Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO pháp luật của một số nước và thực tiễn ở việt nam luận văn ths luật 60 38 60 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.18 KB, 123 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU……………………………………………………………..

1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỢ CẤP VÀ BIỆN PHÁP
ĐỐI KHÁNG……………………………………................................

4

1.1 . TRỢ CẤP ………………………………………………………………

4

1.1.1. Khái niệm ……………………………………………………….........

4

1.1.2. Phân loại trợ cấp ……………………………………………………..

6

1.1.3. Các hình thức trợ cấp trong thương mại quốc tế ……………………..

16


1.1.4. Tác động của các biện pháp trợ cấp ………………………….……….

17

BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG ……………………………..……………

21

1.2.1. Các biện pháp đối kháng……………………………...……………….

21

1.2.2. Thuế đối kháng và tác động của việc đánh thuế đối kháng…………..

24

1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRỢ CẤP VÀ BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG...

28

1.3.1. Trợ cấp là điều kiện để áp dụng biện pháp đối kháng……………..

28

1.3.2. Tác động của biện pháp đối kháng với trợ cấp…………………….

29

1.2.


Chương 2: HIỆP ĐỊNH VỀ TRỢ CẤP, CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI
KHÁNG CỦA WTO VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC….

31

2.1. HIỆP ĐỊNH VỀ TRỢ CẤP VÀ BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG CỦA WTO

31

2.1.1. Tổng quan chung về Hiệp định SCM ………………………………...

31

2.1.2. Thủ tục điều tra và áp dụng biện pháp đối kháng ……….……………

33


2.1.3. Đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các Thành viên………………

45

2.2. PHÁP LUẬT VỀ TRỢ CẤP VÀ BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG CỦA
MỘT SỐ NƯỚC ………………………………………..………………

50

2.2.1. Khái niệm trợ cấp của một số nước……………………………………

50


2.2.2. Xác định thiệt hại của trợ cấp ở một số nước………………………….

54

2.2.3. Thủ tục chống trợ cấp của một số nước ……………………………....

59

2.2.4. Thực tiễn chống trợ cấp của một số nước …………………………….

68

Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRỢ CẤP VÀ BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG Ở
VIỆT NAM …………………………………………………………..

73

3.1. THỰC TRẠNG VỀ TRỢ CẤP Ở VIỆT NAM ………………………...

73

3.1.1. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu và cam kết của Việt Nam …..

73

3.1.2. Pháp luật về trợ cấp ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO …………..

75


3.1.3. Trợ cấp ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO ………………………….

81

3.2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG
Ở VIỆT NAM…………………………………………………………..

85

3.2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng biện pháp đối kháng ở Việt Nam…...

85

3.2.2. Một số quy định của pháp luật Việt Nam về chống trợ cấp ……….....

87

3.2.3. Vụ kiện chống trợ cấp của Việt Nam …………………………………

94

3.2.4. Kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam………………………..

98

3.3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ CẤP ………….....

104


3.3.1. Xây dựng các chương trình trợ cấp phù hợp với quy định của WTO ..

104

3.3.2. Hoàn thiện pháp luật về chống trợ cấp …………………………….....

107

3.3.3. Các giải pháp khác ……………………………………………………

111

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………...

115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CIT

Tòa án thương mại quốc tế Hoa Kỳ

DOC

Bộ Thương mại Hoa Kỳ

DSU


Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc
giải quyết tranh chấp

EC

Ủy Ban Châu Âu

EU

Liên minh Châu Âu

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại

ITC

Ủy ban Thương mại quốc tế của Hoa Kỳ

MOFTEC

Bộ Ngoại thương và hợp tác kinh tế Trung Quốc

SCM

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

SETC

Ủy ban Kinh tế và Thương mại nhà nước Trung Quốc


USTR

Văn phòng đại diện thương mại Hoa Kỳ

VDB

Ngân hàng phát triển Việt Nam

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Quy định của Hoa Kỳ về thời gian chống trợ cấp……………63

Bảng 2.2.

Sơ đồ trình tự điều tra tại EU………………………………...65

Bảng 2.3.

Sơ đồ trình tự điều tra tại Trung Quốc……………………….67

Bảng 3.

Tiêu chí lựa chọn luật sư cho vụ kiện chống trợ cấp…….….102



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra các
thách thức to lớn cho các quốc gia. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
trên thị trường thế giới và ngay chính trên thị trường nội địa, các quốc gia đã
tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày càng tinh vi thông qua các biện
pháp bảo đảm công bằng thương mại của WTO, trong đó có trợ cấp và các
biện pháp đối kháng. Vì vậy, xu hướng quốc tế cho thấy các vụ kiện chống trợ
cấp ngày càng gia tăng.
Từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tận dụng được nhiều cơ hội để
phát triển, tuy nhiên cũng đang gặp phải rất nhiều thách thức. Từ năm 2009,
Việt Nam phải đối phó với 4 vụ kiện chống trợ cấp liên tiếp của Hoa Kỳ đối
với mặt hàng túi nhựa PE, ống thép, mắc áo thép và tuabin điện gió. Kết quả
bước đầu của các vụ kiện này đều gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Mặt khác, Việt Nam đã có Pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên
cho đến nay, mặc dù thực tế có một số mặt hàng nước ngoài có khả năng
được trợ cấp, gây bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước, nhưng Việt Nam
chưa khởi xướng một vụ đối kháng nào.
Như vậy, hiểu như thế nào cho đúng về trợ cấp và biện pháp đối
kháng? Cơ chế điều chỉnh của WTO như thế nào? Pháp luật của các nước và
của Việt Nam quy định ra sao? Thực tiễn trợ cấp và chống trợ cấp trên thế
giới và ở Việt Nam? Kinh nghiệm gì cho Việt Nam để hoàn hiện chính sách
trợ cấp, chống trợ cấp nhằm tăng cường xuất khẩu và bảo vệ nền sản xuất
trong nước? Các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để phòng chống một vụ
kiện đối kháng?...

1



Hiện nay, vấn đề trợ cấp và chống trợ cấp còn khá mới mẻ và chưa
được nghiên cứu một cách có hệ thống ở Việt Nam. Do vậy, xuất phát từ
những yêu cầu mang tính quốc tế, yêu cầu nội tại trong nước, việc nghiên
cứu đề tài: “ Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTOPháp luật của một số nước và thực tiễn ở Việt Nam” có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
2. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu và làm rõ các quy định của WTO về trợ cấp và các biện
pháp đối kháng
- Tìm hiểu pháp luật của một số nước về trợ cấp và các biện pháp đối
kháng. Liên hệ với pháp luật Việt Nam
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đưa ra một số kiến nghị nhằm áp dụng
hiệu quả biện pháp trợ cấp, chống trợ cấp ở Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu trên, luận văn sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, đề tài được nghiên cứu
trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, tư duy logic từ
lý luận đến thực tiễn, theo trình tự, bố cục chặt chẽ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào tìm hiểu những quy định về trợ cấp và các biện
pháp đối kháng của WTO và một số nước. Ngoài ra, luận văn tìm hiểu thực
trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó, liên hệ với thực tiễn ở Việt
Nam và đưa ra một số kiến nghị đối với pháp luật trong nước cũng như các
bên liên quan.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Luận văn tìm hiểu những vấn đề lý luận về trợ cấp và biện
pháp đối kháng như khái niệm, phân loại, tác động tích cực và tiêu cực của

2



chúng. Ngoài ra, luận văn tìm hiểu các quy định cơ bản của Hiệp định trợ cấp
và biện pháp đối kháng của WTO (Hiệp định SCM) về các loại trợ cấp, chế
tài tương ứng, thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống trợ cấp, quy định đối xử
đặc biệt và khác biệt với các Thành viên đang phát triển, Thành viên có nền
kinh tế chuyển đổi. Luận văn cũng tìm hiểu sự khác nhau của pháp luật một
số nước về trợ cấp và biện pháp đối kháng, trên cơ sở so sánh một số tiêu chí
nhất định như khái niệm trợ cấp, xác định thiệt hại và thủ tục chống trợ cấp…
Về thực tiễn: luận văn tìm hiểu thực tiễn về trợ cấp và biện pháp đối
kháng trên thế giới và của Việt Nam, rà soát các quy định của Việt Nam với
các quy định của WTO. Luận văn đưa ra những luận giải để chứng minh cần
sửa đổi và hoàn thiện pháp luật chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam.Theo đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm áp dụng hiệu quả các
biện pháp trợ cấp và chống trợ cấp.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Chương 2: Hiệp định về trợ cấp, các biện pháp đối kháng của WTO và
thực tiễn pháp luật ở một số nước
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ cấp và
biện pháp đối kháng ở Việt Nam

3


Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỢ CẤP VÀ CÁC BIỆN
PHÁP ĐỐI KHÁNG
1.1. TRỢ CẤP
1.1.1. Khái niệm
Trợ cấp là một công cụ chính sách được sử dụng hầu hết ở các nước để

thực hiện các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội... Tuy nhiên, tùy theo mục
đích mà định nghĩa về trợ cấp khác nhau. Theo nghĩa hẹp, trợ cấp chỉ bao
gồm mỗi biện pháp cấp tiền trực tiếp cho một ngành hoặc một số doanh
nghiệp cụ thể. Nhược điểm của định nghĩa này là bỏ qua nhiều biện pháp trợ
cấp khác có ảnh hưởng về mặt kinh tế tương đương với biện pháp này, do đó
có thể gây khó khăn hoặc nhầm lẫn trong việc so sánh mức trợ cấp giữa các
nước khác nhau.
Trợ cấp được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm rất nhiều hoạt động của
Chính phủ, kể cả các hoạt động điển hình và phổ biến, như bảo đảm trật tự trị
an, phòng cháy, chữa cháy, xây dựng cầu đường…Những trợ cấp này đều có
thể làm cắt giảm những chi phí mà một doanh nghiệp sẽ phải đưa vào hạch
toán khi tính giá bán của sản phẩm. Tuy nhiên, nếu sử dụng khái niệm này và
luật quốc tế cho phép thì các Chính phủ sẽ được quyền đánh thuế đối kháng
lên rất nhiều mặt hàng vì xét cho cùng, sản phẩm nào cũng được hưởng lợi từ
các hoạt động trên của Chính phủ.
Quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT liên
quan tới trợ cấp chủ yếu là Điều XVI GATT 1947, trong đó bất kỳ hình thức
hỗ trợ giá hoặc hỗ trợ thu nhập nào cũng bị coi là trợ cấp.[2]
Tổ chức thương mại thế giới WTO đã đưa ra khái niệm khá rõ ràng trong
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM). Theo Điều
1 Hiệp định SCM, trợ cấp được định nghĩa là một khoản đóng góp tài chính
trực tiếp hoặc gián tiếp do một Chính phủ hoặc một cơ quan công cộng trên

4


lãnh thổ của một nước thành viên và đem lại lợi ích cho ngành hoặc doanh
nghiệp được nhận trợ cấp. Trợ cấp phải được bảo đảm bởi ba yếu tố:
(1). Có sự đóng góp về tài chính, gồm các trường hợp:
- Chuyển trực tiếp các khoản vốn (ví như cấp phất, cho vay, hay góp cổ

phần), có khả năng chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo lãnh tiền vay)
- Các khoản thu phải nộp cho Chính phủ đã được bỏ qua hay không thu
(ví dụ: ưu đãi tài chính như miễn thuế)
- Chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở
chung, hoặc mua hàng
- Chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một
tổ chức tư nhân thực thi một hay nhiều chức năng đã nêu trên, là những chức
năng thông thường được trao cho Chính phủ và công việc của tổ chức tư nhân
này trong thực tế không khác với những hoạt động thông thường của Chính
phủ.
- Bất kỳ một hình thức thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung Điều
XVI của Hiệp định GATT 1994.
(2). Do Chính phủ hoặc một cơ quan công cộng trên lãnh thổ của một
thành viên thực hiện.
Hiệp định SCM không chỉ áp dụng với các cơ quan công quyền Trung
ương mà cả chính quyền địa phương cũng như các biện pháp do một tổ chức
nhà nước công, như công ty thuộc sở hữu nhà nước tiến hành. Trợ cấp có thể
do các cơ quan này trực tiếp thực hiện hoặc ủy thác hoặc có thể chỉ đạo cho
một đơn vị khác thực hiện. Ví dụ: Nếu một tổ chức phi Chính phủ tư hỗ trợ tài
chính cho một doanh nghiệp thì đây chỉ là trợ giúp tư nhân, không được coi là
trợ cấp, trừ khi có sự chỉ đạo của một Chính phủ hoặc một tổ chức nhà nước
công.

5


(3). Đem lại lợi ích cho đối tượng được áp dụng.
Mặc dù Hiệp định SCM không định nghĩa khái niệm lợi ích nhưng theo
nội dung của Điều 14, sự tồn tại của lợi ích có thể được đánh giá bằng cách
tham chiếu đến các tiêu chí thương mại thông thường trên thị trường. Chẳng

hạn, việc Chính phủ đóng góp cổ phần trong một doanh nghiệp chỉ bị coi là
đem lại lợi ích khi quyết định đầu tư đó của Chính phủ không giống với tập
quán đầu tư thông thường của các nhà đầu tư tư nhân. Hay một khoản cho vay
của Chính phủ chỉ bị coi là đem lại lợi ích nếu như có sự chênh lệch giữa
khoản tiền mà doanh nghiệp được cho vay phải trả cho Chính phủ đó với
khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho một khoản vay thương mại tương
đương khác. Bảo lãnh vay của Chính phủ chỉ bị coi là đem lại lợi ích nếu như
có sự chênh lệch giữa khoản tiền mà doanh nghiệp được bảo lãnh vay phải trả
để có được khoản vay với khoản tiền mà doanh nghiệp đó đáng ra phải trả để
có được một khoản vay thương mại tương đương không cần có sự bảo lãnh
của Chính phủ.[3]
1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Trợ cấp chung và trợ cấp riêng
Căn cứ vào tính chất của trợ cấp, người ta phân loại thành trợ cấp
chung và trợ cấp riêng.
Trợ cấp chung (hay còn gọi là trợ cấp không mang tính riêng biệt) là
trợ cấp sử dụng những tiêu chí hoặc điều kiện khách quan để xác định đối
tượng được hưởng trợ cấp và giá trị trợ cấp. Những tiêu chí này không phân
biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, không ưu đãi doanh nghiệp này hơn so với
doanh nghiệp khác và là những tiêu chí và điều kiện mang tính kinh tế, được
áp dụng đồng loạt, chẳng hạn như số lượng nhân công, quy mô doanh
nghiệp…

6


Trợ cấp riêng (hay còn gọi là trợ cấp mang tính riêng biệt) là trợ cấp
dành riêng cho một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp cụ thể, hay
trợ cấp dành riêng cho một ngành sản xuất hoặc một nhóm ngành sản xuất
nhất định.

Trợ cấp riêng theo luật là trợ cấp mà cơ quan cấp trợ cấp có quy định rõ
trong luật hoặc văn bản dưới luật là chỉ dành trợ cấp đó cho một số đối tượng
nhất định được hưởng. Trợ cấp riêng trên thực tế là trợ cấp mà mặc dù cơ
quan cấp trợ cấp (hoặc văn bản pháp lý điều chỉnh việc trợ cấp) không đặt ra
điều kiện nào về đối tượng nhận trợ cấp nhưng việc quản lý hoặc áp dụng
chương trình trợ cấp đó lại dẫn đến kết quả là một hoặc một vài nhóm đối
tượng nhận trợ cấp nhất định được nhận nhiều lợi ích hơn một cách đáng kể
so với các đối tượng khác cùng được nhận trợ cấp. Ví dụ: trợ cấp cho một
vùng nhất định tuy có mục đích là trợ giúp phát triển vùng nhưng thực tế là
chỉ trợ cấp cho các nhà xuất khẩu tại vùng đó.
1.1.2.2. Trợ cấp nông nghiệp và trợ cấp phi nông nghiệp
Dưới góc độ lĩnh vực kinh tế, người ta chia thành trợ cấp nông nghiệp
và trợ cấp phi nông nghiệp.
Trợ cấp nông nghiệp là trợ cấp dành cho các sản phẩm nông nghiệp và
cho các hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Ví dụ: trợ cấp nghiên cứu
giống cây, giống con; trợ cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp…
Trợ cấp công nghiệp là trợ cấp dành cho các sản phẩm công nghiệp và
cho các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Ví dụ: thuế nhập khẩu ưu đãi
cho các sản phẩm cơ khí thực hiện chương trình nội địa hóa.
Ngoài ra, còn có các trợ cấp cho các hoạt động dịch vụ.
1.1.2.3. Trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu
Dưới góc độ thương mại quốc tế thì trợ cấp chia thành hai loại: trợ cấp
trong nước và trợ cấp xuất khẩu.

7


Trợ cấp trong nước là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh
nghiệp sản xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để phục vụ thị trường
trong nước, hay nói cách khác, hàng hóa được trợ cấp phải là hàng hóa được

tiêu thụ tại thị trường nội địa của nhà sản xuất. Doanh nghiệp được trợ cấp
không nhất thiết phải là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Tuy nhiên trợ cấp
trong nước có thể có tác động gián tiếp tới hoạt động xuất khẩu nếu sản phẩm
do doanh nghiệp nhận trợ cấp sản xuất ra cuối cùng lại được bán ra thị trường
nước ngoài.
Trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành
riêng cho hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là
đẩy mạnh xuất khẩu. Có hai phương thức trợ cấp: một loại là trực tiếp bổ trợ,
tức là trực tiếp chi tiền bổ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu; một loại là gián
tiếp bổ trợ, tức là ưu đãi về tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu một số hàng
hóa xuất khẩu nào đó.
1.1.2.4. Trợ cấp trực tiếp và trợ cấp gián tiếp
Căn cứ vào đối tượng, mục đích cuả trợ cấp, người ta chia thành trợ cấp
trực tiếp và trợ cấp gián tiếp.
Trợ cấp trực tiếp là trợ cấp mà đối tượng trực tiếp nhận trợ cấp cũng
chính là đối tượng được trợ cấp (là mục tiêu của chương trình trợ cấp hoặc là
đối tượng được chọn để thực hiện hoạt động nhất định được thiết kế trong
chương trình trợ cấp).
Trợ cấp gián tiếp là trợ cấp mà đối tượng trực tiếp nhận trợ cấp không
phải là đối tượng được trợ cấp nhưng thông qua khoản trợ cấp đó, Chính phủ
tác động tới quyết định hoặc hoạt động tác nghiệp của đối tượng nhận trợ cấp
theo cách thức có lợi cho đối tượng cần được trợ cấp. Dạng trợ cấp gián tiếp
này sử dụng cơ chế tác động lan truyền hoặc cơ chế tác động từ ngành công
nghiệp thượng nguồn để đạt được mục đích mong muốn.

8


1.1.2.5. Trợ cấp bị cấm sử dụng, trợ cấp có thể bị đối kháng, trợ cấp
không bị khởi kiện

Hiệp định SCM chia trợ cấp thành 3 loại dựa trên mức độ ảnh hưởng
đến thương mại của chúng.
Thứ nhất, là những loại trợ cấp bị cấm sử dụng (trợ cấp đèn đỏ).
Trợ cấp bị cấm áp dụng (trợ cấp đèn đỏ) bao gồm trợ cấp xuất khẩu và
trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu. Hai
dạng trợ cấp này bị cấm sử dụng vì tác động tiêu cực tới thương mại và ảnh
hưởng bất lợi đến lợi ích của các nước thành viên WTO khác.
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp phụ thuộc hoàn toàn hoặc một phần, dù
theo luật hay trên thực tế dựa vào việc thực hiện hoạt động xuất khẩu. Trợ cấp
xuất khẩu được thể hiện trong các phương diện sau (được quy định trong phụ
lục 1 của Hiệp định SCM):
- Chính phủ trợ cấp trực tiếp cho một công ty hay một ngành sản xuất
trong nước tính theo kết quả xuất khẩu
- Các biện pháp giữ lại ngoại tệ hoặc các biện pháp tương tự để thưởng
khuyến khích xuất khẩu
- Chính phủ cung cấp những điều kiện ưu đãi hơn trong vận chuyển và
cước phí vận chuyển hàng xuất khẩu so với hàng trong nước.
- Chính phủ hoặc các cơ quan của chính phủ cung cấp những điều kiện
ưu đãi hơn cho hàng hoá hoặc dịch vụ trong nước nhằm phục vụ cho việc sản
xuất hàng xuất khẩu so với những điều kiện dành cho những sản phẩm cùng
loại hoặc có tính cạnh tranh trực tiếp được tiêu thụ trong nước, nếu những
điều kiện đó thuận lợi hơn điều kiện thương mại thông thường sẵn có trên thị
trường thế giới dành cho nhà xuất khẩu của Thành viên.

9


- Miễn hay tạm ngừng thu toàn bộ hay một phần các khoản thuế trực
thu hay các khoản đóng góp cho phúc lợi xã hội mà các khoản đóng góp này
chỉ áp dụng cho xuất khẩu.

- Cho phép miễn, giảm trực tiếp liên quan đến xuất khẩu hoặc kết quả
xuất khẩu, vượt quá hay cao hơn những miễn giảm dành cho sản xuất để tiêu
thụ trong nước, khi tính toán cơ sở để thu thuế trực tiếp.
- Miễn hay hoàn thuế gián thu trong quá trình sản xuất và phân phối
hàng xuất khẩu.
- Miễn, hoàn hay hoãn nộp những loại thuế gián thu thuộc diện thu gộp
(luỹ tiến) cho cả các công khoản trước đây với hàng hoá hay dịch vụ được sử
dụng trong sản xuất hàng hoá xuất khẩu, vượt quá mức miễn, hoàn hay hoãn
cho hàng hoá được tiêu thụ trong nước tương tự , tuy nhiên với điều kiện là
các khoản thuế gián thu gộp (luỹ tiến) được miễn, hoàn hay hoãn có thể áp
dụng với hàng xuất khẩu mà không áp dụng đối với sản phẩm tương tư 5
được tiêu thụ trong nước, khi các khoản thuế gián thu gộp được đánh vào vật
tư đầu vàosử dụng cho sản xuất hàng xuất khẩu.
- Hoàn hoặc giảm thuế nhập khẩu vượt quá số thu đối với hàng nhập
khẩu tiêu thụ ở đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tuy nhiên trong những
trường hợp riêng biệt một công ty có thể sử dụng một số lượng vật tư đầu vào
trênh thị trường trong nước có chất lượng và tính năng tương đương với hàng
nhập khẩu để thay thế đầu vào trong nước đó có thể được hưởng lợi từ quy
định này khi các hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu tương ứng sđược thực
hiện trong một thời kỳ hợp lý nhưng không quá hai năm.
- Chính phủ bảo đảm tín dụng xuất khẩu và các chương trình bảo lãnh
chống sự tăng giá thành sản phẩm xuất khẩu hay các chương trỉnh về rủi ro
ngoại hối, với phí thu thấp không hợp lý khônhg đủ để chi trả cho chi phí hoạt
động dài hạn hoặc thâm hụt của các chương trình đó.

10


- Chính phủ cấp các khoản tín dụng xuất khẩu với lãi suất thấp hơn
mức mà họ thực tế phải trả để có được tiền thực hiện việc này (hay lẽ ra phải

trả nếu vay trên thị trường vốn quốc tế để có được tiền với cùng thời hạn và
các điều kiện tín dụng , và được tính bằng cùng một đồng tiền của tín dụng
xuất khẩu), hoặc các cợ sở đó trả cho toàn bộ hay một phần chi phí phát sinh
với nhà sản xuất hay với cơ quan tài chính để có được tín dụng, trong chừng
mực các khoản tín dụng đó được sử dụng để bảo đảm dành cho nhà xuất khẩu
những lợi thế đáng kể trong lĩnh vực tín dụng xuất khẩu.
- Bất kỳ khoản thu nào từ ngân sách được coi là sự trợ cấp theo quy
định của Điều 16 GATT 1994.
Trợ cấp thay thế nhập khẩu là những khoản trợ cấp gắn với điều kiện
phải sử dụng hàng sản xuất trong nước thay cho hàng nhập khẩu - được quy
định trong các văn bản pháp luật hoặc tồn tại trên thực tế. Điều 3.1(b) của
Hiệp định SCM cấm sử dụng các trợ cấp gắn với yêu cầu về hàm lượng nội
địa, đúng với tinh thần của Điều III GATT 1994 về nguyên tắc đối xử quốc
gia. Mặc dù Điều III.8(b) GATT 1994 nêu rõ việc chỉ dành trợ cấp cho các
nhà sản xuất trong nước không vi phạm yêu cầu về đối xử quốc gia của Điều
III nhưng nếu việc dành trợ cấp lại gắn với yêu cầu sử dụng hàng nội đia thay
thế hàng nhập khẩu thì trợ cấp đó lại vi phạm yêu cầu đối xử quốc gia. Hiệp
định TRIMS của WTO cũng cấm sử dụng một loạt biện pháp gắn với yêu cầu
về kết quả hoạt động xuất khẩu cũng như gắn với yêu cầu về hàm lượng nội
địa. Ví dụ các doanh nghiệp lắp ráp ô tô sử dụng phụ tùng, linh kiện sản xuất
trong nước chiếm ít nhất 60% giá trị ô tô thành phẩm được hưởng ưu đãi thuế.
Nhiều trường hợp các nước còn sử dụng kết hợp cả hai dạng trợ cấp bị
cấm này, như trợ cấp 60 USD/tấn bột mỳ xuất khẩu nhằm bù đắp lại việc
công ty phải chấp nhận chỉ sử dụng lúa mỳ trong nước với giá cao hơn thông
thường để sản xuất bột mỳ. Những trợ cấp này dành cho hàng thay thế nhập

11


khẩu và hàng xuất khẩu chắc chắn sẽ dẫn đến việc bóp méo giá cả hàng xuất

nhập khẩu và sự không công bằng trong thương mại, gây thiệt hại cho lợi ích
kinh tế của các nước khác, bởi vì đây là những khoản trợ giúp bằng tiền hay
những ưu đãi về tài chính đối với những loại hàng hoá có thể thay thế hàng
nhập khẩu hoặc hàng xuất khẩu.
Thứ hai, là trợ cấp có thể dẫn tới hành động (trợ cấp đèn vàng)
Đây là những loại trợ cấp được cho phép sử dụng trong phạm vi lãnh
thổ của một quốc gia, nhưng có khả năng bị khiếu kiện ra cơ quan giải quyết
tranh chấp của WTO hoặc có thể bị đánh thuế chống trợ cấp nếu trợ cấp đó
gây thiệt hại đối với nước thành viên WTO khác. Trong mọi trường hợp, nếu
một nước muốn áp dụng hành động khắc phục thương mại chống lại hành vi
trợ cấp của nước khác, nước đó phải chứng tỏ được rằng trên thực tế, hành vi
của nước khác đúng là trợ cấp theo định nghĩa tại Điều 1 Hiệp định SCM, là
trợ cấp riêng biệt theo Điều 2 Hiệp định này, và gây tác động thương mại bất
lợi cho nước muốn áp dụng hành động khắc phục thương mại.
Trợ cấp sản xuất có thể được coi là thuộc nhóm trợ cấp đèn vàng.
Trong Hiệp định SCM không sử dụng cụm từ “trợ cấp sản xuất” mà chỉ sử
dụng cụm từ “những trợ cấp khác ngoài trợ cấp xuất khẩu”. Trên thực tế loại
trợ cấp này chính là trợ cấp sản xuất. Trợ cấp sản xuất có thể là: cho phép sử
dụng mặt bằng và điện năng trong các khu chế xuất, các khoản hỗ trợ của
chính phủ trong nghiên cứu, khai thác, các khuyến khích về tài chính như
miễn hoặc giảm thuế lợi tức…Trợ cấp sản xuất không những có thể mang lại
tác dụng hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm trong nước mà còn hỗ trợ cho việc xuất
khẩu hàng hoá. Hiệp định SCM quy định rõ trợ cấp sản xuất là biện pháp
được các nước sử dụng để xúc tiến những mục tiêu, chính sách xã hội và kinh
tế vì vậy đã cho phép “sử dụng hạn chế những trợ cấp này”, nhưng yêu cầu
các bên ký kết tránh gây ra những ảnh hưởng tiêu cực sau khi trợ cấp cho sản

12



xuất: Gây ra những thiệt hại về công nghệ hoặc những đe doạ đối với sản
xuất của các bên ký kết khác; Gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích
của các bên ký kết khác; Làm mất đi hoặc làm thiệt hại những lợi ích của bên
ký kết khác có được từ Hiệp định GATT và Hiệp định về trợ cấp và các biện
pháp đối kháng.
Đối với các thành viên của WTO là các nước chậm phát triển thì sẽ
không áp dụng các quy định nói trên hay nói cách khác là được sử dụng các
loại trợ cấp nói trên.
Thứ ba, là những biện pháp trợ cấp không bị khởi kiện (trợ cấp đèn
xanh)
Đây là những trợ cấp không gây ra thiệt hại kinh tế cho các nước khác,
hơn nữa chúng được áp dụng phổ biến, có tính tất yếu đối với sự phát triển
kinh tế của một nước. Các loại trợ cấp này không thể bị khiếu kiện ra cơ quan
giải quyết tranh chấp của WTO hay bị đánh thuế chống trợ cấp. Trợ cấp dạng
này gồm các trợ cấp không riêng biệt theo cách hiểu của Điều 2 và các trợ cấp
thỏa mãn một số điều kiện và tiêu chí nhất định.
Chương trình hỗ trợ của nhà nước cho hoạt động nghiên cứu và phát
triển tiền cạnh tranh. Theo quy định tại Điều 8.2 (a) Hiệp đinh SCM, trợ cấp
của chính phủ đối với hoạt động nghiên cứu do các doanh nghiệp thực hiện
hoặc các cơ sở đào tạo hoặc nghiên cứu căn cứ vào hợp đồng với các doanh
nghiệp là trợ cấp không bị khiếu kiện nếu sự trợ giúp:
- Chiếm không quá 75% tổng chi phí hợp lệ của hoạt động nghiên cứu
hoặc không quá 50% chi phí hợp lệ của hoạt động phát triển trong giai đoạn
trước cạnh tranh, đối với toàn bộ thời gian của một dự án, hoặc mức trung
bình của hai mức trên -62,5%- dành cho các chương trình nghiên cứu liên
quan đến hai danh mục đó; và

13



- Được giới hạn trong phạm vi: (i) chi phí nhân sự được tuyển dụng
dành riêng cho mục đích nghiên cứu; (ii) chi phí thiết bị, phương tiện, đất và
nhà được sử dụng dành riêng và thường xuyên (trừ trường hợp được định đoạt
trên cơ sở thương mại) cho hoat động nghiên cứu; (iii) chi phí tư vấn được sử
dụng dành riêng cho hoạt động nghiên cứu; (iv) chi phí quản lý bổ sung phát
sinh trực tiếp từ hoạt động nghiên cứu; và (v) các chi phí hoạt động khác phát
sinh từ hoạt động nghiên cứu (như chi phí cho vật liệu, nguyên liệu).
Chỉ những hoạt động hỗ trợ nghiên cứu của Chính phủ mà kết quả là có
được sản phẩm mẫu phi thương mại đầu tiên mới được coi là được phép.
Chương trình phát triển được Chính phủ tài trợ và hỗ trợ sản xuất có thể bị
kiện theo thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO và pháp luật của các nước.
Hỗ trợ của nhà nước cho phát triển vùng. Theo quy định của Điều
8.2(b) Hiệp định SCM, trợ giúp của Chính phủ đối với các khu vực khó khăn
sẽ không thể bị khiếu kiện nếu:
- Là một phần của chính sách phát triển khu vực chung;
- Mỗi khu vực là khu vực địa lý được quy định rõ và lien tục và
không được tạo ra chỉ nhằm mục đích thu hút viện trợ;
- Sự hỗ trợ được thực hiện chung và được sử dụng chung bởi tất cả các
ngành sản xuất trong khu vực có liên quan (tức là không mang tính chất cụ
thể trên thực tế trong phạm vi ý nghĩa của Điều 2 Hiệp đinh SCM);
- Sự hỗ trợ không phải dành cho những khu vực tạm thời gặp khó
khăn;
- Tiêu chuẩn phù hợp được quy định rõ trong Luật và các quy định để
có thể kiểm tra, các tiêu chuẩn phù hợp phải là khách quan và vô tư, và bao
gồm cả số đo phát triển kinh tế (dựa vào thu nhập hoặc theo GDP tính theo
đầu người của không quá 85% mức trung bình toàn quốc hoặc tỉ lệ thất

14



nghiệp chiếm ít nhất 110% so với mức trung bình toàn quốc và được tính
trong từng giai đoạn 5 năm.
Ví dụ, các doanh nghệp muốn đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất một
sản phẩm X nào đó ở TP.Hồ Chí Minh hoặc ở Bình Dương hay Đồng Nai.
Mục đích của các doanh nghiệp là sản xuất sản phẩm X để cung cấp cho cả
thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong khi đó Chính phủ Việt Nam muốn
nhà máy được đặt ở Miền Trung hay ở Tây Nguyên để có thể phát triển kinh
tế ở các vùng đó. Chính phủ sẵn sàng trả cho doanh nghiệp một khoản trợ cấp
tương đương với chi phí gia tăng vì phải đặt nhà máy ở miền Trung hay Tây
Nguyên thay vì tại TP.Hồ Chí Minh hay ở Bình Dương, Đồng Nai. Trong
trường hợp này khoản trợ cấp nói trên có thể làm biến dạng hoạt động kinh tế
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, và trong một chừng mực nào đó làm giảm
bớt phúc lợi xã hội chung của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên có thể lập luận
rằng, sẽ không có sự thay đổi nào về số lượng sản phẩm X được xuất khẩu và
vì vậy khoản trợ cấp nói trên không gây ra sự biến dạng thị trường ngoài lãnh
thổ Viêt Nam. Trong trường hợp này cộng đồng quốc tế không có lý do gì để
lo ngại về hành động trợ cấp khu vực này.
Hỗ trợ của nhà nước nhằm giúp các doanh nghiệp đáp ứng những yêu
cầu mới về môi trường. Sự trợ giúp của chính phủ cũng có thể được coi là
được phép nếu nó thúc đẩy các cơ sở đang hoạt động trong thời gian ít nhất là
hai năm thích nghi với các quy định mới vè môi trường được áp dụng theo
quy định của pháp luật. Để có thể được cho phép, các điều kiện mới phải đặt
ra nhiều hạn chế hơn và trách nhiệm tài chính nặng hơn cho các doanh
nghiệp. Ngoài ra, trợ cấp phải:
- Là biện pháp được áp dụng một lần và không lặp lại sau đó;
- Được giới hạn ở mức 20% của chi phí thích nghi;

15



- Không bao gồm chi phí thay thế và vận hành hoạt động đầu tư hỗ
trợ, chi phí này phải do doanh nghiệp trả toàn bộ;
- Liên quan trực tiếp đến và phù hợp với kế hoạch giảm ô nhiễm và
chất thải của doanh nghiệp;
- Không bao gồm các chi phí tiết kiệm sản xuất có thể thu được; và
- Phải được dành cho tất cả các doanh nghiệp có khả năng thích nghi
với các thiết bị mới hoặc quy trình sản xuất mới.
Lý do để các dạng trợ cấp này được duy trì là vì người ta cho rằng
chúng hầu như không thể gây tác động bất lợi đến lợi ích của các nước thành
viên khác, hoặc việc áp dụng chúng có ích lợi nhất định và không nên bị ngăn
chặn. Để được công nhận là trợ cấp đèn xanh, các nước thành viên muốn áp
dụng trợ cấp này phải thông báo về biện pháp trợ cấp cho Uỷ ban về Trợ cấp
trước khi áp dụng để Uỷ ban này kiểm tra và kết luận.
Thủ tục xem xét lại trợ cấp đèn xanh: Trợ cấp đèn xanh sẽ được Uỷ ban
về trợ cấp rà soát lại theo quy định của các Điều 8.4, 8.5 Hiệp định SCM. Khi
được yêu cầu, Ban thư ký của WTO sẽ chuẩn bị một báo cáo cho Uỷ ban về
trợ cấp phân tích liệu một chương trình trợ cấp có phù hợp với các tiêu chuẩn
được quy định tại Điều 2.2 SCM hay không.
1.1.3. Các hình thức trợ cấp trong thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu,
Chính phủ các nước sử dụng rất nhiều các biện pháp trợ cấp khác nhau. Dưới
đây là một số hình thức trợ cấp thường gặp:
Thưởng xuất khẩu là việc thưởng cho phần kim ngạch xuất khẩu của
một năm vượt hơn so với kim ngạch xuất khẩu của năm trước đó.
Trợ cấp thay thế nhập khẩu là trợ cấp phụ thuộc hoàn toàn hoặc một
phần vào việc sử dụng hàng sản xuất trong nước thay cho hàng nhập khẩu,
được quy định trong các văn bản luật hoặc trên thực tế. Ví dụ: các doanh

16



nghiệp lắp ráp ô tô sử dụng phụ tùng, linh kiện sản xuất trong nước chiếm ít
nhất 60% giá trị ô tô thành phẩm được hưởng ưu đãi thuế.
Bù lỗ xuất khẩu là việc Chính phủ chi một số tiền đủ để đảm bảo khỏi
lỗ và một khoản lãi thích đáng cho doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng bị lỗ.
Ưu đãi tín dụng là sự hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu
nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp đỡ
các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ điều kiện về tài chính để mua hàng hóa
của nước đó. Các hình thức này có thể là: vay phát triển trung và dài hạn với
lãi suất ưu đãi; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư; vay lại các
dự án đầu tư sử dụng vốn ODA; tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu.
Ưu đãi thuế là việc Chính phủ miễn hoặc giảm thuế cho các doanh
nghiệp, như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế sử dụng đất…
Trợ cấp sản xuất là việc Chính phủ trợ cấp cho doanh nghiệp sản xuất
hàng hóa, có thể là: cho phép sử dụng mặt bằng và điện năng trong các khu
chế xuất, hỗ trợ trong nghiên cứu, khai thác, các khuyến khích về tài chính
như miễn hoặc giảm thuế lợi tức… Trợ cấp sản xuất có tác dụng hỗ trợ việc
tiêu thụ sản phẩm trong nước và còn hỗ trợ cho việc xuất khẩu hàng hoá.
Ưu đãi đầu tư gồm các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
nhập khẩu, thuế đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước khi doanh nghiệp đầu tư vào
các ngành, lĩnh vực hoặc địa bàn được Chính phủ ưu đãi đầu tư.
Các hình thức trợ cấp khác
Trong thương mại quốc tế, các hình thức trợ cấp được các Chính phủ
sử dụng rất đa dạng: cấp lại tiền sử dụng vồn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí để
xúc tiến thương mại, nghiên cứu khoa học.

17



1.1.4. Tác động của các biện pháp trợ cấp
1.1.4.1. Tác động tích cực
- Trợ cấp giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu đẩy mạnh
xuất khẩu của đất nước.
Nhờ có trợ cấp xuất khẩu, thị phần sản phẩm liên quan của nước xuất
khẩu trên thị trường thế giới có thể được mở rộng hơn mức hợp lý mà thực
lực nước xuất khẩu có thể tự mình giành được không có sự can thiệp của trợ
cấp xuất khẩu.
- Trợ cấp có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn lực
Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành
sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh
vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó quá trình điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ
hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến
khích xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài.
- Tác dụng an sinh xã hội:
Trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất
nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp
dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa,
phá sản. Sự hỗ trợ của Chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị
sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều
chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó
khăn mà môi trường thương mại quốc tế tạo ra.
- Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu
của doanh nghiệp
Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải thiện và nâng cao. Đối

18



với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn yếu kém về năng lực
cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, góp phần khởi
động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Đối với những công ty mới gia
nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi phí trong thời gian đầu, khó cạnh
tranh nổi với những công ty đã trụ vững trên thị trường thì hỗ trợ của Chính
phủ có thể bù đắp cho những khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu,
đưa công ty vào quỹ đạo phát triển ổn định.
Trợ cấp xuất khẩu còn làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu
được trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác
vào thị trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị
trường này
- Trợ cấp có tác động tích cực dây truyền:
Nếu Chính phủ chọn đúng ngành cần được trợ cấp, theo nguyên lý hiệu
ứng lan truyền tích cực, trợ cấp sẽ có khả năng tạo ra hiệu ứng tích cực theo
dây chuyền. Chẳng hạn khi Chính phủ trợ cấp cho ngành xi măng thì các
ngành xây dựng cơ sở hạ tầng cũng có điều kiện phát triển. Như vậy, lợi ích
của trợ cấp có thể lan rộng sang các ngành khác ngoài ngành được trợ cấp.
- Tác động tới người tiêu dùng hay các ngành công nghiệp hạ nguồn
Ngành công nghiệp hạ nguồn là những ngành sử dụng hàng hóa làm
đầu vào trong quá trình sản xuất. Người tiêu dùng hay các ngành công nghiệp
hạ nguồn ở nước nhập khẩu sản phẩm được trợ cấp sẽ có lợi do mua được
hàng hóa cần thiết với giá rẻ hơn.
1.1.4.2 Tác động tiêu cực
- Xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, trợ cấp ngăn cản sự phân bổ
tối ưu hiệu quả các nguồn lực quốc gia.
Trợ cấp cho một hoặc một số ngành nhất định sẽ hạn chế khả năng
được hỗ trợ của các ngành, đối tượng khác vì ngân sách nhà nước có giới hạn.

19



Việc Chính phủ quyết định hỗ trợ cho một ngành sản xuất trong nước có thể
dẫn đến xu hướng vốn đầu tư và nguồn lực trong xã hội đổ xô vào ngành đó.
Hậu quả là hàng loạt doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh bị thua lỗ và
đào thải. Như vậy, ưu đãi dành cho một hoặc một nhóm nhà sản xuất này lại
có ảnh hưởng giống như một khoản thuế đánh lên những nhà sản xuất khác.
Lợi ích thu được nhờ việc hỗ trợ một ngành nhất định không chắc sẽ đủ bù
đắp cho tổn thất mà những ngành khác phải gánh chịu.
- Trợ cấp có ảnh hưởng bất lợi cho ngân sách nhà nước.
Trong mọi trường hợp, trợ cấp đều ảnh hưởng bất lợi cho ngân sách
nhà nước, cho dù ảnh hưởng bất lợi đó thể hiện trực tiếp hay gián tiếp, có thể
kê khai được hay không kê khai được thành một khoản chi ngân sách cụ thể.
Nhiều trường hợp, lợi ích do tăng xuất khẩu khi tiến hành trợ cấp xuất khẩu
thậm chí còn không đủ để bù đắp cho những tổn phí liên quan đến trợ cấp của
nhà nước. Về khía cạnh kinh tế, trong những trường hợp như vậy, rõ ràng trợ
cấp là một chính sách phi kinh tế của nước xuất khẩu, vừa thiệt hại cho ngân
sách lại vừa không đạt được mục tiêu mong muốn.
- Trợ cấp trong nước của nước này có thể gây tổn hại đến lợi ích xuất
khẩu của nước khác.
Nếu trợ cấp của một nước giúp bảo hộ hoặc nâng cao sức cạnh tranh
của ngành sản xuất trong nước thì hiển nhiên gây bất lợi cho nước khác như
ngăn cản nhập khẩu sản phẩm tương tự từ các nước khác vào thị trường nước
áp dụng trợ cấp, làm vô hiệu hoá hoặc làm giảm tác dụng các cam kết ràng
buộc thuế quan của nước trợ cấp.
- Đối với nước nhập khẩu hàng được nước khác trợ cấp:
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu được trợ
cấp sẽ gặp khó khăn do bị tăng áp lực cạnh tranh, thậm chí có thể bị thiệt hại
vật chất hoặc có nguy cơ bị thiệt hại vật chất. Chẳng hạn như xuất hiện sự suy


20


giảm sản lượng, doanh số bán, lợi nhuận, năng suất, tỷ suất thu hồi vốn đầu
tư, sự thu hẹp thị phần, hay giảm khai thác sử dụng công suất, giảm luồng tiền
mặt, lưu kho, công ăn việc làm, lương bổng, tốc độ tăng trưởng, khả năng thu
hút vốn, v.v... Đối với những ngành tuy chưa thực sự đi vào sản xuất hàng
hóa tương tự với hàng nhập khẩu được trợ cấp nhưng Chính phủ đã có kế
hoạch phát triển ngành thì trợ cấp xuất khẩu của nước ngoài khiến cho ngành
đó gặp quá nhiều trở ngại, bị trì hoãn, thậm chí không thể xuất hiện.
- Người tiêu dùng trong nước phải chấp nhận mua hàng hóa được trợ
cấp tại nội địa với giá cao và lượng hàng hóa tiêu thụ ở trong nước cũng
giảm sút.
1.2. BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG
1.2.1. Các biện pháp đối kháng
1.2.1.1. Biện pháp đối kháng
Khi phát hiện có trợ cấp và thiệt hại xảy ra, Chính phủ nước nhập khẩu
có thể áp dụng các biện pháp đối kháng như đưa ra một cơ quan giải quyết
tranh chấp quốc tế hoặc tiến hành điều tra đánh thuế chống trợ cấp với hàng
nhập khẩu được trợ cấp. Kết quả của việc điều tra có thể đi đến quyết định:
đánh thuế chống trợ cấp nếu các điều kiện và thủ tục quy định được đáp ứng;
không đánh thuế chống trợ cấp trong trường hợp không hội đủ các điều kiện;
hoặc nước nhập khẩu chấp nhận các cam kết tự nguyện do nhà xuất khẩu
nước ngoài hoặc chính quyền nước xuất khẩu đưa ra (chẳng hạn như Chính
phủ nước xuất khẩu đồng ý loại bỏ trợ cấp hoặc tiến hành các biện pháp khác
để loại bỏ ảnh hưởng bất lợi của trợ cấp hay nhà xuất khẩu đồng ý điều chỉnh
lại giá hàng ở mức phù hợp).
Như vậy, biện pháp đối kháng (hay còn gọi là biện pháp chống trợ cấp)
là những biện pháp của một nước có thể áp dụng khi có cơ sở cho rằng hàng


21


nhập khẩu vào nước đó được Chính phủ trợ cấp và gây thiệt hại cho ngành
sản xuất trong nước.
Hiệp định SCM quy định các biện pháp đối kháng tương ứng với từng
loại trợ cấp. Trợ cấp “đèn đỏ” hoặc trợ cấp “đèn vàng” gây ra thiệt hại có thể
bị khiếu kiện thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoặc bị điều
tra đánh thuế đối kháng. Tiến trình áp dụng thuế đối kháng chỉ có thể được
thực hiện khi có thiệt hại xảy ra. (mục 2.1.3) Trong các trường hợp khác, biện
pháp đối kháng duy nhất là thông qua tiến trình giải quyết tranh chấp của
WTO. Ví dụ, một trợ cấp bị cấm gây ra thiệt hại, có thể bị đối phó thông qua
tiến trình điều tra đánh thuế đối kháng hoặc tiến trình giải quyết tranh chấp
của WTO, nhưng nếu trợ cấp đó không gây thiệt hại thì nó chỉ có thể là đối
tượng của tiến trình giải quyết tranh chấp.
Trường hợp khiếu kiện ra Cơ quan giải quyết tranh chấp được Hiệp
định SCM quy định tại Điều 4, Điều 7 và Điều 30. Theo đó, việc tham vấn và
giải quyết tranh chấp tuân theo Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục giải
quyết tranh chấp (DSU) - Phụ lục 2 Hiệp định Marrakesh thành lập WTO.
Việc giải quyết tranh chấp với điều kiện và thời gian khác nhau tùy thuộc vào
tranh chấp với loại trợ cấp thuộc “đèn đỏ” hoặc “đèn vàng”.
Mọi biện pháp trợ cấp bị cấm đều bị coi là rất có thể gây tổn hại đến lợi
ích của các nước thành viên khác và do đó, nước thành viên khiếu kiện không
cần phải chứng minh tác động bất lợi của biện pháp trợ cấp bị kiện đối với
thương mại trong quá trình khiếu kiện.
Trợ cấp “đèn vàng” dù không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện ra Cơ
quan giải quyết tranh chấp của WTO nếu gây tổn hại đến lợi ích của thành
viên khác. Ba dạng tổn hại có thể là:
- Thiệt hại có thể là thiệt hại vật chất hiện hữu, đe dọa gây thiệt hại vật
chất hoặc làm trì hoãn sự hình thành của một ngành sản xuất trong nước;


22


×