Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Trợ cấp và các biện pháp đối kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.57 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đi cùng với sự tiến bộ của công nghệ khoa hoc, hầu như các quốc gia trên thế
giới đều muốn hướng ngành công nghiệp của mình sang thị trường rộng lớn hơn với
mong muốn mang lại lợi nhuận cao nhất cho quốc gia. Và gia nhập WTO là một bước
đi chiến lược phát triển kinh tế của không ít các quốc gia. Hiện nay, đã có 150 quốc gia
là thành viên tổ chức này. Trong đó Việt Nam được làm thành viên chính thức vào
11/01/2007. Có thể thấy rằng gia nhập tổ chức thương mại thế giới bên cạnh những mặc
tích cực nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nền kinh tế của một nước thì có những
mâu thuẫn xảy ra giữa các bên đối tác. Và một trong những hình thức khiến các tranh
chấp này xảy ra ngày càng gia tăng hiện nay là hình thức trợ cấp diễn ra đối với hàng
nhập khẩu tại nước nhập khẩu. Nhằm hạn chế các tranh chấp này và cách thức giải
quyết tranh công bằng, WTO đã soạn thảo nhiều văn bản làm nguyên tắc chung cho các
thành viên. Bên cạnh các Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch đối với hàng
hóa( GATT 1994) và đối với dịch vụ( GATS), Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp
đối kháng (Hiệp định SCM) cũng được ban hành cùng với quá trình vận động của nền
kinh tế tại vòng đàm phán Uruguay và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Hiệp định đưa ra các quy định về việc sử dụng các biện pháp trợ cấp cũng như
các quy định về những hành động một thành viên WTO có thể sử dụng để đối phó lại
ảnh hưởng của các biện pháp trợ cấp. Hiệp định này áp dụng với mặc hàng công nghiệp
xuất khẩu còn hàng nông nghiệp có văn bản quy định riêng. Nhìn chung, ở các nước
phát triển và đang phát triển tình hình trợ cấp đang là một nguồn gốc của căng thẳng
chính trị và là một thách thức đối với các cuộc đối thoại chính sách với các đối tác ở
các nước phát triển, đặc biệt là những quốc gia nghèo nhất. Nhưng không phải hầu hết
các trợ cấp đều bị cấm. Do vậy, vấn đề trợ cấp rất cần tìm hiểu và nghiên cứu khi tham
gia vào hoạt động thương mai quốc tế của các quốc gia.
CHƯƠNG 1: Cở sở lý luận của Trợ cấp và các biện pháp đối kháng.
1.1 Khái niệm trợ cấp:
1.1.1 Trợ cấp là gì?
Theo điều 1 Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng ( Hiệp định SCM ) thì trợ
cấp được coi là tồn tại khi có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan
công cộng trên lãnh thổ của một Thành viên ( theo Hiệp định này sau đây gọi chung là


“chính phủ”) khi: chính phủ thực tế có chuyển trực tiếp các khoản vốn (ví dụ như cấp
phát, cho vay, hay góp cổ phần), có khả năng chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo
lãnh tiền vay); các khoản thu phải nộp cho chính phủ đã được bỏ qua hay không thu (ví
dụ: ưu đãi tài chính như miễn thuế ); chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không
phải là hạ tầng cơ sở chung, hoặc mua hàng ; chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ,
hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều chức năng đã nêu từ
điểm (i) đến trên đây, là những chức năng thông thường được trao cho chính phủ và
công việc của tổ chức tư nhân này trong thực tế không khác với những hoạt động thông
thuờng của chính phủ. Hoặc có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào
theo nội dung Điều XVI của Hiệp định GATT 1994; một lợi ích được cấp bởi điều đó.
Theo đó, Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng
hỗ trợ nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng
thương mại…bình thường sẽ không khi nào làm như vậy (v. đi ngược lại những tính
toán thư9ơng mại thông thường).
Điều đáng chú ý ở đây là chỉ có các trợ cấp riêng biệt mới bị điều chỉnh bởi các nguyên
tắc trong Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng. Theo Điều 2 Hiệp định này
thì “riêng biệt” gồm có bốn loại sau:
-Riêng biệt đối với doanh nghiệp: Chính phủ nhắm đến một công ty hoặc một số công
ty nhất định để trợ cấp.
-Riêng biệt đối với ngành: Chính phủ nhắm đến một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực nhất
định để trợ cấp
-Riêng biệt đối với vùng: Chính phủ nhắm đến một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực nhất
định để trợ cấp
-Các trợ cấp bị cấm: Chính phủ nhắm đến các mặt hàng xuất khẩu nhất định hoặc các
sản phẩm đầu vào cho sản xuất trong nước để trợ cấp
1.1.2 Phân loại trợ cấp và cơ chế áp dụng đối với từng loại trợ cấp:
Theo Hiệp định SCM quy định ba loại trợ cấp:
- Trợ cấp bị cấm:
Theo Điều 3- 4 phần hai hiệp định SCM trợ cấp bị cấm gồm những khoản trợ cấp sau:
khối lượng trợ cấp, theo luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm

theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp, dù là
một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội
địa hơn hàng ngoại. Trợ cấp bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh
chấp. Điểm nổi bật là lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB)
nhanh gọn, và nếu cơ quan này nhận thấy rằng khoản trợ cấp này là trợ cấp bị cấm,
ngay lập tức phải thu hồi lệnh trợ cấp. Nếu phán quyết không được thực hiện trong
thời gian quy định, thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa.
Đây là loại trợ cấp bị cấm đối với tất cả các nước là thành viên của WTO ( Khoản 2
Điều 3 Hiệp định SCM ).
- Trợ cấp có thể đối kháng.
Theo Điều 5- 7phần ba của Hiệp định SCM. Trợ cấp có thể đối kháng . Hiệp định
quy định rằng không một Thành viên nào thông qua việc sử dụng trợ cấp gây ra tác
động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản
xuất nội địa của một Thành viên khác, làm vô hiệu hay gây phương hại đến những
quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT
1994 (đặc biệt là những quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc), và
gây tổn hại nghiêm trọng đối với lợi ích của Thành viên khác. Trong hiệp định SCM
nêu khá rõ ràng về việc không áp dụng với những trợ cấp được áp dụng với nông sản
quy định tại Điều 12 Hiệp định nông nghiệp. Và “Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ được xem
là tồn tại trong trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản phẩm vượt quá
5%. Trong trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh rằng những khoản trợ
cấp đó không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại. Những thành
viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này lên
cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra
phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực, bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp hoặc
xóa bỏ những tác động tiêu cực này. Các nước thành viên co thể ap dụng các hình thức
trợ cấp này nhưng nếu gay thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản
phẩm tương tự của nước thành viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
- Trợ cấp không thể đối kháng.
Loại thứ 3 là trợ cấp không thể đối kháng (Được quy định tại Điều 8-9 phần bốn của

hiệp định SCM), trợ cấp không thể đối kháng có thể là trợ cấp không mang tính chất
riêng biệt tại điều 2 Hiệp định này hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho
các hoạt động nghiên cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ
cho các vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng
hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt
ra. Nếu một thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác
động tiêu cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể yêu
cầu đưa ra phán quyết và khuyến cáo về vấn đề này. Các nước thành viên có thể áp
dụng các hình thức này mà không bị thành viên khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp
được phép vô điều kiện).
1.2 Các biện pháp chống trợ cấp và biện pháp đối kháng:
Một phần của Hiệp định này liên quan đến việc áp dụng những biện pháp
đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Hiệp định đưa ra những quy chế về
việc khởi tố các vụ đối kháng, về việc điều tra bởi các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc
gia và những quy định về chứng cứ để đảm bảo rằng tất cả những bên có quyền lợi có
thể đưa ra thông tin và quan điểm của mình. Những quy định cụ thể về việc tính toán
tổng số trợ cấp là cơ sở để xác định thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa. Hiệp
định quy định rằng tất cả các yếu tố kinh tế có liên quan sẽ phải được xem xét trong
quá trình đánh giá tình trạng của ngành công nghiệp và mối quan hệ nhân quả giữa
hàng nhập khẩu được trợ cấp và những thiệt hại suy đoán. Việc điều tra đối kháng phải
dừng ngay khi mức trợ cấp nằm dưới mức tối thiểu (nhỏ hơn 1% theo trị giá) hoặc khi
khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp trên thực tế hoặc ước tính hoặc thiệt hại là
không đáng kể. Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời
hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày khởi xướng.
Thuế đối kháng phải chấm dứt trong vòng 5 năm áp dụng trừ khi các cơ quan có thẩm
quyền thông qua rà soát xét thấy việc ngừng áp thuế sẽ dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn
trợ cấp và thiệt hại. Theo đó, Hiệp định SCM đưa ra những biện pháp chống trợ cấp và
biện pháp đối kháng đối với những quốc gia vi phạm vào điều 2, điều 5 của Hiệp định
này như sau:
1.2.1 Các biện pháp tạm thời:

Biện pháp tạm thời là biện pháp chống trợ cấp áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu
thuộc diện bị điều tra trước khi có kết luận cuối cùng về vụ việc. Biện pháp này thường
được thực hiện khi vụ điều tra có kết luận sơ bộ cho rằng có việc trợ cấp của nước xuất
khẩu gây thiệt hại. Vì vậy, biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng theo quy định tại
khoản 1 điều 17 Hiệp định SCM.
- Điều kiện áp dụng các biện pháp tạm thời:
(a) việc điều tra được bắt đầu tiến hành phù hợp với các quy định của Điều 11, đã có
thông báo công khai về việc điều tra này và các Thành viên và các bên quan tâm đã
được tạo cơ hội thích đáng dể cung cấp thông tin và nhận xét;
(b) đã xác định sơ bộ rằng có tồn tại trợ cấp và việc nhập khẩu được trợ cấp đã gây tổn
hại cho ngành sản xuất trong nước; và
(c) Cơ quan có thẩm quyền liên quan cho rằng các biện pháp đó là cần thiết để ngăn
chặn thiệt hại xảy ra trong quá trình điều tra.
Do đó, Việc xác định “thiệt hại” là một bước không thể thiếu trong một vụ
điều tra chống trợ cấp và chỉ khi kết luận điều tra khẳng định có thiệt hại đáng kể và
nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu
mới có thể xem xét việc áp dụng các biện pháp chống trợ cấp. Việc xác định thiệt hại
theo Điều VI Hiệp định GATT 1994 phải dựa trên bằng chứng khẳng định và với nội
dung xem xét khách quan đồng thời (a) khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp và tác
động của nhập khẩu được trợ cấp đối với giá cả trên thị trường trong nước của sản
phẩm tương tự và (b) tác động tiếp theo của việc nhập khẩu đó với các ngành sản xuất
trong nước của các sản phẩm đó. Theo đó, một thiệt hại được coi là đáng kể khi nó
gây ra cho nước nhập khẩu những thiệt hại thực tế như trong điều 15.4 hiệp định SCM
đề cập: chỉ tiêu kinh tế liên quan ảnh hưởng tới tình trạng của ngành, kể cả sự sụt giảm
sản lượng, số lượng bán ra, thị phần, lợi nhuận hay năng suất, thu hồi vốn đầu tư hay tỷ
lệ khai thác công suất hiện tại hoặc tiềm tàng trong tương lai; những yếu tố ảnh hưởng
giá cả trong nước; những tác động tiêu cực đối với luân chuyển vốn, lượng hàng dự trữ,
việc làm, tiền lương, sự tăng trưởng, khả năng tăng vốn hay đầu tư, và trong trường
hợp liên quan tới nông nghiệp, sẽ đánh giá việc các chương trình hỗ trợ của chính phủ
có vì thế mà thêm nặng gánh hay không. Tuy nhiên, danh sách nêu trên chưa phải là tất

cả và cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây có vai trò quyết
định đối với việc xem xét nói trên. Và mối đe doạ gây ra thiệt hại vật chất sẽ được dựa
trên sự thật chứ không dựa trên sự suy đoán, quy kết hay khả năng xa xôi. Sự thay đổi
hoàn cảnh có thể tạo ra một tình huống theo đó một trợ cấp có thể gây ra thiệt hại phải
được nhận thấy trước một cách rõ ràng và sát thực theo khoản 7 điều 15 hiệp định này.
Chính vì vậy, nước nhập khẩu cần phải đưa ra những bằng chứng cụ thể để chứng minh
là gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa.
- Việc áp dụng các biện pháp tạm thời nhằm ngăn chặn thiệt hại vật chất tiếp
tục xảy ra trong quá trình điều tra. Và như điều 17.2 Hiệp định SCM đã nêu ra các hình
thức áp dụng đối với biện pháp này bao gồm: hình thức thuế đối kháng tạm thời được
bảo đảm bằng việc đặt cọc tiền tương đương với giá trị trợ cấp được tạm tính. Tuy
nhiên, đây chỉ là biện pháp tạm thời nên không được áp dụng trước quá 60 ngày, kể từ
ngày bắt đầu điều tra, chỉ được giới hạn trong thời gian ngắn nhất có thể, không vượt
quá bốn tháng.
1.2.2 Cam kết:
Cam kết là sự tự nguyện giữa các nước, nếu các nước thỏa thuận được thì quá trình
điều tra có thể bị đình chỉ hay chấm dứt mà không áp dụng các biện pháp tạm thời hay

×