhóm lại gồm một số các chỉ tiêu cụ thể và thông thường tập
hợp các số liệu đầu vào được trình bầy dưới dạng ma trận khối sau:
















k
mn
k
m
k
mmnmm
k
n
kk
n
XXXXXX
XXXXXX
X




21
11
2

1
1
11211
1
1
1
12
1
11

Trong đó
k
ij
X
là giá trị của chỉ tiêu j tại đối tượng i trong nhóm chỉ
tiêu k. j = 1,2, n – chỉ số của các chỉ tiêu (tiêu thức)
i = 1,2, m – chỉ số các đối tượng
k = 1,2, k – chỉ số các nhóm chỉ tiêu.
Để xây dựng chỉ số tổng hợp, ta tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Phân tích định tính tính chất của các chỉ tiêu thành phần
Về bản chất các hiện tượng phức tạp thường là các phạm trù trừu
tượng không trực tiếp quan sát được và rất khó đo lường trực tiếp chúng,
để có thể đánh giá và lượng hoá được các hiện tượng chúng ta cần phải
thông qua các chỉ tiêu thành phần cụ thể. Đối với một hiện tượng kinh tế
xã hội phức tạp, cụ thể như lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế thì có rất
nhiều các chỉ tiêu thành phần có thể phản ánh mức độ của tiện tượng đó,
chẳng hạn như có thể dùng các chỉ tiêu thành phần: xuất nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và mở rộng đầu tư

7

trực tiếp ra nước ngoài; mở rộng xuất khẩu lao động cũng như tuyển dụng
lao động có tay nghề cao của nước ngoài vào làm việc trong nước v.v
Các chỉ tiêu này về bản chất là các chỉ tiêu phản ánh hiện tượng
nghiên cứu theo góc độ tích cực, tức là chúng biến động cùng chiều và
đóng góp tích cực vào sự phát triển của hiện tượng. Tuy nhiên lại có các
chỉ tiêu thành phần khác phản ánh tiêu cực, trái chiều hiện tượng nghiên
cứu, ví dụ đối với lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế thì số vụ vi phạm và
mức độ vi phạm các hợp đồng kinh tế với các đối tác nước ngoài là chỉ
tiêu phản ánh có tính tiêu cực, v.v Như vậy phân tích định tính cho
phép chúng ta phân các chỉ tiêu thành phần vào hai nhóm các chỉ tiêu
khuyến khích (ký hiệu là S) và các chỉ tiêu không khuyến khích (ký hiệu
là D), về mặt nguyên tắc chúng ta luôn có thể biến các chỉ tiêu D thành
chỉ tiêu S và ngược lại. Do đó, trong phần nghiên cứu dưới đây chúng ta
sẽ giả thiết các chỉ tiêu đều là chỉ tiêu khuyến khích (đối với các chỉ tiêu
không khuyến khích ta chỉ việc thực hiện động tác đảo chiều).
Bước 2: Lựa chọn các chỉ tiêu thành phần chủ yếu phản ánh hiện
tượng nghiên cứu.
Để phản ánh hiện tượng có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu thành phần.
Nếu sử dụng tất cả các chỉ tiêu này thì chúng ta sẽ gặp phải vấn đề nhiễu
thông tin, hay loãng thông tin, do đó nên loại trừ những chỉ tiêu chứa
đựng lượng thông tin không đáng kể về hiện tượng. Nói cách khác chúng
ta nên chọn ra một số lượng vừa đủ các chỉ tiêu thành phần, điều này còn
làm giảm chi phí tính toán trong xử lý số liệu. Từ tập hợp ban đầu các chỉ
tiêu, chúng ta rút lại một nhóm nhỏ hơn gọi là các chỉ tiêu thứ cấp. Có rất
nhiều phương pháp khác nhau để lựa chọn các chỉ tiêu mong muốn. Một
trong số các phương pháp đó là sử dụng phân tích tương quan.
Tại bước này dùng phân tích tương quan để lựa chọn các chỉ tiêu
thứ cấp, khi đó ta tính các hệ số tương quan cặp để thu được ma trận các
hệ số tương quan sau đây:














1
:





:::
1
1
2
1
1
2321
1312
nk
nk
nk

r
r
r
rr
rr
R

Trong đó: r
jl
là hệ số tương quan giữa chỉ tiêu j và chỉ tiêu l
Từ ma trận các hệ số tương quan, ta chọn các chỉ tiêu thứ cấp:
- Nếu hệ số tương quan cặp của chỉ tiêu j
0
và l
0
mà thoả mãn:
lj
jllj
rr

 max
00
thì ta chọn j
0
và loại bỏ l
0
sở dĩ như vậy là để khắc
phục, loại bỏ hiện tượng trùng lặp thông tin (vì cả hai chỉ tiêu j
0
,

l
0
đều chứa đựng thông tin như nhau về hiện tượng nghiên cứu).
- Đối với các chỉ tiêu còn lại từ ma trận các hệ số tương quan
chúng ta cũng tiến hành tương tự.

8
Kết thúc giai đoạn này chúng ta thu được một tập hợp các chỉ tiêu
thành phần thứ cấp với số lượng nhỏ hơn lúc ban đầu. Khi đó chúng ta
thu được ma trận các số liệu phân tích sau:















k
mp
k
mmpmm
k

p
k
p
xxxxx
xxxxx
X




1
11
2
1
1
111
1
1
1
12
1
11
(1), với p < n
Bước 3: Phân tích mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu thành phần.
Rõ ràng mỗi chỉ tiêu thành phần chứa đựng thông tin về hiện tượng
nghiên cứu với các mức độ khác nhau, có chỉ tiêu phản ánh được nhiều,
có chỉ tiêu phản ánh được ít. Tức là vai trò và tầm quan trọng của các chỉ
tiêu đối với hiện tượng nghiên cứu là khác nhau. Để đánh giá vấn đề này
ta phân tích hệ số biến thiên của từng chỉ tiêu thành phần được chọn.
Nếu một chỉ tiêu thành phần nào đó có hệ số biến thiên nhỏ tức là

mức đồng đều của chỉ tiêu này tại từng đối tượng là khá cao, thì chỉ tiêu
đó về bản chất là chỉ tiêu chứa đựng ít thông tin về hiện tượng nghiên
cứu. Ví dụ với chỉ tiêu tỷ lệ xã có đường ô tô đến trụ sở, có trạm y tế, hay
được dùng điện lưới, thì chỉ tiêu này ở hầu hết các tỉnh đều đạt hầu như
100%, cho nên nếu dùng chỉ tiêu này để đánh giá mức ảnh hưởng tới chất
lượng cuộc sống thì chất lượng thông tin trong phân tích sẽ không cao,
mặc dù trên thực tế chúng rất có ý nghĩa. Hay nói cách khác, đối với một
chỉ tiêu thành phần nào đó mà càng ít đối tượng đạt được mức độ cao, độ
biến thiên của nó lớn, thì chỉ tiêu đó càng có giá trị thông tin trong phân
tích, ví dụ như đối với mức sống thì chỉ tiêu số lượng ô tô tính trên 1000
dân chẳng hạn là chỉ tiêu phản ánh rõ nét mức sống cao và chỉ tiêu này
khó đạt được đồng đều đối với các đối tượng nghiên cứu, hơn nữa chỉ
tiêu này rõ ràng thể hiện mức sống cao hơn so với chỉ tiêu như số lượng
xe đạp hay vô tuyến tính trên 1000 dân.
Như vậy, chỉ tiêu càng quan trọng thì càng ít đối tượng đạt được
giá trị cao. Để đơn giản tại bước này ta sẽ loại bỏ bớt các chỉ tiêu mà hệ
số biến thiên nhỏ (tức là lượng thông tin về hiện tượng nghiên cứu thấp).
Để xác định tầm quan trọng của chỉ tiêu cũng có thể sử dụng hệ số
bất đối xứng: nếu chỉ tiêu có hệ số bất đối xứng dương càng lớn (lệch
phải nhiều) thì chỉ tiêu đó càng quan trọng và ngược lại.
Bước 4: Chuẩn hoá các chỉ tiêu thành phần đã được chọn lọc
Có nhiều phương pháp chuẩn hoá nhưng thông thường người ta
hay áp dụng phương pháp chuẩn hoá sau đây:

i
k
ij
k
ij
k

ij
x
x
y
max

; j S (2)

9

k
ij
i
k
ij
k
ij
x
x
y
min

; j D (3)
Bước 5: Tính trọng số của các chỉ tiêu thành phần trong từng nhóm
Như đã nêu, chỉ tiêu mang nhiều thông tin về hiện tượng nghiên
cứu nếu giá trị của nó lệch nhiều trong không gian các đối tượng và số
lượng các đối tượng mà tại đó giá trị của chỉ tiêu đạt cực đại là không
nhiều. Từ đó xác định độ nhạy cảm của chỉ tiêu bằng tham số sau đây:

m

u
xx
y
m
i
i
k
ij
k
ij
k
ij













1
min
1
(4)
Trong đó : u – là số lượng các đối tượng thoả mãn điều kiện:



 )(max
k
ij
k
ij
xx
(5)
Với ε  [1,0] là một tham số cho trước
Để chuẩn hoá tham số
k
j
w
ta có thể viết nó dưới dạng:

)1)((
)1(
1
)1(
)1(










mum
ym
m
u
m
y
w
i
k
ij
i
k
ij
k
j
(6)
Dễ thấy rằng 0 
k
j
w
 1 và giá trị của tham số này lớn nếu có ít đối
tượng thoản mãn điều kiện (5) và ngược lại. Như vậy giá trị của tham số
này càng gần 0 thì chỉ tiêu j càng ít có giá trị thông tin về hiện tượng
nghiên cứu, còn nếu giá trị của tham số này càng gần 1 thì chỉ tiêu j càng
nhiều giá trị thông tin.
Trên cơ sở các giá trị của
k
j
w
tính được cho từng chỉ tiêu trong

nhóm k, ta sẽ gắn cho mỗi chỉ tiêu này một trọng số tương ứng với tầm
quan trọng của nó. Nhằm mục đích này chúng ta xắp xếp các giá trị
k
j
w

theo thứ tự giảm dần. Cụ thể là nếu
max
k
j
w
=
k
p
w
ta cho

= 1
max
k
j
w
=
k
q
w
(
pq 
) ta cho


= 2

min
k
j
w
= 0 ta cho

= n
Khi đó hệ thống trọng số được tính theo công thức sau đây:

)1(
)1(2



nn
n



(7)
Công thức này thoả mãn các điều kiện:
1. 0 


 1
2.






1


10
Bước 6: Gộp theo từng nhóm các chỉ tiêu: Chỉ số tổng hợp nhóm
đối với các nhóm chỉ tiêu sẽ được tính theo công thức sau:




n
i
k
i
yS
1



(8)
Trong đó

= 1,2, n
i = 1,2, m


i

y
được xác định theo (2), (3) với chỉ số

là phản chiếu chỉ số j.
Bước 7: Gộp chung toàn bộ các nhóm chỉ tiêu
Đối với mỗi nhóm chỉ tiêu cụ thể chúng ta sẽ tính hệ số nhạy cảm
theo công thức sau:

)1)((
)1(
1





mum
Sm
w
m
i
k
i
k
(9)
k = 1,2, K
Trong đó: u – là số lượng các đối tượng thoả mãn điều kiện:


 )1(

k
i
S

Với

 [0,1] là một số cho trước
Ta lặp lại quá trình như trong bước 5, cho mỗi nhóm k một trọng
số nhất định tương ứng với tầm quan trọng của nó. Công thức tính trọng
số tương tự như (7) nhưng với

= 1,2, K, bằng số lượng các nhóm chỉ
tiêu nghiên cứu.
Cuối cùng ta tính chỉ số tổng hợp chung theo công thức sau:




K
ii
SSS
1





Trong đó :



tính theo công thức (7)


i
S
tính theo công thức (8)
Dễ dàng nhận thấy S  [0,1], giá trị của chỉ số tổng hợp chung
càng gần 1 thì đối tượng nghiên cứu thư i càng đạt được mức độ cao xét
theo chỉ tiêu tổng hợp nghiên cứu và ngược lại.
Trên cơ sở chỉ số tổng hợp tính được cho mỗi đối tượng, chúng ta
có thể tiến hành xếp hạng toàn bộ tổng thể nghiên cứu (như xếp hạng các
tỉnh, các địa phương, các vùng, hoặc các quốc gia).

1.2. Lý thuyết lựa chọn chỉ tiêu và xây dựng chỉ số thống kê
tổng hợp trong các lĩnh vực cụ thể

1.2.1. Chỉ số phát triển con người HDI
Có rất hiều yếu tố phản ánh phát triển con người, như các vấn đề
an sinh xã hội, an ninh con người, các vấn đề về bình đẳng giới, công
bằng xã hội, các vấn đề về môi trường, và phải đảm bảo tính chất bền
vững của sự phát triển (phát triển bền vững). Chỉ số phát triển con người
phải là một chỉ số tổng hợp phản ánh sự phát triển trên tất cả các góc độ

11
đó. Nhưng theo lý thuyết xây dựng chỉ số tổng hợp đã nêu, nếu gộp nhiều
yếu tố quá sẽ dẫn đến ôm đồm, khó tính toán, khó có được một cơ sở số
liệu thống kê đầy đủ và đồng bộ, do vậy cũng khó khuyến khích các quốc
gia tính toán chỉ số này, nhất lầ trong hoàn cảnh nếu như trình độ thống
kê chưa phát triển. Do vậy, các nhà nghiên cứu chỉ khoanh giới hạn lại ở
trình độ phát triển trung bình xét trên 3 phương diện: một cuộc sống

trường thọ và mạnh khoẻ, có tri thức và một cuộc sống tử tế.
Khi nói tới yếu tố của cuộc sống trường thọ, lại có rất nhiều yếu tố
con khác ảnh hưởng, ví dụ như tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi, yếu tố
bệnh tật, sức khoẻ, yếu tố môi trường Do vậy, người ta chỉ sử dụng chỉ
tiêu tuổi hy vọng sống tại lúc sinh, hay còn gọi tắt là tuổi thọ bình quân.
Chỉ tiêu này được sử dụng để tính Chỉ số tuổi thọ.
Khi nói tới góc độ tri thức, lại có nhiều yếu tố con phản ánh khía
cạnh này, như số năm đi học trung bình của người lớn tử 15 tuổi trở lên,
tỷ lệ đi học các cấp giáo dục (mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học
và các hình thức giáo dục khác ), tỷ lệ người lớn biết chữ Để phù hợp
với điều kiện thống kê thực tế tại hầu hết các quốc gia, ban đầu người ta
chọn một chỉ tiêu về số năm học bình quân làm yếu tố đại diện, nhưng
sau đó chỉ tiêu này được thay thế bằng tỷ lệ đi học các cấp giáo dục, kết
hợp tỷ lệ người lớn biết chữ để phản ánh khía cạnh tri thức của dân số.
Các chỉ tiêu này được sử dụng để tính Chỉ số giáo dục.
Khi nói tới cuộc sống tử tế, cũng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và
phản ánh vấn đề này, như thu thập bình quân đầu người, chi tiêu bình
quân đầu người, GDP bình quân đầu người, thậm chí có thể sử dụng các
chỉ tiêu về tài sản, của cải, tỷ lệ giàu nghèo, chỉ số bất bình đẳng trong thu
nhập, trong chi tiêu .v.v. Song, người ta chỉ lựa chọn một chỉ tiêu để tính
toán khía cạnh cuộc sống tử tế trong chỉ số phát triển con người, đó là
GDP bình quân đầu người. Chỉ tiêu này được sử dụng để tính toán và
phân tích Chỉ số thu nhập.
Cuối cùng, HDI là bình quân giản đơn của Chỉ số tuổi thọ trung
bình, Chỉ số thu nhập và Chỉ số giáo dục.
Phương pháp tính chỉ số giáo dục
I
giáo dục
= (2/3) I

biết chữ
+ (1/3) I
năm học

Trong đó: I
biết chữ
là chỉ số biết chữ của người lớn;
I
năm học
là chỉ số năm học bình quân;


X
học
thực
- X
học
min

I
năm học

=



X
học
max
- X

học
min

Với:
X
học
max
-
thời gian học bình quân mỗi người cực đại (=15 năm);

X
học
min
-
thời gian học bình quân cực tiểu (=2,5 năm);

X
học
thực
-
thời gian học thực tế bình quân mỗi người;
Phương pháp tính chỉ số thu nh ập

12


Log(X
GDP
thực
) - Log(X

GDP
min
)
I
GDP

=



Log(X
GDP
max
) - Log(X
GDP
min
)
Với:
I
GDP

là chỉ số thu nhập;

X
GDP
max

là mức tối đa của GDP bình quân đầu người;

X

GDP
min

là mức tối thiểu của GDP bình quân đầu người;

X
GDP
thực

là mức độ thực tế của GDP bình quân đầu người;

Log
là phép toán lô-ga-rit cơ số 10.
Phương pháp tính chỉ số tuổi thọ


X
tuổi
thực
- X
tuổi
min

I
tuổi thọ

=




X
tuổi
max
- X
tuổi
min

Trong đó: X
tuổi
thực
- là tuổi thọ trung bình thực tế;
X
tuổi
max
- là tuổi thọ trung bình tối đa (= 85);
X
tuổi
min
- là tuổi thọ trung bình tối thiểu (= 25);
Phương pháp tính HDI
HDI = (I
tuổi thọ
+ I
giáo dục
+ I
GDP
) / 3
1.2.2. Chỉ số phát triển liên quan đến giới (GDI)
GDI đo lường sự bất bình đẳng trong những thành quả đạt được
giữa nam và nữ. Thực chất GDI xuất phát từ HDI được điều chỉnh theo sự

bất bình đẳng về giới. Sự khác biệt về giới trong những lĩnh vực phát
triển con người càng lớn thì GDI càng nhỏ so với HDI. Ngoài ra, GDI
còn sử dụng các biến: Tỷ trọng dân số nam và nữ trong tổng dân số; Tỷ
trọng dân số hoạt động kinh tế của nữ và nam từ 15 tuổi trở lên; và Tỷ số
tiền công tiền lương ngoài nông nghiệp của nữ so với nam.
 Cách tính
Bước một, các chỉ tiêu nữ và nam tính theo công thức chung:
I
j
i

=
(Giá trị thực)
j
i
– (giá trị tối thiểu)
j
i

(Giá trị tối đa)
j
i
– (giá trị tối thiểu)
j
i

(Tính riêng cho i = Nam, Nữ; j = Giáo dục, Tuổi thọ, Thu nhập)
Bước hai, các chỉ tiêu nữ và nam trong mỗi thước đo được tổng
hợp để chỉ rõ những khác biệt trong thành tựu đạt được của nam và nữ.
Chỉ số hệ quả, được gọi là chỉ số phân bổ công bằng (PBCB), được tính

theo công thức chung sau:
Chỉ số phân bổ công bằng = {[tỷ lệ dân số nữ * (chỉ số nữ)
1-

] + [tỷ lệ
dân số nam * (chỉ số nam)
1-

]}
1/1-


 là một tham số phản ánh mối liên hệ giữa sự bất bình đẳng đối
với chỉ số phân phối công bằng. Trong chỉ số GDI, tham số  = 2. Do đó,
phương trình chung biến đổi thành:

13
Chỉ số phân bổ công bằng = {[tỷ lệ dân số nữ * (chỉ số nữ)
-1
] + [tỷ lệ dân
số nam * (chỉ số nam)
-1
]}
-1
.
Chỉ số này cho kết quả giá trị trung bình hài hoà giữa nữ và nam.
Bước ba, chỉ số GDI được tính bằng cách tổng hợp các chỉ số
PBCB thành một giá trị bình quân phi gia quyền.
1.2.3. Thước đo vị thế của giới (GEM)
GEM chỉ ra sự bất bình đẳng giới tính trên ba phương diện chính:

 Tham gia hoạt động và có quyền quyết định về chính trị, được đo
bằng tỷ lệ số ghế trong quốc hội của phụ nữ và nam giới.
 Tham gia hoạt động và có quyền quyết định về kinh tế, được đo
bằng tỷ lệ các vị trí lãnh đạo do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm; và
tỷ lệ các vị trí trong các ngành kỹ thuật do nữ và nam đảm nhiệm.
 Quyền đối với các nguồn lực kinh tế, được đo bằng thu nhập của
phụ nữ và nam giới tính bằng đô la Mỹ theo sức mua tương đương.
Trên mỗi thước đo đánh giá, chúng ta đều phải tính tỷ lệ phần trăm
tương đương phân phối công bằng (EDEP) là giá trị bình quân gia quyền
tổng thể theo công thức chung sau:
EDEP =

tỷ lệ dân số nữ * (tỷ trọng % nữ trong từng lĩnh vực i)
1-


+

tỷ lệ dân số nam * (tỷ trọng % nam trong từng lĩnh vực i)
1-


1/1-


 là một tham số phản ánh mối liên hệ với chỉ số EDEP. Trong GDI tham
số  = 2, để chỉ mức phạt vừa phải nếu có sự bất bình đẳng. Do đó:
EDEP
i
=


tỷ lệ dân số nữ *(tỷ trọng % nữ trong từng lĩnh vực i)
-1

+


tỷ lệ dân số nam*(tỷ trọng % nam trong từng lĩnh vực i)
-1

-1

Với i = các lĩnh vực (tham gia quốc hội, làm lãnh đạo, thu nhập).
Với các lĩnh vực, tỷ lệ EDEP được chuẩn hoá bằng cách chia cho
50, vì trong một xã hội có bình đẳng giới hoàn toàn, các biến số của GEM
có thể bằng 50%, nghĩa là tỷ lệ nữ và nam bằng nhau trong mỗi biến số.
Cuối cùng, GEM là giá trị trung bình của 3 chỉ số EDEP.
1.2.4. Chỉ số nghèo khổ tổng hợp (HPI)
HPI đo sự thiếu hụt trong 3 mặt cốt yếu của cuộc sống như đã phản
ánh trong HDI: sự sống lâu, trình độ giáo dục và mức sống tiêu chuẩn.
Các biến được sử dụng trong HPI-1 gồm:
- Phần trăm dân số chết trước 40 tuổi (P
1
);
- Phần trăm người lớn mù chữ (P
2
);
- Sự thiếu hụt về vật chất (P
3
).


14
Sự thiếu hụt về vật chất lại được phản ảnh bằng:
+ Phần trăm dân số không được sử dụng nước sạch (P
31
);
+ Phần trăm dân số không được sử dụng các dịch vụ y tế (P
32
);
+ Phần trăm trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (P
33
).
Cách tính như sau:
HPI-1 = [1/3(P
1
3
+ P
2
3
+ P
3
3
)]
1/3
; với: P
3
= (P
31
+ P
32

+ P
33
)/3
1.2.5. Chỉ số phát triển công nghệ (TAI)
TAI là một chỉ số tổng hợp được thiết kế để đo thành tích của các
nước trong việc sáng tạo và phổ biến công nghệ và xây dựng một cơ sở
kỹ năng con người. Chỉ số này đo các thành tựu đạt được trên 4 thước đo:
 Sáng tạo công nghệ được đo bằng số bằng phát minh sáng chế cấp
cho dân định cư tính trên đầu người và bằng số thu phí quyền sở
hữu trí tuệ và phí bản quyền của nước ngoài trên đầu người.
 Phổ biến các thành tựu công nghệ gần đây, được đo bằng số máy
chủ internet trên đầu người và tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghệ cao.
 Phổ biến các thành tựu công nghệ trước đây, được đo bằng số điện
thoại (cố định và di động) và tiêu thụ điện năng trên đầu người.
 Các kỹ năng của con người được đo bằng trung bình số năm đến
trường của người lớn (15+) và tỷ lệ nhập học đại học khoa học.
Với mỗi chỉ số theo các thước đo trên, các giá trị quan sát tối thiểu
và tối đa được đặt ra (theo các nước có số liệu) là các giá trị tới hạn. Tính
toán trong mỗi chỉ số được thể hiện bằng một giá trị nằm giữa khoảng 0
và 1 bằng cách áp dụng công thức tính chung sau đây:
Chỉ số chỉ tiêu
trong thước đo
=
Giá trị thực tế – giá trị quan sát tối thiểu
Giá trị quan sát tối đa – giá trị quan sát tối thiểu
Chỉ số cho mỗi thước đo là kết quả tính giá trị trung bình chung
của các chỉ số chỉ tiêu trong thước đo đó. Chỉ số TAI, cũng vậy, là giá trị
trung bình của 4 chỉ số thước đo trên. Các giá trị tới hạn để tính toán TAI
Chỉ tiêu
Giá trị

tối đa
Giá trị
tối thiểu
Số bằng sáng chế cấp cho 1 triệu dân trong nước
994
0
Thu quyền sở hữu trí tuệ và phí bản quyền (USD /
1000 người)

272,6

0
Số máy chủ internet ( / 1000 người)
232,4
0
Tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghệ cao và trung bình
(% trong tổng xuất nhập khẩu hàng hoá)

80,8

0
Số điện thoại (cố định và di động / 1000 người)
901
1
Tiêu thụ điện năng trên đầu người (KW giờ)
6.969
22
Trung bình số năm đến trường (độ tuổi 15+)
12,0
0,8

Tổng tỷ lệ nhập học đại học khoa học tự nhiên (%)
27,4
0,1


15
1.2.6. Chỉ số năng lực cạnh tranh
Nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc tế cao sẽ đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, tạo thêm việc làm và thu nhập, trình độ khoa học công
nghệ nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Không nâng cao được
năng lực cạnh tranh của quốc gia sẽ dẫn đến ít thu hút được vốn đầu tư
trong nước và nước ngoài, các doanh nghiệp mất thị phần trong nước và
thế giới. Thất bại trong cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ phải chuyển hướng
sản xuất, thậm chí phải giải thể, phá sản, lao động mất việc làm.
Năng lực cạnh tranh diễn ra đồng thời ở ba cấp độ: Năng lực cạnh
tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm, dịch vụ. Ba cấp độ này liên quan với nhau: năng lực cạnh
tranh quốc gia cao khi có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao,
ngược lại để tạo doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh
doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách vĩ mô phải rõ ràng,
có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong
sạch, hoạt động có hiệu quả, chuyên nghiệp.
Dưới đây là phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia
của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF):
Trước hết, WEF chọn từ 140 đến 250 chỉ tiêu khác nhau (tuỳ theo
năm nghiên cứu), trong đó có nhiều chỉ tiêu thuộc hệ thống tài khoản
quốc gia, đầu tư, thương mại, giá, lãi xuất, ứng dụng công nghệ mới, môi
trường, hệ thống luật pháp (thậm chí có tới 10 chỉ tiêu khác nhau liên
quan đến tình hình tham nhũng, hối lộ). Các chỉ tiêu này được xếp vào
tám nhóm nhân tố thể hiện năng lực cạnh tranh quốc gia:

1. Mức độ mở cửa của nền kinh tế, bao gồm mở cửa thương mại và
đầu tư nhằm thể hiện mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới và
mức độ tự do hoá ngoại thương và đầu tư, thông qua các chỉ số như
thuế quan và hàng rào phi thuế quan; khuyến khích xuất khẩu;
chính sách tỷ giá; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
2. Vai trò của Chính phủ, tác động của chính sách tài khoá (thu - chi),
phạm vi can thiệp của Chính phủ và chất lượng các dịch vụ do
Chính phủ cung cấp thông qua nhiều chỉ số: mức độ can thiệp của
Nhà nước; năng lực của Chính phủ; mức thuế, gánh nặng thuế khoá
và trốn thuế; quy mô của chính phủ; chính sách tài khoá; lạm phát.
3. Tài chính – tiền tệ: vai trò của các thị trường tài chính trong hỗ trợ
mức tiêu dùng tối ưu theo thời gian, tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả của
các tổ chức trung gian tài chính trong việc chuyển tiền tiết kiệm
thành vốn đầu tư có hiệu quả, thông qua các chỉ số như: phạm vi
chuyển tiền tiết kiệm thành vốn đầu tư hiệu quả; hiệu quả và mức
độ cạnh tranh (chênh lệch lãi suất); đầu tư và tiết kiệm
4. Kết cấu hạ tầng: số lượng và chất lượng hệ thống giao thông vận
tải, bến bãi, kho tàng, viễn thông, điện và các điều kiện phân phối
giúp nâng cao hiệu quả đầu tư

16
5. Công nghệ: nghiên cứu và triển khai (R&D), trình độ công nghệ và
kiến thức tích luỹ, thông qua các chỉ số như: năng lực công nghệ và
nội sinh; công nghệ và chuyển giao qua FDI hoặc từ nước ngoài.
6. Quản lý của doanh nghiệp: chất lượng quản lý kinh doanh, gồm
chiến lược cạnh tranh, phát triển sản phẩm, kiểm tra chất lượng,
hoạt động tài chính công ty, nguồn nhân lực và khả năng tiếp thị
7. Lao động: hiệu quả và tính năng của thị trường lao động, bao gồm:
tay nghề và năng suất; tính linh hoạt trong các quy chế/ điều tiết
hiệu quả của các chương trình xã hội; quan hệ nghề nghiệp (bãi

công, quan hệ chủ thợ ).
8. Thể chế: tính đúng đắn của các pháp chế và xã hội (hệ thống luật
pháp và bảo hộ quyền sở hữu) đặt nền tảng cho nền kinh tế cạnh
tranh và hiện đại, gồm các chỉ số: tình hình cạnh tranh; chất lượng
của các thể chế pháp lý; cảnh sát và việc phòng chống tội phạm
Tám nhân tố trên gồm nhiều tiêu chí đã được lượng hoá bằng các
thông kê và có nhiều chỉ tiêu có tính chất định tính (do các chuyên gia
được phỏng vấn cho điểm về từng chỉ tiêu được hỏi) để so sánh với nhau.
Mỗi nhóm yếu tố trong từng giai đoạn được gán một trọng số nhất định.
1.2.7. Chỉ số giáo dục cho mọi người (EDI)
Chỉ số này do UNESCO công bố trong Báo cáo giám sát giáo dục
toàn cầu năm 2005. Đây là lần đầu tiên UNESCO tính chỉ tiêu này nhằm
đánh giá tiến độ của các nước thực hiện mục tiêu “Giáo dục cho mọi
người đến năm 2015” của Liên Hợp Quốc.
EDI được hình thành từ những chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học;
- Tỷ lệ biết chữ ở người lớn (từ 15 tuổi trở lên);
- Mức độ cân bằng về giới trong giáo dục;
- Chất lượng giáo dục.
Chỉ số EDI có giá trị từ 0 đến 1 hoặc tính theo tỷ lệ phần trăm.
Nước nào có điểm cao thì xếp hạng cao và ngược lại.
1.2.8. Chỉ số thịnh vượng quốc gia (WNI)
WNI do nhóm chuyên gia kinh tế của World Paper và Viện nghiên
cúu các vấn đề tiền tệ (MMI) của Mỹ tính và công bố hàng năm, bắt đầu
từ năm 1996. WNI nhằm đo lường sự thịnh vượng của các quốc gia. Điều
đáng chú ý WNI chủ yếu chỉ tính toán và xếp hạng trong phạm vi các
nước đang phát triển.
WNI được tính trên cơ sở 3 nhóm tiêu chí, mỗi nhóm tiêu chí lại
bao gồm 21 biến số với quyền số bằng nhau. Mỗi biến số sẽ có một số
điểm nhất định tuỳ theo mức độ đạt được của biến số. Tổng số điểm của

các biến số tối đa đạt được của mỗi quốc gia là 2400 điểm, nhưng chưa
có quốc gia nào trong 70 quốc gia đang phát triển đạt tới 1900 điểm trong
mấy năm qua. Việc xếp thứ tự các quốc gia căn cứ vào tổng số điểm đạt
được của các quốc gia.

17
 Nhóm tiêu chí về môi trường kinh tế, bao gồm:
- Nền kinh tế quốc dân:
+ Tốc độ tăng GDP;
+ GNI đầu người (USD-PPP);
+ Tỷ lệ lạm phát;
+ Tổng vốn đầu tư trong nước;
+ Tỷ lệ tiết kiệm;
+ Thâm hụt so với thặng dư của Chính phủ (% GDP);
+ Cán cân tài khoản vãng lai;
+ Nợ nước ngoài so với GDP;
+ Tỷ lệ thanh toán nợ so với trị giá xuất khẩu;
+ Dự trữ ngoại tệ so với trị giá nhập khẩu;
+ Dự trữ nước ngoài (không kể vàng) so với kim ngạch xuất khẩu.
- Mức độ hội nhập của nền kinh tế:
+ Tỷ lệ phần trăm của trị giá xuất nhập khẩu so với GDP;
+ Tỷ lệ phần trăm của đầu tư trực tiếp nước ngoài so với GDP
+ Đầu tư chứng khoán (nợ);
+ Tỷ lệ tư nhân hoá thị trường.
- Môi trường kinh doanh:
+ Chỉ số tự do kinh tế;
+ Chỉ số nhận thức về tham nhũng;
+ Tỷ giá hối đoái thực tế;
+ Tốc độ vòng quay tiền tệ (GDP/M
2

);
+ Chênh lệch lãi suất;
+ Đóng góp của doanh nghiệp nhà nước (% GDP);
+ Mức độ bảo hộ tài sản thương mại.
 Nhóm tiêu chí về môi trường xã hội, bao gồm:
- Sự ổn định và phát triển:
+ Phân phối thu nhập;
+ Bình đẳng nam nữ về tiền lương và về giáo dục;
+ Tỷ lệ thất nghiệp;
+ Tỷ lệ phần trăm người tị nạn so với dân số;
+ Chỉ số về quyền lợi chính trị;
+ Hệ thống pháp luật độc lập;
+ Số lượng phương tiện giao thông, chất lượng đường sá.
- Y tế:
+ Tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động;
+ Chương trình y tế quốc gia (phúc lợi y tế so với chi tiêu);
+ Tỷ lệ dân số nghỉ hưu so với lực lượng lao động;
+ Đất canh tác bình quân đầu người;
+ Lượng cung cấp calo/ngày.
- Môi trường thiên nhiên:
+ Đất được bảo tồn so với tổng diện tích;

18
+ Tỷ lệ khí thải CO
2
(tấn/người);
+ Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch;
+ Cam kết của Chính phủ về môi trường.
 Nhóm tiêu chí về trao đổi thông tin, bao gồm:
- Khả năng tiếp nhận thông tin:

+ Tỷ lệ biết chữ;
+ Số người đọc báo trên 1000 dân;
+ Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học;
+ Tỷ lệ sinh viên học ngành toán, khoa học, cơ khí (%);
+ Tỷ lệ sinh viên học tiếng Anh là ngôn ngữ chính giao dịch.
- Cơ sở hạ tầng thông tin:
+ Số lượng máy tính cá nhân sử dụng trên 1000 người dân;
+ Số lượng báo chí bình quân đầu người;
+ Tỷ lệ truyền hình cáp trên 1000 người;
+ Giá cước điện thoại quốc tế (3 phút).
- Phổ biến thông tin:
+ Tỷ lệ khách du lịch so với dân số;
+ Dịch vụ truyền hình, truyền thanh (hộ có máy thu hình/1000 dân);
+ Tỷ lệ ngân sách Chính phủ dành cho công nghệ thông tin (% GDP);
+ Chỉ số tự do báo chí;
+ Tỷ lệ máy chủ Internet trên 1000 dân;
+ Dịch vụ viễn thông (máy điện thoại trên 1000 dân).
1.2.9. Chỉ số xếp hạng toàn cầu hoá
Chỉ số xếp hạng toàn cầu là thứ hạng của mỗi quốc gia về các khía
cạnh kinh tế, cá nhân, công nghệ, chính trị, với các khoản mục:
Hội nhập kinh tế (thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài)
Giao dịch cá nhân (kiều hối, đi lại, điện thoại)
Liên kết công nghệ (số máy chủ, số máy kết nối internet, số người
sử dụng internet)
Cam kết chính trị (các hiệp định, tiến trình gìn giữ hoà bình của
Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế).














19
II- PHẦN HAI:
CƠ SỞ THỰC TIỄN

2.1. Cơ sở pháp lý
Căn cứ pháp lý để xây dựng chỉ số tổng hợp phản ánh hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta là:
 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: đây là văn bản cao
nhất trong đường lối lãnh đạo của Đảng, trong đó đã ghi nhận tầm
quan trọng của công tác hội nhập quốc tế, đặc biệt hội nhập kinh tế
quốc tế ở nước ta;
 Luật Thống kê số 04-2003-QH11 được Quốc hội thông qua ngày
17/6/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2004: đây là văn bản
pháp lý tối cao về công tác thống kê, trong đó có công tác thống kê
phục vụ sự chỉ đạo và đề ra đường lối chính sách ở cấp quốc gia,
cấp Bộ , ngành và các cấp địa phương;
 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 305/2005/QĐ-TTg ngày
24/11/2005 về việc ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia:
văn bản này của Chính phủ có nội dung trao quyền cho các cấp Bộ,
ngành được tự xây dựng cho mình các hệ thống chỉ tiêu thống kê
chuyên ngành nhằm phục vụ cho sự chỉ đạo chuyên môn, đáp ứng

nhu cầu sử dụng chung trong toàn quốc và nhu cầu của đông đảo
người sử dụng khác, trong đó có việc xây dựng Hệ thống chỉ tiêu
thống kê chất lượng dân số tại Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em;
 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 141/2002/QĐ-TTg ngày
21 tháng 10 năm 2002 phê duyệt Định hướng phát triển thống kê
đến năm 2010 đã chỉ rõ quan điểm và nguyên tắc phát triển thống
kê là: các thông tin thống kê phải bảo đảm khách quan, trung thực,
công khai, minh bạch, thiết thực và hiệu quả. Nguồn thông tin,
phương pháp thu thập và xử lý, hệ thống chỉ tiêu, chế độ báo cáo
và điều tra phải đảm bảo các nguyên tắc về chuyên môn, và dựa
trên các căn cứ khoa học. Các chỉ tiêu chủ yếu phải có tính ổn định
cao, đáp ứng yêu cầu so sánh theo không gian và thời gian, trong
nước và quốc tế, và đó là những căn cứ cơ bản để thiết lập các
nguyên tắc xây dựng chỉ số tổng hợp phản ánh hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta.
Đặc biệt phải dựa trên các văn kiện Đại hội Đảng lần thữ X.
Phương châm chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được Đại hội lần thứ X đề ra là:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt

20
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của

nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định,
bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên
thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau,
bình đẳng và cùng có lợi.
Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân,
đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên
thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ
động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và
hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng
cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát
triển kinh tế - xã hội.
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn
sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan
về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động
xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc",
"tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục
vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù
hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn
diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình

Dương Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với
các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa
những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO).
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy,
sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ,
nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các

21
nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các
nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải
ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả
sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài
hợp lý, an toàn.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh
thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương
hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh
với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng
cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực
nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại
với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà
khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung
của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt
động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân;

chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an
ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.
Các văn kiện của Đảng và đường lối chính sách của Nhà nước về
HNQT đòi hỏi Thống kê phải đưa ra các chỉ tiêu mô tả chúng, đánh giá
chúng, mà điều đó chỉ có thể thông qua các chỉ tiêu thống kê riêng lẻ về
từng lĩnh vực và các chỉ số thống kê tổng hợp.

2.2. Nhu cầu thực tiễn

Nhu cầu rất lớn của thực tiễn công tác thống kê phục vụ sự quản lý
và lãnh đạo các cấp của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh các khâu chuyên
ngành nhằm mô tả sát thực lĩnh vực HNQT của nước ta, trong đó có việc
xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh quá trình HNQT của nước ta, trước
hết là hội nhập kinh tế quốc tế; lựa chọn những chỉ tiêu chủ yếu nhất đại
diện cho các mặt cơ bản của HNQT; từ đó xác định ra một số chỉ số tổng
hợp đo lượng mức độ HNQT của Việt Nam, đặc biệt hội nhập kinh tế.
Nhu cầu đẩy mạnh quá trình HNQT được thể hiện qua một số hoạt
động cụ thể sau:
(i) Nhà nước đã quyết định thành lập Ủy ban quốc gia về hợp tác
kinh tế quốc tế với thành viên là đại diện các bộ, ngành; Hàng năm đại
diện các bộ ngành phải báo cáo trước Ủy ban về công tác HNQT trong
lĩnh vực phụ trách của bộ, ngành mình;

22
(ii) Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương số 08-NQ-T.Ư
ngày 5.2.2007 về hợp tác kinh tế quốc tế và từng bước HNQT, với Đề án
chiến lược đàm phán hiệp định thương mại tự do FTA đến năm 2020,
kiện toàn mạng lưới HNKTQT ở các bộ, ngành và địa phương; triển khai
thực hiện các cam kết trong các tổ chức WTO, ASEAN, APEC, ASEM;
tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do song phương và đa

phương với các đối tác; tiếp tục triển khai Dự án hỗ trợ kỹ thuật hậu gia
nhập WTO giai đoạn II và nhiều nhiệm vụ qua trọng khác thuộc lĩnh vực
HNKTQT.
(iii) Để thực hiện Quyết định của Chính phủ, nhiều địa phương
(tỉnh, thành phố) đã thành lập Ban Hội nhập quốc tế của mình, với nhiệm
vụ xây dựng kế hoạch, nội dung hoạt động HNKTQT của địa phương; chỉ
đạo các sơ, ban, ngành và Uỷ ban Nhân dân địa phương cấp dưới thực
hiện công tác HNKTQT được phân công; phối hợp trong việc tham gia và
thực hiện các hoạt động HNKTQT của Chính phủ; tổ chức tuyên truyền,
phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng và Chính phủ, chính sách của Nhà nước và của địa
phương về thực hiện cam kết HNKTQT cho các doanh nghiệp, tổ chức và
nhân dân trên địa bàn.
Thực tiễn ở nước ta đã có các công trình tính toán chỉ số tổng hợp
như Báo cáo phát triển con người, trong đó có tính toán HDI, HPI, GDI,
GEM (như đã nêu trên). Ngoài ra, Tổng cục Thống kê còn có trách nhiệm
cung cấp thông tin cho ASEAN về một số chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu
phục vụ soạn th ảo Báo cáo g ốc c ủa ASEAN (ABR) để tính toán các chỉ
số tổng hợp hội nhập ASEAN nói riêng cũng như hội nhập kinh tế quốc
tế nói chung trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Tại Việt Nam, một số chỉ số thống kê tổng hợp khác cũng đã được
soạn thảo cho nhiều mục đích khác nhau, như Chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI) gồm 10 chỉ số thành phần là:
+ Chi phí gia nhập thị trường;
+ Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất;
+ Tính minh bạch;
+ Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước;
+ Chi phí không chính thức;
+ Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước;
+ Tính năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh;

+ Chính s ách phát triển khu vực kinh tế tư nhân;
+ Đào tạo lao động;
+ Thiết chế pháp lý.
Chỉ số Chất lượng dân số Việt Nam (PQI) được xây dựng phục vụ
Chiến lược phát triển dân số Việt Nam thời kỳ 2010-2020 dựa trên 5 chỉ
số thành phần với 25 chỉ tiêu thống kê mô tả các khía cạnh:
+ Thể chất và sức khoẻ;

23
+ Văn hoá và tinh thần;
+ Giáo dục và trình đ ộ chuyên môn kỹ thuật;
+ Điều kiện sinh hoạt và các dịch vụ xã hội cơ bản;
+ Thu nhập và mức sống.
Chỉ số phát triển giáo viên Việt Nam cũng được Bộ Giáo dục và
Đào tạo thử nghiệm xây dựng với ba chỉ số thành phần là:
+ Chỉ số đào tạo;
+ Chỉ số về chi tiêu tài chính;
+ Chỉ số về tuổi đời;
+ Chỉ số về chất lượng giảng dạy thực tế.
Theo bản chất của HNKTQT, khái niệm và phạm vi của HNKTQT,
chúng ta hoàn toàn có thể đặt vấn đề tính toán chỉ số thống kê tổng hợp
phản ánh HNKTQT của Việt Nam dựa vào ba chỉ số thành phần là:
 Chỉ số xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
 Chỉ số xuất nhập khẩu lao động;
 Chỉ số xuất nhập đầu tư trực tiếp nước ngoài.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Việc lựa chọn các chỉ tiêu thống kê, cũng như việc xây dựng chỉ số
tổng hợp phản ánh lĩnh vực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã có cơ sở lý

thuyết, có cơ sở khoa học được các nhà thống kê nghiên cứu và ứng dụng
cho nhiều lĩnh vực kinh té - xã hội khác nhau, cả trên thế giới và trong
nước.

Trên thực tế, việc lựa chọn các chỉ tiêu phản ánh các lĩnh vực khác
nhau của đời sống kinh tế - xã hội trong nước cũng đã được thực hiện.

Do đó, chúng ta cũng cần mạnh dạn lựa chọn các chỉ tiêu và xây
dựng chỉ số tổng hợp phản ánh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của Đảng và Nhà nước trong việc từng bước
đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế theo Nghị quyết của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X.

24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. ASEAN Baseline Report, Measurements to Monitor Progress
Towards the ASEAN Community, Volume 1: Main Report, Part
2: System of Indicators (ABR Team Members: Mario B.
Lamberte; Heidi R. Arboleda; Celia M. Reyes), Jakarta:
ASEAN Secretariat, 7/2006.

2. ASEAN Baseline Report, Measurements to Monitor Progress
Towards the ASEAN Community, Volume 1: Main Report, Part
1: Analysis (ABR Team Members: Mario B. Lamberte; Heidi
R. Arboleda; Celia M. Reyes), Jakarta: ASEAN Secretariat,
7/2006.

3. ASEAN Baseline Report, Measurements to Monitor Progress

Towards the ASEAN Community, Volume 2: Data and
Metadata (ABR Team Members: Mario B. Lamberte; Heidi R.
Arboleda; Celia M. Reyes), Jakarta: ASEAN Secretariat,
7/2006.

4. Tạp san “Thông tin khoa học Thống kê”, Viện nghiên cứu khoa
học thống kê, Tổng cục Thống kê, số 4 – 2006;

5. Human Development Report, (from 1990 to 2006), UNDP;

6. Chất lượng cuộc sống Ma-lai-xi-a 2004, Nhóm Kế hoạch kinh
tế, Văn phòng Thủ tướng, Ma-lai-xi-a;

7. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X;

8. Luật Thống kê số 04-2003-QH11 được Quốc hội thông qua
ngày 17/6/2003;

9. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 305/2005/QĐ-TTg
ngày 24/11/2005 về việc ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia.

10. Ngô Văn Dụ - Hồng Hà - Trần Xuân Giá (Đồng chủ biên), Tìm
hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006;

×