Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Nghiên cứu lựa chọn và tính toán thử nghiệm một số chỉ số phản ánh mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.73 KB, 63 trang )


1
TỔNG CỤC THỐNG KÊ




BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ




Đề tài
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN VÀ TÍNH TOÁN THỬ
NGHIỆM MỘT SỐ CHỈ SỐ PHẢN ÁNH MỨC ĐỘ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM



Đơn vị chủ trì: Viện Khoa học Thống kê

Chủ nhiệm: CN. Nguyễn Văn Phẩm

Thư ký: CN. Lê Thu Hiền
















HÀ NỘI, 4 - 2010



2
DANH SÁCH NHỮNG CÁ NHÂN THỰC HIỆN CHÍNH


Nguyễn Văn Phẩm, CN. Kinh tế, Vụ HTQT
Nguyễn Thị Thu Hiền, CN. Môi trƣờng, Vụ HTQT
Nguyễn Tiến Dũng, CN. Quan hệ quốc tế, Vụ HTQT
Nguyễn Anh Tuấn, CN. Toán, Vụ trƣởng Vụ HTQT
Bùi Ngọc Tân, CN. Thƣơng mại quốc tế, Vụ HTQT
Hoàng Thị Thanh Hà, Ths. Kinh tế, Vụ HTQT
Lê Thị Lan Phƣơng, Ths. Kinh tế, Vụ HTQT
Hoàng Thị Kim Chi, CN. Anh ngữ, Vụ HTQT
Nguyễn Thị Tâm, CN. Anh ngữ, Vụ HTQT




3
CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam châu Á
FDI
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GDP
Tổng sản phẩm trong nƣớc
HDI
Chỉ số phát triển con ngƣời
IEII
Chỉ số HNKTQT
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
GDI
Chỉ số phát triển liên quan đến giới
GNI
Tổng thu nhập quốc gia
HDI
Chỉ số phát triển con ngƣời
HNKTKV
Hội nhập kinh tế khu vực
HNKTQT
Hội nhập kinh tế quốc tế
HNQT
Hội nhập quốc tế
LQI
Chỉ số chất lƣợng cuộc sống
NCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác các nƣớc phát triển
PQI
Chỉ số chất lƣợng dân số
TCTK
Tổng cục Thống kê
TDI
Chỉ số phát triển giáo viên
UNDP
Chƣơng trình phát triển Liên hợp quốc
WB
Ngân hàng thế giới
WNI
Chir số thịnh vƣợng quốc gia
WTO
Tổ chức thƣơng mại thế giới














4
MỤC LỤC

Mục
Trang


Các chữ viết tắt
3


Tổng quan về đề tài
5


Phần một: Cơ sở lý luận và thực tiễn để lựa chọn và tính
chỉ số tổng hợp đo lƣờng mức độ HNKTQT
10


1.1.Khái niệm về HNKTQT
10


1.2. Quan điểm, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
Việt Nam về vấn đề HNKTQT
12



1.3. Phƣơng pháp luận chung về xây dựng chỉ số tổng hợp
13


Phần hai: Nghiên cứu xây dựng chỉ số tổng hợp đo lƣờng
và đánh giá mức độ HNKTQT ở Việt Nam
23


2.1. Một số chỉ tiêu phản ánh HNKTQT trên thế giới
23


2.2. Thực trạng các chỉ tiêu phản ánh mức độ HNKTQT ở
nƣớc ta
26


2.3. Xây dựng chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ HNKTQT
28


2.4. Vấn đề về nguồn số liệu
36


Phần ba: Tính toán, phân tích thử nghiệm
40



3.1. Tập hợp số liệu
40


3.2. Kết quả tính toán và phân tích
43


Kết luận và kiến nghị
59


Tài liệu tham khảo
61


Các sản phẩm chính đã đạt đƣợc
63


5
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI

1. Sự cần thiết của đề tài:

Việt Nam đã gia nhập WTO, và đang từng bƣớc hôị nhập ngày
càng sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế. Các phƣơng tiện thông tin đại
chúng, các báo cáo tổng kết phát triển từng địa phƣơng, từng Bộ/ngành,
từng lĩnh vực, hầu nhƣ thƣờng xuyên đều đề cập đến kết quả công tác của

mình trong lĩnh vực hội nhập quốc tế (HNQT). Về khía cạnh tổ chức,
Nhà nƣớc đã thành lập Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế với nƣớc
ngoài, trong đó có Bộ phận Hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, chƣa hẳn tất cả đều hiểu thấu đáo khái niệm HNQT, hầu
nhƣ bức tranh về HNQT qua các con số thống kê vần chƣa đƣợc vẽ ra và
trình bày một cách đầy đủ. Vẫn chƣa có đƣợc một tiêu chí đo lƣờng và
đánh giá mức độ HNQT của đất nƣớc, cơ sở để đánh giá sự tiến bộ trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT).

Do vậy, cần tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học này, với mục tiêu
mà ngay chính tên gọi đã cho thấy khá rõ nét, đó là: xây dựng một số chỉ
số tổng hợp nhằm phân tích, đánh giá mức độ HNKTQT của nƣớc ta.

2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc

Trong nƣớc, để đẩy nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đƣa
đất nƣớc sớm thoát khỏi tình trạng một quốc gia chậm phát triển, một
trong những giải pháp tích cực trong chính sách phát triển là đẩy mạnh
quá trình HNQT. Thực tế cho thấy quá trình HNQT của nƣớc ta đang
diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy,
có thể nói khó mà kể hết các công trình đề cập tới lĩnh vực HNQT, kể từ
các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nƣớc, của từng Bộ/ngành, cho
tới từng địa phƣơng, cơ quan, đơn vị. Song các công trình đó mới chỉ đề
cập tới chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách về HNQT, hoặc các hoạt động
cụ thể nhằm từng bƣớc thực hiện việc đẩy nhanh và sâu rộng công tác
HNQT, chứ hầu nhƣ chƣa thấy các công trình nghiên cứu đề xuất các chỉ
số thống kê tổng hợp nhằm đo lƣờng mức độ HNQT của nƣớc ta.

Trên thế giới, gần đây, Ban Thƣ ký ASEAN cũng đã bắt tay vào

việc nghiên cứu một số chỉ tiêu thống kê phản ánh mức độ hội nhập của
khu vực, song vẫn chƣa hoàn tất và chƣa có kết quả cụ thể.

6

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Theo các phƣơng pháp thống kê truyền thống, để mô tả và đánh giá
hiện tƣợng kinh tế xã hội nào đó, ngƣời ta hay sử dụng một hệ thống các
chỉ tiêu thống kê. Tuy nhiên, theo các phƣơng pháp thống kê hiện đại,
ngƣời ta lại chú trọng sử dụng một chỉ số thống kê tổng hợp. Mục tiêu
của nghiên cứu này nhằm xây dựng một số chỉ số thống kê tổng hợp
nhằm đánh giá mức độ HNKTQT của Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tƣợng nghiên cứu: chỉ số thống kê tổng hợp phản ánh
HNKTQT của nƣớc ta; Phạm vi nghiên cứu: HNKTQT của quốc gia.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu tài liệu trong nƣớc và ngoài nƣớc;

- Khai thác số liệu của một số nghiệp vụ chuyên ngành liên quan;

- Sử dụng các phƣơng pháp phân tích, đánh giá và tổng hợp;

- Hội thảo; Sử dụng phƣơng pháp tƣ vấn,

6. Cấu trúc báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài:


- Tổng quan vấn đề nghiên cứu;

- Cơ sở lý luận và thực tiễn để lựa chọn và tính chỉ số tổng hợp đo
lƣờng và đánh giá mức độ HNKTQT;

- Nghiên cứu xây dựng chỉ số tổng hợp đo lƣờng và đánh giá mức
độ HNKTQT ở Việt Nam;

- Tính toán và phân tích thử nghiệm;

7

- Kiến nghị với TCTK ứng dụng kết quả nghiên cứu đề tài.

7. Triển vọng áp dụng kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học này có thể đƣợc áp dụng cho
phân tích quá trình HNKTQT của nƣớc ta, thông qua các chỉ số tổng hợp
có thể xác định đƣợc những mặt mạnh, mặt yếu, từ đó kiến nghị các giải
pháp chính sách nhằm tăng cƣờng HNKTQT, góp phần đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

8. Sản phẩm nghiên cứu

(i) Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu, trong đó trình bày chỉ số
tổng hợp đo lƣờng mức độ HNKTQT của nƣớc ta, có kết quả tính toán
thử nghiệm và kiến nghị áp dụng vào thực tiễn phân tích kinh tế - xã hội;

(ii) Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu của đề tài;


(iii) Các báo cáo chuyên đề nghiên cứu liên quan.

9. Những hạn chế của công trình nghiên cứu này

HNKTQT là một trong những chủ trƣơng và chính sách lớn của
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay. Nƣớc
ta đã tiến hành chính sách đổi mới và mở cửa hơn 20 năm, song thực ra
vấn đề hội nhập mới chỉ đƣợc đẩy mạnh từ khi Việt Nam chính thức gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đặc biệt là từ khi
Việt Nam trở thành thành viên chính thức và đầy đủ của WTO. Do vậy,
kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực này của chúng ta so với một số
quốc gia khác trên thế giới chƣa phải đã là vƣợt trội, chƣa muốn nói rằng
có những vấn đề còn phải nghiên cứu sâu hơn nữa.

Một trong số những vấn đề nhƣ vậy mà Thống kê phải có nghĩa vụ
đóng góp, đó là xây dựng chỉ số tổng hợp mô tả và đánh giá mức độ
HNKTQT của nƣớc ta.


8
Đây là công trình nghiên cứu mới, chúng tôi chƣa thấy có công
trình nào trên thế giới đề cập tới chỉ số tổng hợp đo lƣờng mức độ
HNKTQT của một quốc gia.

Ý nghĩa của vấn đề rất lớn, công dụng của chỉ số tổng hợp rất thiết
thực với các nhà hoạch định chính sách và quản lý, phân tích, đánh giá
công tác HNKTQT, nhƣng đề tài nghiên cứu khoa học này chỉ với quy
mô của một đề tài cấp cơ sở, do đó nguồn lực hạn chế, và chắc chắn sẽ
còn những vấn đề phải đƣợc củng cố thêm theo thời gian. Cụ thể, đó là:


(i) Đề tài này đã lựa chọn 3 thành phần cơ bản của HNKTQT, đó là
tự do di chuyển vốn, tự do di chuyển con ngƣời và tự do di chuyển hàng
hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, cần nghiên cứu sâu hơn nữa số lƣợng thành
phần đƣa vào chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ HNKTQT;

(ii) Xuất phát từ thƣc trạng và khả năng hiện có của nguồn số liệu,
để thể hiện và mô tả chỉ số tổng hợp phản ánh HNKTQT, đề tài này đã
lựa chọn 2 chỉ tiêu thống kê phản ánh vấn đề tự do di chuyển vốn (tỷ lệ
luồng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt Nam và tỷ lệ luồng vốn
đầu tƣ trực tiếp của Việt Nam ra nƣớc ngoài so với GDP); 1 chỉ tiêu phản
ánh tự do di chuyển con ngƣời (tỷ lệ số lƣợt khách quốc tế vào Việt Nam
so với dân số); 2 chỉ tiêu phản ánh tự do di chuyển hàng hoá và dịch vụ
(tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu so với GDP).
Tuy nhiên, cần nghiên cứu sâu hơn nữa số lƣợng các chỉ tiêu thống kê mô
tả từng thành phần của chỉ số tổng hợp;

(iii) Xuất phát từ thực tế nƣớc ta mới thực sự theo chính sách mở
cửa chƣa lâu, và cũng chỉ mới thực sự bƣớc vào con đƣờng HNKTQT,
nên đề tài này đề xuất mức độ mong muốn đạt đƣợc trong HNKTQT là
mức "bình quân châu Âu", và mức độ mong muốn đạt đƣợc trong hội
nhập kinh tế khu vực (HNKTKV) là mức "bình quân ASEAN-6". Tuy
nhiên, cần làm rõ hơn mức độ "tốt nhất" mong muốn đạt đƣợc của từng
chỉ tiêu thành phần trong lĩnh vực HNKTQT đối với từng giai đoạn phát
triển của đất nƣớc;

(iv) Xuất phát từ thực tế chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ
HNKTQT lần đầu đƣợc nghiên cứu lựa chọn và đề xuất, do đó cần phải
có thời gian để phổ biến rộng rãi chỉ số tổng hợp này tới các nhà hoạch
định chính sách HNKTQT và những ngƣời sử dụng .v.v.



9
Trong quá trình thẩm định kết quả nghiên cứu đề tài, có một số ý
kiến góp ý. Chúng tôi đã nghiên cứu, xem xét kỹ và thấy nhƣ sau:

- Lý giải tại sao lại tính toán theo công thức giản đơn mà phần lý
thuyết lại nêu vấn đề quyền số. Về mặt lý thuyết, khi các yếu tố đƣa vào
để tính chỉ số tổng hợp bao giờ cũng có quyền số đi kèm thể hiện mức độ
quan trọng của mỗi yếu tố đóng góp ý nghĩa cho chỉ số tổng hợp. Tuy
nhiên, cũng nhƣ rất nhiều các chỉ số thống kê hiện nay đang thịnh hành
trên thế giới, ví dụ HDI, HPI, PCI, TDI, NCI .v.v. hầu nhƣ tất cả đều tính
toán theo công thức bình quân giản đơn. Việc xác định quyền số không
hề đơn giản, nhiều khi chỉ dựa theo kinh nghiệm và mang ý nghĩa cảm
tính, giá nhƣ cần phải xác định quyền số cho thật chính xác và có căn cứ
khoa học thì với một đề tài cấp cơ sở này không thể giải quyết một cách
thấu đáo đƣợc. Hơn nữa, khi tính theo công thức bình quân giản đơn
không có nghĩa là không có quyền số, mà khi đó, quyền số của tất cả các
yếu tố ngang nhau và đều bằng 1, nghĩa là tất cả các yếu tố đều có mức
độ quan trọng nhƣ nhau đóng góp vào chỉ số thống kê tổng hợp.

- Làm rõ kết quả tính toán là do Ban Chủ nhiệm đề tài tính hay là
chỉ tập hợp các số liệu: số liệu ban đầu (sơ cấp) về các chỉ tiêu thống kê
nhƣ kim ngạch xuất nhập khẩu, FDI, khách nƣớc ngoài vào của từng
nƣớc thì lấy từ các nguồn nhƣ đã chỉ rõ trong mục 2.4, còn đối với các
thông tin thứ cấp thì đƣơc tính toán theo các công thức đã nêu.

- Chuyển mục 2.4 xuống phần phụ lục. Thực ra, dù để ở phần báo
cáo chính hay đƣa xuống phụ lục cũng đều là kết quả nghiên cứu, tìm tòi
của những ngƣời tham gia đề tài. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều đề tài

đƣợc nghiên cứu và nghiệm thu xong nhƣng khi áp dụng vào thực tiễn thì
lại gặp nhiều bất cập vì lý do khó tìm ra nguồn số liệu. Do vậy, chúng tôi
muốn đề cao vấn đề về nguồn và cách thức tìm kiếm số liệu trong đề tài
này, muốn nói rằng, số liệu đáp ứng cho việc tính toán Chỉ số HNKTQT
là hoàn toàn có thể kiếm đƣợc dễ dàng từ các nguồn thống kê chính thức,
nhất là từ các trang điện tử (vì phải lấy số liệu thống kê của nƣớc ngoài),
và chúng tôi gắn luôn địa chỉ các trang web, cách thao tác để truy cập,
nhằm tạo thuận tiện cho những ngƣời ứng dụng kết quả của đề tài.

- Một số góp ý khác chúng tôi thấy hợp lý và đã chỉnh sửa vào Báo
cáo này.

10
PHẦN MỘT
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ LỰA CHỌN VÀ TÍNH CHỈ SỐ
TỔNG HỢP ĐO LƢỜNG MỨC ĐỘ HNKTQT

1.1. Khái niệm về HNKTQT

Theo Từ điển tƣờng giải kinh tế xã hội ([15], trang 251), thì:

(i) Hội nhập kinh tế đƣợc định nghĩa là sự mở cửa các nền kinh tế
quốc dân cho hợp tác xuyên biên giới với các nƣớc khác, mà chủ yếu là
các nƣớc láng giềng. Sự thoả thuận của các Nhà nƣớc thể hiện ở chỗ, đẩy
mạnh thƣơng mại giữa các quốc gia (xây dựng thƣơng mại) và điều chỉnh
việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ với các quốc gia thứ ba (những quốc gia
không tham gia hội nhập) để dành ƣu tiên cho trao đổi giữa các quốc gia
cùng tham gia hội nhập (điều chỉnh thƣơng mại);

(ii) Hội nhập của các nền kinh tế quốc dân cũng thể hiện rõ ở chỗ

mạng lƣới quan hệ qua lại trong lƣu thông vốn ngắn hạn và dài hạn trở
nên đƣợc sàng lọc ngặt nghèo;

(iii) Chừng nào các điều kiện thể chế và pháp luật còn tồn tại, thì
sự hội nhập còn đƣợc thể hiện bằng những khả năng chuyển động lâu dài
của các lực lƣợng lao động và bằng sự trao đổi tri thức đƣợc bảo vệ trong
thƣơng mại và đƣợc vận dụng trong kinh tế.

Theo ([16], trang 241), thì hội nhập kinh tế là tổ hợp các hoạt động
kinh tế khác nhau dƣới cùng một cơ chế điều khiển, kiểm soát thống nhất.
Hội nhập kinh tế còn có nghĩa là tổ chức các hoạt động kinh tế ở mức mà
gianh giới quốc gia không còn mang nhiều ảnh hƣởng. Hội nhập kinh tế
hoàn toàn có nghĩa là việc lƣu thông và thƣơng mại hàng hoá và dịch vụ
đƣợc tự do hoàn toàn; việc huy động các nguồn vốn từ mọi nơi đƣợc
hoàn toàn tự do; tự do hoàn toàn trong việc di cƣ tìm kiếm công ăn việc
làm; tự do hoàn toàn trong việc thành lập các doanh nghiệp hay cơ sở sản
xuất; luồng thông tin và tƣ duy hoàn toàn không bị gây cản trở. HNKTQT
còn có nghĩa là không còn sự khác biệt giữa các quốc gia về mặt đánh
thuế, cấp vốn hoạt động cho các dịch vụ xã hội, không còn khác biệt
trong chính sách quản lý cạnh tranh và độc quyền, chính sách về các vấn
đề môi trƣờng cũng nhƣ lƣu thông tiền tệ. Một thế giới đại đồng nhƣ vậy
còn xa mới có thể đạt tới, song trƣớc mắt đã có một số khối quốc gia có
sự nhất thể tƣơng đối về kinh tế, nhƣ EU, NAFTA, và một số quốc gia có
những nền văn hoá tƣơng đồng.


11
Nhƣ vậy, HNKTQT là một trong những xu thế tất yếu của toàn cầu
hoá. Ngƣời ta tính rằng, có ba làn sóng về toàn cầu hoá kinh tế diễn ra từ
năm 1870 đến nay, đó là ([17], trang 105):


(i) Làn sóng thứ nhất (1870 - 1914) với đặc trƣng là sự di chuyển
mạnh mẽ lao động từ châu Âu sang các miền đất chƣa đƣợc khai phá ở
Mỹ La-tinh, châu Á;

(ii) Làn sóng thứ hai (1945 - 1980) với đặc trƣng là sự phát triển
vận tải hàng không, cƣớc vận tải biển hạ thấp và mạng điện thoại quốc tế
mở rộng, dòng vốn di chuyển nhanh hơn và rộng hơn đã tạo ra nhóm
công ty chuyên chế tạo cùng chủng loại sản phẩm và kết nối với nhau
theo chiều dọc trên thế giới;

(iii) Làn sóng thứ ba (từ 1980 đến nay) đƣợc đặc trƣng bởi sự phát
triển vũ bão của công nghệ thông tin và liên lạc viễn thông. Dựa trên nền
tảng quan trọng này, các nền kinh tế đã kết nối tạo thành một thế giới liên
thông khổng lồ, theo đó, lợi ích cũng nhƣ rủi ro luôn song hành.

Những làn sóng về toàn cầu hoá này, với những đặc trƣng khác
nhau, đã mang đến cho nhân loại một thế giới tốt đẹp hơn, phồn vinh hơn,
nhƣng bên cạnh đó cũng chứa đựng không ít rủi ro, phức tạp, đa dạng và
khó đoán định.

HNKTQT là một góc độ của toàn cầu hoá, là hệ quả tất yếu của
toàn cầu hoá trong quá trình phát triển của thế giới và của mỗi quốc gia
trong giai đoạn phát triển hiện đại ngày nay.

1.2. Quan điểm, đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
Việt Nam về vấn đề HNKTQT

Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng nhƣ theo
thông lệ quốc tế về khái niệm HNKTQT, ngày nay ngƣời ta hiểu nôm na

HNKTQT là quá trình thiết lập và tham gia trên cùng một “sân chơi”,
cùng một “luật lệ” đƣợc sự thoả thuận và nhất trí của tất cả các bên tham
gia trong lĩnh vực phát triển kinh tế. Muốn xác định đƣợc các chỉ tiêu
thống kê mô tả quá trình hội nhập quốc tế của đất nƣớc, cũng nhƣ xây
dựng đƣợc các chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ HNKTQT, thì việc đầu
tiên là phải hiểu và nắm chắc đƣợc quan điểm, đƣờng lối chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề này.

Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định, HNKTQT là quá trình chủ động
gắn kết nền kinh tế của đất nƣớc vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực

12
hoặc toàn cầu; trong đó, các thành viên quan hệ với nhau theo những quy
định chung có sự nhất trí của tất cả các thành viên sáng lập (tức là ra cùng
một “sân chơi chung”. Điều đó có nghĩa là chúng ta đứng cùng sân chơi,
chơi cùng luật chơi với thế giới. Trƣớc kia, khái niệm hội nhập kinh tế
quốc tế đƣợc hiểu đơn thuần là những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị
trƣờng. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay đƣợc hiểu là việc một quốc gia
thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài chính
quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư, đi lại
nhằm mục tiêu mở cửa thị trường cho các luồng di chuyển vốn, di chuyển
con người, di chuyển hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản đối với trao
đổi thƣơng mại và các luồng di chuyển khác.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nƣớc ta phát triển nhanh
và bền vững nhƣng cũng đặt nƣớc ta trƣớc nhiều thách thức lớn. Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng đề ra là chúng ta phải “Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế”. Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội X của Đảng có điểm đổi
mới là đã bổ sung từ “tích cực” thành: “Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế”.


“Chủ động” là ta tự quyết định đƣờng lối phát triển kinh tế – xã hội
nói chung, chủ trƣơng, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng; là
nắm vững các quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu,
phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của đất nƣớc, xác định lộ trình, nội
dung, quy mô, bƣớc đi HNKTQT; đa phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan
hệ kinh tế quốc tế, không chỉ tập trung vào một thị trƣờng, một sản phẩm;
chủ động thực hiện các cam kết song phƣơng, đa phƣơng và chủ động
vận dụng các “luật chơi” của các thể chế kinh tế – thƣơng mại quốc tế
trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của đất nƣớc vừa hợp tác vửa đấu tranh,
không bị động và cũng không tự phát, nóng vội, chủ quan, duy ý chí; có
sáng kiến, biết phân tích, chủ động lựa chọn đối tác và phƣơng thức kinh
doanh, dự báo đƣợc những thuận lợi và khó khăn khi HNKTQT.

“Tích cực” là HNKTQT với tinh thần mạnh mẽ hơn, khẩn trƣơng
hơn, toàn diện và sâu rộng hơn so với giai đoạn trƣớc; không chần chừ,
do dự mà đẩy mạnh đổi mới bên trong, từ phƣơng thức lãnh đạo, quản lý
đến hoạt động thực tiễn, từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, doanh nghiệp;
khẩn trƣơng xây dựng và thực hiện chiến lƣợc, lộ trình, kế hoạch
HNKTQT; tích cực tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài đồng thời
mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế – xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp,
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế; mạnh
dạn mở rộng, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại và tham gia
các thể chế, định chế kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế.

13
“Tích cực” còn là không duy trì quá lâu các chính sách bảo hộ của Nhà
nƣớc, khắc phục nhanh trình trạng trì trệ và tâm lý trông chờ, ỷ lại ở sự
bao cấp của Nhà nƣớc. Tích cực nhƣng vững chắc, có sự chuẩn bị cần

thiết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu quản lý, hệ thống luật pháp, có
thông tin cập nhật và dự báo tình hình tƣơng đối chính xác, có đội ngũ
cán bộ hiểu biết về thị trƣờng, đối tác, tinh thông nghiệp vụ kinh doanh,
hội nhập kinh tế.

Vai trò và nhiệm vụ của khoa học thống kê là phải mô tả, đo lƣờng
đƣợc quá trình HNKTQT này thông qua các chỉ tiêu thống kê, các con số
thống kê, làm căn cứ cho Đảng, Chính phủ và Nhà nƣớc đề ra các chính
sách, điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống
trong nƣớc và trên thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển nâng
cao mức sống của nhân dân, mau chóng thoát khỏi tình trạng nghèo đói
và lạc hậu, đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Vấn đề đặt ra trong nghiên cứu này là trên cơ sở đã xác định đƣợc
các lĩnh vực chủ yếu của HNKTQT, những chỉ tiêu thống kê phản ánh
từng lĩnh vực chủ yếu của HNKTQT, chúng ta phải xác định rõ nguồn
thông tin lấy từ đâu, lấy trên nguyên tắc nào, để xác định xác định
phƣơng pháp tính, và xây dựng quy trình tính toán một số chỉ tiêu thống
kê tổng hợp phản ánh mức độ HNKTQT của nƣớc ta trên từng lĩnh vực
và trong tổng thể.

1.3. Phƣơng pháp luận chung về xây dựng chỉ số tổng hợp

Trong các nghiên cứu gần đây về các vấn đề kinh tế - xã hội, ngƣời
ta sử dụng ngày càng nhiều các chỉ số tổng hợp (synthetic index), chẳng
hạn nhƣ các chỉ số HDI, chỉ số phát triển liên quan đến giới GDI, chỉ số
vai trò phụ nữ GEM (hay còn gọi là chỉ số quyền năng của phụ nữ), chỉ
số phát triển công nghệ TAI, chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia NCI, chỉ
số hạnh phúc quốc gia GNHI, chỉ số tự do kinh tế IEF, chỉ số thịnh vƣợng

quốc gia WNI, chỉ số thực thi công vụ, chỉ số chất lƣợng cuộc sống, chỉ
số thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ, v.v

Sở dĩ nhƣ vậy vì các hiện tƣợng kinh tế xã hội về bản chất là các
hiện tƣợng phức tạp, nhiều chiều, để đánh giá và so sánh đƣợc các hiện
tƣợng kinh tế xã hội theo không gian và thời gian đòi hỏi phải xem xét
chúng trên nhiều phƣơng diện (nhiều chiều) khác nhau. Nhƣng làm thế
nào để có thể đánh giá và tổng hợp chính xác đƣợc các khía cạnh khác

14
nhau của hiện tƣợng nghiên cứu, lý thuyết thống kê đã cung cấp cho
chúng ta nhiều phƣơng pháp khác nhau để giải quyết vấn đề này.

Về mặt lý luận khi xây dựng chỉ số tổng hợp chúng ta phải giải
quyết hai vấn đề chính:

 Một là lựa chọn đƣợc các chỉ tiêu thành phần (hay tiêu thức nhân
tố) phản ánh đƣợc bản chất của hiện tƣợng nghiên cứu;

 Hai là bằng cách nào chúng ta có thể tổng hợp (hay gộp) các chỉ
tiêu thành phần này, tức là xác định đƣợc các trọng số của các chỉ
tiêu thành phần trong chỉ tiêu tổng hợp.

Cho đến nay các công trình nghiên cứu vẫn chƣa giải quyết thoả
đáng hai vấn đề cơ bản nêu trên, chính vì vậy đề tài nghiên cứu này đã
tham khảo một số tài liệu ([1] Đỗ Văn Huân, "Chỉ số bình quân nhiều
chiều", Thông tin khoa học Thống kê, Viện KHTK, TCTK, số 4 – 2003,
trang 25; [2] Nguyễn Trọng Hậu, "Phƣơng pháp tổng quát xây dựng các
chỉ số tổng hợp", Thông tin khoa học Thống kê, Viện KHTK, TCTK, số 4
– 2006, trang 10) để khái quát thành một phƣơng pháp đơn giản, dễ vận

dụng trong thực tế xây dựng các chỉ số tổng hợp.

Thông thƣờng, để phản ánh và mô tả các hiện tƣợng phức tạp,
ngƣời ta sử dụng các nhóm chỉ tiêu khác nhau đặc trƣng cho từng khía
cạnh của hiện tƣợng và trong mỗi nhóm lại gồm một số các chỉ tiêu cụ
thể mà có khả năng thống kê đƣợc trong thực tiễn.

Việc xây dựng chỉ số tổng hợp đƣợc tiến hành theo các bƣớc sau:

Bước 1: Phân tích định tính tính chất của các chỉ tiêu thành phần:
chia chỉ tiêu tác động thành tích cực và tiêu cực.

Về bản chất các hiện tƣợng phức tạp thƣờng là các phạm trù trừu
tƣợng không trực tiếp quan sát đƣợc và rất khó đo lƣờng trực tiếp chúng,
để có thể đánh giá và lƣợng hoá đƣợc các hiện tƣợng chúng ta cần phải
thông qua các chỉ tiêu thành phần cụ thể.

Đối với một hiện tƣợng kinh tế xã hội phức tạp, chẳng hạn nhƣ
mức sống, chất lƣợng sống hay khả năng cạnh tranh quốc gia thì có rất
nhiều các chỉ tiêu thành phần có thể phản ánh mức độ của tiện tƣợng đó,
chẳng hạn nhƣ để đánh giá mức sống, ngƣời ta có thể dùng các chỉ tiêu
thành phần nhƣ: thu nhập bình quân đầu ngƣời, mức tiêu dùng các loại
thực phẩm bình quân đầu ngƣời, số điện thoại tính trên đầu ngƣời, v.v

15

Các chỉ tiêu này về bản chất là các chỉ tiêu phản ánh hiện tƣợng
nghiên cứu theo góc độ tích cực, tức là chúng biến động cùng chiều và
đóng góp tích cực vào sự phát triển của hiện tƣợng. Tuy nhiên lại có các
chỉ tiêu thành phần khác phản ánh tiêu cực, trái chiều hiện tƣợng nghiên

cứu, ví dụ đối với mức sống các chỉ tiêu nhƣ số trẻ em suy dinh dƣỡng
hay số ngƣời vô gia cƣ, v.v Nhƣ vậy phân tích định tính cho phép
chúng ta phân các chỉ tiêu thành phần vào hai nhóm các chỉ tiêu tác động
tích cực và các chỉ tiêu tác động tiêu cực, về mặt nguyên tắc chúng ta
luôn có thể biến các chỉ tiêu tiêu cực thành tích cực và ngƣợc lại bằng
động tác nghịch đảo hay đảo chiều tác động. Do đó, trong phần nghiên
cứu dƣới đây chúng ta sẽ giả thiết các chỉ tiêu đều là chỉ tiêu tích cực.

Bước 2: Lựa chọn các chỉ tiêu thành phần chủ yếu phản ánh hiện
tƣợng nghiên cứu.

Để phản ánh hiện tƣợng nghiên cứu có thể sử dụng rất nhiều chỉ
tiêu thành phần. Nếu sử dụng tất cả các chỉ tiêu này thì chúng ta sẽ gặp
phải vấn đề nhiễu thông tin, hay loãng thông tin, do đó nên loại trừ những
chỉ tiêu chứa đựng lƣợng thông tin không đáng kể về hiện tƣợng. Nói
cách khác chúng ta nên chọn ra một số lƣợng vừa đủ các chỉ tiêu thành
phần, điều này còn làm giảm chi phí tính toán trong xử lý số liệu. Từ tập
hợp ban đầu các chỉ tiêu, chúng ta rút lại một nhóm nhỏ hơn gọi là các chỉ
tiêu thứ cấp. Có rất nhiều phƣơng pháp khác nhau để lựa chọn các chỉ
tiêu mong muốn, ví dụ có thể sử dụng phân tích tƣơng quan. Tuy nhiên,
trong kinh tế - xã hội ngƣời ta lại hay sử dụng phƣơng pháp chuyên gia
dựa và kinh nghiệm và phán xét thực tiễn để chọn lựa. Cuối cùng sẽ thu
đƣợc một tập hợp các chỉ tiêu thành phần thứ cấp với số lƣợng nhỏ hơn
lúc ban đầu.

Bước 3: Phân tích mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu thành phần
(hay mức độ quan trọng của thông tin).

Rõ ràng mỗi chỉ tiêu thành phần chứa đựng thông tin về hiện tƣợng
nghiên cứu với các mức độ khác nhau, có chỉ tiêu phản ánh đƣợc nhiều,

có chỉ tiêu phản ánh đƣợc ít. Tức là vai trò và tầm quan trọng của các chỉ
tiêu đối với hiện tƣợng nghiên cứu là khác nhau. Để đánh giá vấn đề này
ta phân tích hệ số biến thiên của từng chỉ tiêu thành phần đƣợc chọn.

Nếu một chỉ tiêu thành phần nào đó có hệ số biến thiên nhỏ tức là
mức đồng đều của chỉ tiêu này tại từng đối tƣợng là khá cao, thì chỉ tiêu
đó về bản chất là chỉ tiêu chứa đựng ít thông tin về hiện tƣợng nghiên
cứu. Ví dụ với chỉ tiêu tỷ lệ xã có đƣờng ô tô đến trụ sở, có trạm y tế, hay

16
đƣợc dùng điện lƣới, thì chỉ tiêu này ở hầu hết các tỉnh đều đạt hầu nhƣ
100%, cho nên nếu dùng chỉ tiêu này để đánh giá mức ảnh hƣởng tới thay
đổi mức sống thì chất lƣợng thông tin trong phân tích sẽ không cao, mặc
dù trên thực tế chúng rất có ý nghĩa. Hay nói cách khác, đối với một chỉ
tiêu thành phần nào đó mà càng ít đối tƣợng đạt đƣợc mức độ cao, độ
biến thiên của nó lớn, thì chỉ tiêu đó càng có giá trị thông tin trong phân
tích, ví dụ nhƣ đối với mức sống thì chỉ tiêu số lƣợng ô tô tính trên 1.000
dân chẳng hạn là chỉ tiêu phản ánh rõ nét mức sống cao và chỉ tiêu này
khó đạt đƣợc đồng đều đối với các đối tƣợng nghiên cứu, hơn nữa chỉ
tiêu này rõ ràng thể hiện mức sống cao hơn so với chỉ tiêu nhƣ số lƣợng
xe đạp hay vô tuyến tính trên 1.000 dân.

Nhƣ vậy có thể kết luận là: chỉ tiêu càng quan trọng thì càng ít đối
tƣợng đạt đƣợc giá trị (mức độ) mong muốn của nó. Để đơn giản tại bƣớc
này chúng ta sẽ loại bỏ bớt các chỉ tiêu mà hệ số biến thiên nhỏ (tức là
lƣợng thông tin về hiện tƣợng nghiên cứu thấp).

Bước 4: Chuẩn hoá các chỉ tiêu thành phần đã đƣợc chọn lọc

Có nhiều phƣơng pháp chuẩn hoá nhƣng thông thƣờng ngƣời ta

hay áp dụng phƣơng pháp chuẩn hoá bằng cách tính toán mức đạt tới "giá
trị tốt nhất" (hay là giá trị mong muốn):

+ "Cao nhất", ví dụ tuổi thọ; tỷ lệ đi học đúng tuổi

+ "Lý tƣởng nhất", ví dụ mức sinh thay thế: nếu vƣợt quá thì tốc độ
tăng dân số sẽ nhanh, thấp quá thì dân số sẽ suy giảm, hay nhƣ tỷ lệ giới
tính khi sinh, nếu quá cao thì sẽ thừa nam thiếu nữ, thấp quá thì thừa nữ
thiếu nam

+ Thấp nhất, ví dụ tỷ lệ bệnh tật 0%.

Việc chuẩn hoá đƣợc thực hiện bằng cách lấy trị số của chỉ tiêu
chia cho "giá trị tốt nhất" vừa tìm ra, để biết chỉ tiêu đó đã đạt tới mức
nào của "giá trị tốt nhất".

Các chỉ tiêu thống kê có các đơn vị đo khác nhau. Chúng ta không
thể thực hiện việc tổng hợp thông qua các phép tính số học cộng trừ giữa
các đơn vị đo khác nhau ấy. Do vậy, phải thực hiện biện pháp chuẩn hoá.
Chuẩn hoá chỉ tiêu ở đây có nghĩa là đƣa các chỉ tiêu có đơn vị đo
khác nhau về cùng một tham chiếu đo dƣới dạng thức chỉ số để thực hiện

17
phép tính tổng hợp (ta còn gọi biện pháp chuẩn hoá này là phép chỉ số
hoá chỉ tiêu).
Để thực hiện đƣợc việc chuẩn hoá này, cần phân chia các chỉ tiêu
thống kê thành 3 loại:
(i) Loại yếu tố có tác động tích cực, tức là có quan hệ đồng biến,
khi trị số của chỉ tiêu này tăng lên, sẽ góp phần làm tốt thêm hiện tƣợng
cần nghiên cứu, tiến gần hơn tới "mức độ mong muốn", và ngƣợc lại, khi

trị số của chỉ tiêu này giảm đi, sẽ gây tác động làm kém đi hiện tƣợng cần
nghiên cứu, lùi xa hơn khỏi "mức độ mong muốn", ví dụ số lƣợng khách
quốc tế đến càng nhiều, hay đầu tƣ ra nƣớc ngoài cũng nhƣ kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ càng lớn, thì mức độ HNKTQT càng
cao, những chỉ tiêu yếu tố loại này, ta đánh dấu "+";
(ii) Loại yếu tố tác động tiêu cực, tức là có quan hệ nghịch biến,
khi trị số tăng lên, sẽ làm kém đi hiện tƣợng cần nghiên cứu, và ngƣợc
lại, khi trị số của chỉ tiêu này giảm đi, sẽ tác động làm tốt thêm hiện
tƣợng cần nghiên cứu, tiến gần hơn tới "mức độ mong muốn", ví dụ số
lƣợng thủ tục hay thời gian cấp phép đầu tƣ càng nhiều, hay thời gian
thông quan càng dài, thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp càng
thấp, khả năng HNKTQT càng kém. Những chỉ tiêu loại này đƣợc gắn
dấu "-";
(iii) Loại yếu tố có tác động "hƣớng tâm", tức là cùng một chỉ tiêu,
trƣờng hợp này thì cả tăng lên và giảm xuống đều có ảnh hƣởng tích cực
tới hiện tƣợng nghiên cứu, và đối với một số trƣờng hợp khác thì cả tăng
lên và giảm xuống đều có ảnh hƣởng tiêu cực tới hiện tƣợng nghiên cứu,
ví dụ chỉ số giới tính khi sinh: nếu quá nhiều nam hay quá nhiều nữ thì
đều gây ảnh hƣởng têu cực tới sự phát triển của xã hội. Với những yếu tố
loại tác động hƣớng tâm này, chúng ta đánh dấu "*".
Nguyên lý chuẩn hoá là đƣa các chỉ tiêu về thƣớc đo gọi là "mức
đạt được mức độ tốt nhất" của chỉ tiêu.
a- Đối với các yếu tố tác động tích cực
(i) Khi chỉ tiêu yếu tố được đo bằng tỷ lệ phần trăm (%), mức độ
tốt nhất là mức cao nhất có thể đạt tới là 100%. Ví dụ, tỷ lệ gia đình đƣợc
công nhận là gia đình văn hoá có mức độ tốt nhất là 100% (ta gọi là mức
cực đại - max), tức là toàn bộ các gia đình đều đạt tiêu chuẩn gia đình
văn hoá, còn mức độ thấp nhất là 0% (ta gọi là mức cực tiểu - min), tức
là không có gia đình nào đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Tỉnh A có chỉ
tiêu tỷ lệ gia đinh văn hoá 70%, nghĩa là tỉnh A đã đạt 70% mức cực đại


18
(theo thang điểm 100), hay 7 điểm (theo thang điểm 10), hay 0,7 điểm
mức cực đại (tính theo thang điểm 1).
Thực chất các thang điểm 1, hay 10, hay 100 đều nhƣ nhau về bản
chất. Do yêu cầu mức độ chi tiết và số lẻ sau dấu phẩy trong kết quả mà
ngƣời ta chọn thang điểm này hay thang điểm khác. Cụ thể trong HDI
ngƣời ta chọn thang điểm 1, Chỉ số môi trƣờng đầu tƣ ngƣời ta chọn
thang điểm 10, Chỉ số môi trƣờng kinh doanh ngƣời ta chọn thang điểm
100. Thông thƣờng con số 70,81 (thang điểm 100) dễ nhìn hơn là con số
0,7081 (thang điểm 1) mặc dù chúng có ý nghĩa nhƣ nhau trong các thang
đo khác nhau.
(ii) Khi chỉ tiêu yếu tố được đo bằng số lượng tuyệt đối, mức tốt
nhất là mức cực đại (max), và mức kém nhất là mức cực tiểu (min) đạt
đƣợc trong kỳ nghiên cứu. Mức cực tiểu là mức đƣơng nhiên đạt đƣợc.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trƣớc, khi nghiên cứu xây dựng
HDI, xem xét thu nhập bình quân đầu ngƣời và tuổi thọ trung bình của tất
cả các quốc gia trên thế giới, số liệu khi đó cho thấy không quốc gia nào
có thu nhập bình quân đầu ngƣời vƣợt quá 40.000 đô la Mỹ, và không
quốc gia nào có thu nhập bình quân đầu ngƣời thấp hơn 100 đô la Mỹ
theo sức mua tƣơng đƣơng, do đó UNDP đã lấy mốc 40.000 USD là mức
thu nhập tối đa và 100 USD là mức thu nhập tối thiểu để tính toán Chỉ số
thu nhập. Đối với tuổi thọ, ngƣời ta chọn tối đa là 85 và tối thiểu là 25.
Ví dụ: tỉnh A có tuổi thọ trung bình 70 (thành tích đã đạt đƣợc là
70-25=45), trong khi mức tối đa cần phấn đấu để đạt tới là (85-25 = 60),
tính dƣới dạng chỉ số thì thành tích đã đạt đƣợc là 45/60 = 0,750.
Công thức chuẩn hoá tổng quát là:
minmax
min
XX

XX
I
i
i
thuc
i
j
i



(1)
Với:
I
i
j

là chỉ số của yếu tố i thuộc thành tố j

X
i
max

là mức độ tối đa đạt đƣợc của yếu tố i;

X
i
min

là mức độ tối thiểu đạt đƣợc của yếu tố i;


X
i
thực

là mức độ thực tế đạt đƣợc của yếu tố i.

b- Đối với các yếu tố tác động tiêu cực
(i) Khi chỉ tiêu yếu tố được đo bằng tỷ lệ phần trăm (%), mức độ
tốt nhất là mức thấp nhất có thể đạt tới là 0%. Ví dụ, tỷ lệ suy dinh dƣỡng

19
của trẻ em dƣới 5 tuổi có mức độ tốt nhất là 0% (ta gọi là mức cực tiểu -
min), tức là toàn bộ dƣới 5 tuổi đều không bị suy dinh dƣỡng, còn mức
độ xấu nhất là 100% (ta gọi là mức cực đại - max), tức là toàn bộ trẻ em
dƣới 5 tuổi đều bị suy dinh dƣỡng. Tỉnh A có chỉ tiêu tỷ lệ suy dinh
dƣỡng của trẻ em dƣới 5 tuổi là 20%, nghĩa là tỉnh A trên con đƣờng
phấn đấu để giảm từ 100% xuống 0% trẻ em suy dinh dƣỡng thì đã đạt
đƣợc mức (100,0 - 20,0 = 80,0) % theo thang điểm 100 hay (10,0 - 2,0 =
8,0) theo thang điểm 10, hoặc (1,00 - 0,200 = 0,800) theo thang điểm 1. Ở
đây, mức độ đạt đƣợc dƣới dạng phần trăm và đó cũng là dạng chỉ số.
Công thức chung để tính chỉ số yếu tố là:
I
i
j
= 1 - I
i
thực
(2)


Với:
I
i
j

là chỉ số của yếu tố i thuộc thành tố j

I
i
thực

là mức độ (chỉ số) thực tế đạt đƣợc của yếu tố i.

(ii) Khi chỉ tiêu yếu tố được đo bằng số lượng tuyệt đối, mức độ
tốt nhất là mức cực tiểu (min), và mức độ kém nhất là mức cực đại
(max). Việc xác định mức cực đại và cực tiểu cũng giống nhƣ trƣờng hợp
các yếu tố tích cực có tác động đồng biến với chỉ số tổng hợp. Nhƣng ý
nghĩa trái ngƣợc hẳn. Ngƣời ta phấn đấu để đạt đƣợc mức cực tiểu bởi vì
các chỉ tiêu yếu tố loại này càng nhỏ thì hiện tƣợng nghiên cứu càng tốt
lên. Chuẩn hoá (chỉ số hoá) thực hiện theo công thức sau:
minmax
max
ii
thuc
ii
j
i
XX
XX
I




(3)
Với:
I
i
j

là chỉ số của yếu tố i thuộc thành tố j;

X
i
max

là mức độ tối đa đạt đƣợc của yếu tố i;

X
i
min

là mức độ tối thiểu đạt đƣợc của yếu tố i;

X
i
thực

là mức độ thực tế đạt đƣợc của yếu tố i.
Có thể thực hiện phép biến đổi số học đơn giản:


X
i
max
- X
i
min
- X
i
thực
+ X
i
min

I
i
j
=
(4)

X
i
max
- X
i
min

Hay:

X
i

max
- X
i
min
- (X
i
thực
- X
i
min
)
I
i
j
=
(5)

X
i
max
- X
i
min


20
Ta có:


(X

i
thực
- X
i
min
)
I
i
j
=
1 -
(6)


X
i
max
- X
i
min


c- Đối với các yếu tố tác động hướng tâm
Trƣớc hết cần xác định thế nào là "Tâm". "Tâm" là một trị số hay
một khoảng trị số của chỉ tiêu mà đƣợc coi là tốt nhất. Trị số của chỉ tiêu
mà nằm phía trên hay phía dƣới "Tâm" đó đều chƣa thể coi là tốt, mà
phải phấn đấu để chỉ tiêu đạt đƣợc con số đƣợc gọi là "Tâm".
Nếu trị số của chỉ tiêu nằm dƣới "Tâm", thì ảnh hƣởng của sự thay
đổi của chỉ tiêu cũng nhƣ việc tính toán chỉ số yếu tố I
i

hoàn toàn giống
nhƣ các chỉ tiêu có tác động tích cực, nghĩa là trị số chỉ tiêu tăng lên sẽ
làm cho chỉ số tổng hợp tăng lên.
Nếu trị số của chỉ tiêu nằm trên mức "Tâm", thì ảnh hƣởng của sự
thay đổi của chỉ tiêu cũng nhƣ việc tính toán chỉ số yếu tố I
i
hoàn toàn
giống nhƣ các chỉ tiêu có tác động tiêu cực, nghĩa là trị số chỉ tiêu tăng
lên sẽ làm cho chỉ số tổng hợp giảm đi.
Ví dụ chỉ tiêu tổng tỷ suất sinh TFR có "Tâm" bằng 2,16 (theo tính
toán của các nhà chuyên môn về dân số học). Địa phƣơng nào có TFR
nhỏ hơn 2,16 sẽ có ảnh hƣởng không tốt tới chất lƣợng dân số, vì số con
sinh ra quá ít cũng sẽ làm mất tính ổn định và bền vững của dân số. Hay
nhƣ địa phƣơng nào có mức sinh TFR cao hơn 2,16 cũng làm cho chất
lƣợng kém đi, vì sinh quá nhiều con sẽ gây thêm gámh nặng cho nền kinh
tế và cho xã hội.

Bước 5: Tính trọng số của các chỉ tiêu thành phần trong từng nhóm

Nhƣ đã phân tích, chỉ tiêu mang nhiều thông tin về hiện tƣợng
nghiên cứu thƣờng đƣợc gắn trọng số cao. Tuy nhiên trên thực tế ngƣời ta
thƣờng chọn quyền số theo phƣơng pháp chuyên gia, ví dụ đối với chỉ số
giáo dục trong HDI, ngƣời ta coi trọng tỷ lệ ngƣời lớn biết chữ hơn là tỷ
lệ đi học các cấp giáo dục. Do đó tỷ lệ ngƣời lớn biết chữ đƣợc gắn trọng
số 2 và tỷ lệ đi học chỉ đƣợc gắn trọng số 1.

Bước 6: Gộp từng nhóm các chỉ tiêu


21

Chỉ số thành phần (hay chỉ số tổng hợp nhóm) đối với các nhóm
chỉ tiêu sẽ đƣợc tính theo công thức bình quân giản đơn hay bình quân gia
quyền. Sau khi tính toán xong các chỉ số yếu tố I
i
j
, việc tính toán chỉ số
thành phần I
j
đƣợc thực hiện đơn giản theo công thức sau:
I
j
=
n
I
n
i
i

1
(7)
Với:
I
j
- Chỉ số thành tố j;
i = 1, 2, , n;
n - số lƣợng chỉ tiêu trong thành tố j.

Bước 7: Gộp chung toàn bộ các nhóm chỉ tiêu

Chỉ số tổng hợp chung đối với các nhóm chỉ tiêu sẽ đƣợc tính theo

công thức bình quân giản đơn hay bình quân gia quyền.

Công thức tính
Sau khi tính xong các chỉ số thành tố I
j
, việc tính toán chỉ số tổng
hợp đƣợc thực hiện theo công thức sau (ở đây quyền số của các thành tố
là nhƣ nhau và bằng 1). Ngoài ra, để so sánh, tham khảo và đối chiếu kết
quả, các phƣơng án sử dụng quyền số khác nhau cũng đƣợc lựa chọn.
CSTH =
m
I
m
j
j

1
(8)

Với: CSTH - Chỉ số tổng hợp;
j = 1, 2, , m;
m - số lƣợng thành tố trong Chỉ số tổng hợp.
Ở đây chúng ta chọn thang điểm 1, tức là 1 là mức cao nhất (tốt
nhất) đạt đƣợc, 0 là mức thấp nhất, kém nhất đạt đƣợc của CSTH.
10  CSTH


22
Chỉ số tổng hợp biến động trong khoảng từ 0 đến 1. Tuỳ theo từng
trƣờng hợp mà CSTH càng gần 0, hiện tƣợng nghiên cứu càng yếu kém.

CSTH càng gần 1, chất lƣợng hiện tƣợng nghiên cứu càng cao, càng đạt
tới lý tƣởng.
Có thể ấn định, xê dịch thang điểm để đánh giá theo các quan điểm
và ý đồ khác nhau. Theo thông lệ của thang điểm 0 - 1, điểm dƣới 0.5
thƣờng coi là yếu kém, từ 0,5 – 0,7 là trung bình (trong đó 0,5 - dƣới 0,6
là trung bình thấp; 0,6 - dƣới 0,7 là trung bình khá), từ 0,7 - dƣới 0,9 là
khá và từ 0,9 – 1 là tốt. Trên cơ sở chỉ số tổng hợp tính đƣợc cho mỗi đối
tƣợng, chúng ta có thể tiến hành xếp hạng toàn bộ tổng thể nghiên cứu.


23
PHẦN HAI
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHỈ SỐ TỔNG HỢP ĐO LƢỜNG VÀ
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HNKTQT Ở VIỆT NAM

2.1. Một số chỉ tiêu phản ánh HNKTQT trên thế giới

Theo Báo cáo phát triển con ngƣời (Human Development Report)
hàng năm của Chƣơng trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thì một số
chỉ tiêu sau đây đƣợc sử dụng để phản ánh lĩnh vực HNKTQT của các
quốc gia:

- Tổng số ODA ròng nhận đƣợc (tỷ lệ so với GNI và mức bình
quân đầu ngƣời);

- Tổng số đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài (luồng đầu tƣ vào và
luồng đầu tƣ ra);

- Nợ nƣớc ngoài (tổng số nợ và tỷ lệ nợ so với GNI).


Theo Báo cáo phát triển thế giới (World Development Report)
hàng năm của Ngân hàng Thế giới (WB) thì một số chỉ tiêu sau đây đƣợc
sử dụng để phản ánh lĩnh vực HNKTQT của các quốc gia:

- Kim ngạch xuất nhâp khẩu hàng hoá và dịch vụ;

- Vốn ODA (tổng số; bình quân đầu ngƣời; tỷ lệ so với GNI; tỷ lệ
so với kim ngạch nhập khẩu; tỷ lệ so với tổng chi tiêu của Chính phủ);

- Viện trợ không hoàn lại (tổng số; tỷ lệ so với ODA cam kết);

- Tỷ lệ viện trợ không hoàn lại so với tổng ODA song phƣơng cam
kết;

- Nợ nƣớc ngoài (tổng số nợ và tỷ lệ nợ so với GNI).;

- Số ngƣời di cƣ ra nƣớc ngoài;

- Số lƣợng điều kiện buôn bán và trao đổi hàng hoá với nƣớc ngoài.

Ban Thƣ ký Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang
nghiên cứu sử dụng một số chỉ tiêu thống kê sau đây để mô tả và phản

24
ánh mức độ HNKTKV, đồng thời cũng yêu cầu các quốc gia báo cáo số
liệu thống kê hàng năm liên quan tới HNKTKV. Các chỉ tiêu phản ánh
HNKTKV của ASEAN đƣợc phân thành một số lĩnh vực chủ yếu:

(1) Thƣơng mại hàng hóa và dịch vụ, trong đó nhấn mạnh tới các
Chƣơng trình ƣu tiên:


- Hàng hoá liên quan đến nông sản;

- Hàng hoá liên quan đến lâm sản;

- Hàng hoá liên quan đến Thuỷ hải sản;

- Hàng hoá liên quan đến sản phẩm cao su;

- Hàng hoá liên quan đến sản phẩm điện tử;

- Hàng hoá liên quan đến sản phẩm ô tô;

- Hàng hoá liên quan đến sản phẩm đệt may;

- Năng lƣợng;

- Dịch vụ vận tải hàng không;

- Dịch vụ du lịch;

- Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ;

- Dịch vụ khoa học và công nghệ .v.v.

Trong lĩnh vực này, các chỉ tiêu chủ yếu của mỗi quốc gia đƣợc sử
dụng là:

+ Tỷ lệ so với GDP của kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
nội khối (giữa các nƣớc trong khối với nhau) và ngoại khối (giữa các

nƣớc ASEAN với thế giới bên ngoài);

+ Tỷ lệ so với GDP của kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
nội khối và ngoại khối;

+ Thuế suất nhập khẩu bình quân hàng hoá và dịch vụ từ các nƣớc
nội khối và từ các quốc gia ngoại khối;

25

+ Số lƣợng dòng thuế suất thuộc danh mục các mặt hàng phi tuế
quan và tỷ lệ so với tổng số dòng thuế suất;

+ Số lƣợng và khối lƣợng buôn bán các Mặt hàng loại trừ trong
Danh mục hàng hoá ƣu đãi có hiệu lực chung;

+ Số lƣợng thời gian trung bình cần thiết để giải phóng 1 công te
nơ khỏi khu vực Hải quan;

+ Số lƣợng thời gian trung bình cần thiết để giải quyết các khiếu
nại trong lĩnh vực Hải quan;

+ Số lƣợt khách đến từ các quốc gia nội khối và ngoại khối;

+ Số lƣợt khách đi tới các quốc gia nội khối và ngoại khối;

(2) Đầu tƣ

Trong lĩnh vực này, các chỉ tiêu thống kê chủ yếu đƣợc lựa chọn
cho mỗi quốc gia (phân riêng cho từng lĩnh vực và Chƣơng trình ƣu tiên)

để phản ánh mức độ HNKTKV là:

+ Khối lƣợng luồng FDI nội khối và tổng FDI nói chung vào mỗi
nƣớc (phân theo từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế);

+ Tỷ lệ luồng FDI nội khối và tổng FDI nói chung vào mỗi nƣớc so
với GDP (phân theo từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế);

+ Khối lƣợng luồng FDI của mỗi nƣớc ra các quốc gia nội khối và
ra thế giới còn lại (phân theo từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế);

+ Tỷ lệ luồng FDI của mỗi nƣớc ra các quốc gia nội khối và ra thế
giới còn lại so với GDP (phân theo từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế);

+ Số lƣợng ngành (sản phẩm) trong Danh mục loại trừ tạm thời của
mỗi quốc gia khi ký kết Hiệp định tự do đầu tƣ (tự do di chuyển vốn);

(3) Lao động việc làm và tự do di chuyển con ngƣời

Trong lĩnh vực này, các chỉ tiêu thống kê chủ yếu đƣợc lựa chọn
cho mỗi quốc gia để phản ánh mức độ HNKTKV là:

×