Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Nâng cao chất lượng của sự phát triển kinh tế, xã hội PGS. TS. LÊ XUÂN BÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 177 trang )

1

PGS. TS. LÊ XUÂN BÁ, HOÀNG THU HÒA
(Đồng chủ biên)





NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ- XÃ HỘI
(Sách tham khảo)







Nhà xuất bản Tài chính
Hà Nội- Tháng 6/2010











2

Tập thể tác giả:

Hoàng Thu Hoà
Trần Hồng Minh
Ngô Văn Giang
Nguyễn Hải Linh





















3


LỜI GIỚI THIỆU
Nâng cao chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội từ nhiều năm nay
là một đòi hỏi bức thiết, là nguyện vọng của nhân dân, là một chủ trương lớn,
cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó đang từng bước đi vào cuộc
sống, trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế, cải cách
nền hành chính, chuyển biến các chính sách và biện pháp đổi mới kinh tế - xã
hội.
Trên thế giới, nâng cao chất lượng của sự phát triển để đạt đến sự phát
triển bền vững là một xu hướng lớn, có tính thời đại, được thể hiện ở hầu hết
các quốc gia, nhất là trong các chính sách và biện pháp để khắc phục cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, chuyển sang thời kỳ phát
triển hậu khủng hoảng.
Cuốn sách “Nâng cao chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội” được
xuất bản góp phần khiêm tốn vào việc nhận thức và thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta.
Cuốn sách chia làm ba phần. Hai phần đầu trình bày về quan niệm chất
lượng phát triển và giới thiệu kinh nghiệm đáng chú ý về nâng cao chất lượng
phát triển của ba nước là: Trung Quốc, Hàn Quốc và Phần Lan.
Phần chủ yếu của cuốn sách tập trung phân tích chất lượng của sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta, theo ba chiều cạnh chính yếu: chất lượng tăng
trưởng kinh tế, chất lượng công bằng xã hội, chất lượng gìn giữ môi trường.
Các tác giả đã cố gắng sưu tầm, lựa chọn để cung cấp những số liệu,
thông tin về thực trạng chất lượng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, phấn
đấu làm rõ thành tựu, yếu kém và những nguyên nhân của sự yếu kém.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã nêu ra một số kiến nghị về chính sách và
biện pháp để nâng cao chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta,
về từng chiều cạnh (kinh tế, xã hội, môi trường), đi đến kết luận ngắn gọn về
tổng thể công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Trong khi biên soạn cuốn sách này, các tác giả đã tham khảo nhiều tài

liệu, tiếp nhận những ý kiến phân tích, nhận xét trong một số công trình nghiên
cứu của các chuyên gia ở trong và ngoài nước (được liệt kê trong danh mục tài
liệu tham khảo của cuốn sách).
Chúng tôi xin chân thành cám ơn cơ quan phát triển quốc tế của Đan
Mạch (Danida), trong khuôn khổ dự án “Nâng cao năng lực nghiên cứu và
4

phân tích chính sách cho Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương”, đã hỗ
trợ về tài chính cho việc biên soạn và xuất bản cuốn sách này.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

























5

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG, HỘP, HÌNH 7

PHẦN I 9

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG 9

I.

QUAN

NIỆM

VỀ

TĂNG

TRƯỞNG



CHẤT


LƯỢNG

TĂNG

TRƯỞNG

KINH

TẾ 9

1.1. Nhận thức chung về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng 9

1.2. Một số quan niệm đáng chú ý về chất lượng tăng trưởng kinh tế 12

II.

MỐI

QUAN

HỆ

GIỮA

TỐC

ĐỘ

TĂNG


TRƯỞNG



CHẤT

LƯỢNG

TĂNG

TRƯỞNG 15

2.1. Nhận thức chung về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất
lượng tăng trưởng 15

2.2. Sự thể hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng và chất lượng tăng
trưởng qua một số lĩnh vực 16

PHẦN II 28

KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI 28

I.

TRUNG

QUỐC 28


1.1. Một số vấn đề tồn tại 29

1.2. Vượt qua thách thức để đảm bảo chất lượng tăng trưởng 33

II.

HÀN

QUỐC 39

2.1. Những thành tựu nổi bật 40

2.2.Một số thách thức với chất lượng tăng trưởng 46

2.3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của Hàn Quốc 47

III.

PHẦN

LAN 49

3.1.Tổng quan về phát triển kinh tế- xã hội của Phần Lan 49

3.2. Một số cải cách cơ bản nhằm mục tiêu đảm bảo chất lượng tăng
trưởng 50

PHẦN III 56

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI

CỦA VIỆT NAM 56

I.

CHẤT

LƯỢNG

TĂNG

TRƯỞNG

KINH

TẾ 56

1.1. Huy động và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế 56

6

1.2. Thành tựu về chất lượng tăng trưởng kinh tế 62

1.3. Những yếu kém về chất lượng tăng trưởng 67

1.4. Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên 77

1.5. Các giải pháp then chốt nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam 81

II.


CHẤT

LƯỢNG

CÔNG

BẰNG



HỘI



TIẾN

BỘ



HỘI 94

2.1. Khái niệm về công bằng xã hội và tiến bộ xã hội 94

2.2. Các yếu tố và các chính sách để đạt được công bằng và tiến bộ xã
hội 98

2.3. Chất lượng công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam 103


2.4. Những yếu kém trong thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội 110

2.5. Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên 120

2.6. Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội trong
những năm tới 122

III.

CHẤT

LƯỢNG

GÌN

GIỮ

MÔI

TRƯỜNG 130

3.1. Môi trường và quá trình phát triển kinh tế xã hội 130

3.2. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội 132

3.3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền vững 135

3.4. Thực trạng hiện nay của chất lượng môi trường nước ta 136

3.5. Vấn đề cần giải quyết 161


3.6. Làm gì để nâng cao chất lượng môi trường 162

KẾT LUẬN 174

TÀI LIỆU THAM KHẢO 176











7

Danh mục bảng, hộp, hình
Bảng 1 : Chỉ số phát triển con người của Trung Quốc năm 2007 trang
Bảng 2: Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc
Bảng 3: Chỉ số phát triển con người của Hàn Quốc năm 2007
Bảng 4: Các nước đứng đầu về khoa học từ 2000 – 2006

Bảng 5. Lực lượng lao động tham gia các hoạt động kinh tế, 2000-2009
Bảng 6. Năng suất lao động xã hội, 2000-2009
Bảng 7. Cơ cấu lao động làm việc theo ngành kinh tế, 2000-2009
Bảng 8. Tình hình biến động các loại đất, 1990-2008
Bảng 9. Tổng vốn đầu tư xã hội, 2000-2009

Bảng 10. Tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc giai đoạn 1992-2009
Bảng 11. Tỷ trọng các ngành trong GDP
Bảng 12. Cơ cấu đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế
Bảng 13. Xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài, 1995-2009

Bảng 14. Chỉ số phát triển con người (HDI) qua các năm của Việt Nam
Bảng 15. So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong thời kỳ
tăng trưởng nhanh
Bảng 16. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2007-2009
Bảng 17. Môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2009
Bảng 18. Chỉ số phát triển kinh tế tri thức của một số nước và nhóm nước,
2009
Bảng 19. Tổng hợp điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT) của
nền kinh tế Việt Nam
Bảng 20. Số lượng các trường cao đẳng và đại học
Bảng 21. Thu nhập bình quân đầu người/tháng phân theo 5 nhóm thu nhập
Bảng 22. Hệ số GINI về bất bình đẳng thu nhập của một số nước châu Á

Bảng 23. Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng
Bảng 24. Chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng

Bảng 2
5
. Nhà ở của hộ gia đình chia theo thu nhập năm 2004


8

Hộp 1: Một số kết quả đáng chú ý của Đề tài nghiên cứu “Mức sống kết hợp
với môi trường sống của các hộ gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh”

Hộp 2: Những biểu hiện của khủng hoảng môi trường

Hộp 3: Các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã tham gia
Hộp 4: Sự xâm hại môi trường của công ty Tung Kuang ở Việt Nam
Hộp 5: Các khu công nghiệp Cần Thơ đang “sát hại” môi trường
Hình 1: Chuyển đổi kinh tế tại Hàn Quốc từ năm 1945 – 2005
Hình 2: Các chỉ số phát triển R&D của Hàn Quốc
Hình 3: Trình độ của nghiên cứu viên theo loại hình tổ chức
Hình 4: Xu hướng HDI
Hình 5: Tốc độ tăng trưởng GDP, mức GDP bình quân đầu người
của Việt Nam, giai đoạn 1990-2009

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM Diễn đàn hợp tác Á - Âu
EU Liên minh châu Âu
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GINI Hệ số đo lường bất bình đẳng thu nhập
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
HDI Chỉ số phát triển con người
IPR Sở hữu trí tuệ
KEI Chỉ số kinh tế tri thức
NI Thu nhập quốc dân
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PPP Sức mua tương đương
R&D Nghiên cứu và triển khai
TFP Tổng năng suất nhân tố
UNDP Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc
WB Ngân hàng Thế giới

WEF Diễn đàn Kinh tế Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa



9




PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG
I. QUAN NIỆM VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Nhận thức chung về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tăng trưởng, hầu hết các
định nghĩa này đều rất “mở”, và đưa đến nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên,
tất cả đều cho thấy tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô, sản lượng của
nền kinh tế trong giai đoạn nhất định (thường là 1 năm). Đó là kết quả được tạo
ra bởi tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Tăng trưởng
kinh tế được phản ánh ở nhiều chỉ tiêu như: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập quốc dân (NI), tăng trưởng vốn, lao
động, sự gia tăng dung lượng thị trường,… Có thể thấy, các lý thuyết về tăng
trưởng đều nhằm mục đích xác định những yếu tố chủ yếu quyết định tăng
trưởng và vai trò của chúng đối với quá trình tăng trưởng. Theo đó, có bốn yếu
tố tăng trưởng được thừa nhận rộng rãi gồm: số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực; số lượng và chất lượng nguồn tài nguyên; mức độ tích lũy vốn; và sự
đổi mới công nghệ (bao gồm cả công nghệ quản lý). Song, tuỳ thuộc vào bối

cảnh và giai đoạn phát triển nhất định của từng nước, mức độ tác động đến tăng
trưởng của các yếu tố trên là khác nhau. Nếu như đối với các nước đang trong
quá trình công nghiệp hoá, nguồn vốn vật chất đóng một vai trò quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng, thì đối với các nước công nghiệp, nguồn vốn nhân lực và
công nghệ được thể hiện qua tổng năng suất nhân tố (TFP) cao, lại là những
yếu tố cơ bản quyết định tốc độ tăng trưởng.
Quá trình tăng trưởng bao gồm cả tăng trưởng theo chiều rộng và chiều
sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn và dài hạn,… Nhiều công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước đã lượng hoá tác động của các nguồn lực tăng trưởng
đến chất lượng và động thái tăng trưởng thông qua các mô hình. Quá trình tăng
trưởng có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng trưởng hướng nội, tăng
trưởng hướng ngoại hoặc sự kết hợp của cả hai mô hình này tuỳ điều kiện và sự
lựa chọn chiến lược của từng quốc gia.
10

Cho đến những năm 80 của thế kỷ trước, tăng trưởng được coi là mục
tiêu hàng đầu của tất cả các quốc gia. Trong một thời gian dài, hầu hết các nước
theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào tích lũy tài sản vốn vật chất, các chính
sách thường chú trọng vào các dòng vốn đầu tư, kể cả nhập khẩu vốn. Quan
niệm tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với xóa đói nghèo và các nước nghèo có
thể đuổi kịp các nước giàu đã dẫn đến những dự báo đầy lạc quan cho các nước
thuộc thế giới thứ ba trong những năm 1990. Cũng trong thời kỳ này, thế giới
đã hình thành các nhóm nước có tốc độ tăng trưởng và thành quả phát triển trái
ngược nhau. Một loạt các nước châu Phi phải chịu thụt lùi về kinh tế với tốc độ
tăng trưởng âm và tình trạng nghèo đói dai dẳng. Trong khi đó ở châu Á, các
nước công nghiệp mới nổi với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong một thời
gian khá dài, có xu hướng bắt kịp các nước phát triển ở phương Tây và tỷ lệ
nghèo đói tại các nước này đã giảm xuống đáng kể.
Những diễn biến thực tế đó đã đặt dấu hỏi lớn cho các nhà kinh tế về
chất lượng tăng trưởng trong khi nghiên cứu về sự bền vững của tăng trưởng.

Từ cuối thế kỷ XX, trong Báo cáo phát triển con người, Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau như tăng
trưởng mất gốc, tăng trưởng không có tương lai,… nhằm cảnh báo về tăng
trưởng không gắn với phân phối thành quả của tăng trưởng, đồng thời cũng đưa
ra khái niệm tăng trưởng công bằng. Điểm chung của các khái niệm này chỉ
xoay quanh một ý, đó là tăng trưởng cần gắn với chất lượng.
Cho đến nay, có khá nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng
trưởng. Theo nghĩa rộng thì chất lượng tăng trưởng gần với quan niệm về phát
triển bền vững, chú trọng tới tất cả ba thành tố kinh tế, xã hội và môi trường.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm chất lượng tăng trưởng có thể chỉ được giới hạn ở
một khía cạnh nào đó, ví dụ như chất lượng đầu tư (ICOR), chất lượng giáo dục,
chất lượng dịch vụ công, quản lý xã hội, GDP, TFP, cơ cấu kinh tế, sức cạnh
tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp từng ngành và cả nền kinh tế…
Dù hiểu theo cách nào thì các khái niệm và nghiên cứu cho đến nay đều toát lên
một ý chung mang tính cảnh báo, đó là không chỉ có mức độ và tốc độ tăng
trưởng là quan trọng, mà làm cách nào để đạt và giữ được tăng trưởng cao cũng
không kém phần quan trọng. Nói chung, tăng trưởng nhanh cần phải gắn với
chất lượng tăng trưởng.
Như vậy, dù chưa có một khái niệm chính thức về chất lượng tăng
trưởng, song trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, một số nhà kinh tế đã nhất trí đưa
ra hai khía cạnh của chất lượng tăng trưởng là: (i) Tốc độ tăng trưởng cao cần
11

được duy trì trong dài hạn. (ii) Tăng trưởng cần phải đóng góp trực tiếp vào cải
thiện một cách bền vững phúc lợi xã hội, cụ thể là phân phối thành quả của
phát triển và xóa đói giảm nghèo. Nhìn chung, theo nghĩa hẹp, chất lượng tăng
trưởng là thuộc tính bên trong của quá trình tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua
các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đạt được mặt số lượng của tăng trưởng và khả
năng duy trì nó trong dài hạn; trong khi đó, hiểu theo nghĩa rộng, chất lượng
tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo nên tính chất, sự

vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội - môi trường. Với cách hiểu này, tăng trưởng
trở nên toàn diện hơn và được nâng cao một bước so với trước. Nói đến tăng
trưởng giờ đây không chỉ đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà
hai mục tiêu khác không kém phần quan trọng là duy trì tốc độ tăng trưởng cao
trong dài hạn và tăng thu nhập phải gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng
phúc lợi và xóa đói giảm nghèo. Cũng theo cách hiểu này thì tăng trưởng
không nhất thiết phải đạt tốc độ tăng trưởng quá cao mà chỉ cần cao ở mức độ
hợp lý nhưng bền vững. Bởi vì, nếu chỉ xem xét tăng trưởng kinh tế trên giác
độ số lượng thu nhập tăng thêm thì chưa đủ. Thực tế cho thấy nhiều “loại” tăng
trưởng không những không đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà
trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh
chịu. Năm 1996, UNDP đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu để các quốc gia tham
khảo, gồm:
(1) Tăng trưởng không việc làm, là tăng trưởng kinh tế nhưng không mở
rộng cơ hội tạo thêm việc làm hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập thấp.
(2) Tăng trưởng không lương tâm, là tăng trưởng mà thành quả của nó
chủ yếu đem lại lợi ích cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, thậm
chí người nghèo còn tăng thêm, khoảng cách giàu nghèo gia tăng.
(3)Tăng trưởng không có tiếng nói, tức là tăng trưởng kinh tế không kèm
theo mở rộng nền dân chủ hay là việc trao thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói
khác và dập tắt những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế.
(4) Tăng trưởng không gốc rễ, là sự tăng trưởng đã khiến cho nền văn
hoá của con người trở nên khô héo.
(5) Tăng trưởng không tương lai, là tăng trưởng qua đó thế hệ hiện nay
phung phí những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến.
Chính vì lẽ đó, nghiên cứu tăng trưởng kinh tế bên cạnh sự gia tăng về số
lượng, còn cần và nhất thiết phải quan tâm đến khía cạnh chất lượng. Đã có sự
12


thừa nhận rộng khắp rằng, điều cốt lõi của quá trình phát triển không chỉ là tốc
độ tăng trưởng kinh tế mà chất lượng tăng trưởng kinh tế mới là vấn đề có ý
nghĩa quyết định.
1.2. Một số quan niệm đáng chú ý về chất lượng tăng trưởng kinh tế
(1) Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là phát triển bền vững:
Tăng trưởng kinh tế có chất lượng là đặc trưng biểu hiện thành phát triển
bền vững. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), phát triển bền vững là phát triển
theo nguyên tắc “sự thoả mãn nhu cầu của thế hệ hôm nay không làm ảnh
hưởng tới sự thoả mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Cụ thể hơn, phát triển
bền vững là bảo toàn và phát triển ba nguồn vốn: tài nguyên môi trường, nhân
lực và cơ sở vật chất. Trong đó, tài nguyên môi trường hiện nay được quan tâm
đặc biệt, vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các quốc gia thời gian qua
thường dẫn tới huỷ hoại về môi trường.
Các nghiên cứu của WB về chất lượng tăng trưởng cho thấy trên thế giới
đã hình thành những chiến lược phát triển như sau:
- Các nước công nghiệp đặt mục tiêu nâng cao thu nhập bình quân đầu
người cùng với mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái. Các quốc gia Tây Âu và
Nhật Bản đã đạt được khá hơn cả hai mục tiêu, tuy nhiên Mỹ lại chưa thành
công trong mục tiêu bảo vệ môi trường.
- Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Trung
Quốc, Inđônêsia, Thái Lan đã và đang kinh qua thời kỳ công nghiệp hoá tăng
trưởng cao nhưng phải trả giá đắt cho môi trường bị huỷ hoại.
- Các quốc gia Nam Á và châu Phi tuy tăng trưởng kinh tế chậm, thậm
chí tăng trưởng âm (thập kỷ 80 của thể kỷ 20 - thập kỷ mất mát của châu Phi)
nhưng môi trường vẫn bị tổn thất lớn do khai thác nguồn tài nguyên vô tổ chức
và quản lý lỏng lẻo.
Như vậy, quan điểm tăng trưởng kinh tế trước, khắc phục hậu quả môi
trường sau là không hợp lý. Phải tạo ra sự cân bằng giữa tăng trưởng và bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế được quan niệm là phát
triển bền vững không chỉ là chất lượng môi trường tự nhiên, mà còn là môi

trường xã hội (tình trạng tội phạm, tham nhũng), chất lượng của người lao động
(vốn nhân lực) và chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế (vốn vật
chất), trong đó quan trọng nhất là hệ thống giao thông vận tải, viễn thông liên
lạc, điện, nước…
13

(2) Chất lượng tăng trưởng theo quan niệm hiệu quả:
Nguồn gốc của tăng trưởng được chia thành hai loại. Tăng trưởng theo
chiều rộng, tức là tăng trưởng vốn, tăng lao động và tăng cường khai thác tài
nguyên. Tăng trưởng theo chiều sâu, thể hiện ở tăng năng suất lao động, hiệu
quả sử dụng vốn sản xuất nâng cao với tổng năng suất nhân tố (TFP) tăng lên.
Do có nhiều phương pháp tính TFP khác nhau nên tính chất so sánh
được giữa các thời kỳ, giữa các địa phương trong một quốc gia và so sánh quốc
tế của chỉ tiêu này chưa được đảm bảo, vì vậy sử dụng TFP để phản ánh chất
lượng tăng trưởng là rất khó khăn. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có công cụ đo
lường “hiệu quả tổng hợp các nhân tố” theo chiều sâu tốt hơn TFP.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế theo quan niệm về nguồn gốc và phương
thức tăng trưởng tạo thuận lợi cho mục tiêu tìm kiếm các giải pháp thúc đẩy
tăng trưởng. Có sự đồng thuận rộng rãi rằng để tăng trưởng có hiệu quả kinh tế
cao, cần đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ,
nghiên cứu và triển khai.
(3) Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là nâng cao phúc lợi của
công dân và gắn liền tăng trưởng với công bằng xã hội:
Theo quan điểm này, tăng trưởng kinh tế đáp ứng như thế nào phúc lợi
cho nhân dân là thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là
nguồn gốc tạo thêm của cải cho xã hội và gắn liền với việc sử dụng của cải cho
phúc lợi xã hội. Phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người
mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, cơ hội
học tập và chăm lo sức khoẻ,… Công bằng xã hội thể hiện ở nhiều chỉ tiêu như
hệ số GINI về thu nhập, hệ số Gini về giáo dục và tỷ lệ người nghèo trong xã

hội.
Quan niệm chất lượng tăng trưởng theo phúc lợi và công bằng xã hội
được các nhà kinh tế học của tổ chức OXFAM đề cao. Họ thấy rằng, nếu quá
quan tâm đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công bằng xã hội sẽ dẫn đến bất ổn
xã hội và tăng trưởng không thể bền vững, ngược lại, nếu quá đề cao công bằng
xã hội thì sẽ không có động lực để thúc đẩy tăng trưởng. Sự kết hợp hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo ra chất lượng của tăng
trưởng kinh tế.
(4) Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là cơ cấu và chuyển dịch
cơ cấu của tăng trưởng kinh tế:
14

Đây là quan điểm của các giáo sư kinh tế thuộc nhiều trường đại học ở
Mỹ. Cơ cấu tăng trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các
ngành vào tăng trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong
100% mức tăng trưởng. Cơ cấu tăng trưởng có thể xét theo khu vực thể chế,
thành phần kinh tế, vùng, miền và theo yếu tố sản xuất (vốn, lao động, TFP).
Tính hợp lý của quan niệm này là coi chất lượng sự vật là sự biến đổi cơ
cấu bên trong của sự vật, không gắn chất lượng sự vật với mục đích tồn tại, bối
cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật tồn tại hoặc các sự vật có mối liên hệ tác
động mật thiết với nhau.
(5) Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế, ngành hoặc doanh nghiệp được xem xét:
Tăng trưởng đi liền với việc nâng cao năng lực cạnh tranh là tăng trưởng
có chất lượng cao và ngược lại. Thực ra, tăng trưởng kinh tế là chỉ tiêu chủ yếu
của năng lực cạnh tranh. Vì vậy, sự gắn bó chặt chẽ hầu như hoà nhập làm một
như vậy cho thấy tính phi lôgíc của quan niệm này.
(6) Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là thể chế dân chủ trong
môi trường chính trị xã hội của nền kinh tế:
Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với quá trình đổi mới hệ thống

chính trị từ lâu đã được nhìn nhận là vừa có tính tích cực lại vừa trực tiếp. Các
công trình nghiên cứu của Samuel Huntington (Đại học Oklahoma), Evelyne
Stephens (Đại học Chicago)… cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa thu nhập
đầu người và mức độ dân chủ hoá của thể chế chính trị xã hội.
Tính minh bạch, ít tham nhũng, sự tham gia của người dân vào quản lý
kinh tế - xã hội tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Như vậy,
theo cách diễn giải của trường phái này, dân chủ biểu hiện mặt chất của tăng
trưởng kinh tế.
Với những quan niệm trên, khi nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng
kinh tế, một loạt câu hỏi đã được đặt ra. Câu hỏi liên quan đến chất lượng theo
nghĩa hẹp: Tăng trưởng được bao nhiêu? Nhiều hay ít? Nhanh hay chậm? Khả
năng duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng như thế nào? Cái giá phải trả ra sao? Các
yếu tố cấu thành tăng trưởng hay cấu trúc tăng trưởng như thế nào? Câu hỏi về
chất lượng tăng trưởng theo nghĩa rộng: Tác động lan toả của tăng trưởng đến
các đối tượng chịu ảnh hưởng như thế nào? Đặc biệt là về: Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cải thiện tình trạng nghèo đói, bình đẳng và công bằng, tài nguyên và
môi trường…?
15

II. MỐI QUAN HỆ GIỮA TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT
LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
2.1. Nhận thức chung về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất
lượng tăng trưởng
Từ những phân tích trên có thể thấy, nâng cao chất lượng tăng trưởng có
ý nghĩa quan trọng đối với mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển. Để đạt
được điều đó, việc xem xét các khía cạnh của quá trình tạo tăng trưởng trở nên
cấp thiết hơn. Chính sách tăng trưởng và một chiến lược phát triển không nên
dừng ở đặt mục tiêu gia tăng tốc độ tăng trưởng mà bất chấp hậu quả. Trái lại,
tăng thu nhập một cách bền vững, cải thiện đời sống vật chất cho các nhóm
người nghèo cũng phải được quan tâm trực tiếp ngay từ trong quá trình tạo tăng

trưởng. Có thể thấy, chất lượng tăng trưởng không trùng lặp với các quan điểm
về “phát triển”, “phát triển bền vững”, “tăng trưởng” và “tăng trưởng tăng
trưởng hay tăng trưởng bền vững”. Tuy nhiên, giữa chúng tồn tại mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, trong đó vẫn đảm bảo kinh tế là một yếu tố quan trọng của
phát triển. Cơ sở để xem xét mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng
tăng trưởng thường dựa vào các nội dung bổ sung cho nhau, đó là: Đầu tư hình
thành các loại tài sản vốn tham gia vào quá trình tăng trưởng; Mô hình tăng
trưởng của một nước; Khía cạnh phân phối (cả thu nhập và cơ hội), cũng như
các vấn đề về môi trường và phát triển con người trong quá trình tăng trưởng.
Việc đánh giá chất lượng tăng trưởng bằng cách xem xét các nội dung
trên đây cho thấy có sự thống nhất về nguyên tắc giữa “phát triển” và “tăng
trưởng”. Theo cách hiểu đơn giản nhất, phát triển là nâng cao chất lượng cuộc
sống, tăng cơ hội cho mọi người để có thể tự quyết định tương lai của chính
mình. Trong khi đó, tăng trưởng hay tăng thu nhập trên đầu người là một chỉ số
quan trọng bậc nhất của phát triển. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế về lượng
không có nghĩa là các chỉ số khác của phát triển tự động được cải thiện. Điều
này đã được chứng minh cả về lý thuyết lẫn thực tế ở nhiều nước, nhất là các
nước đang phát triển trong nhiều thập kỷ vừa qua.
Vì vậy, tăng trưởng về lượng nếu không được duy trì và không đi đôi với
cải thiện về phúc lợi hay các nội dung khác của phát triển thì mục tiêu của phát
triển không đạt được. Phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế không chỉ dừng
ở việc chỉ xem xét các yếu tố tạo ra tăng trưởng, mà quan trọng không kém là
cần xem xét kết quả phân phối thành quả của tăng trưởng cũng như tác động
ngược lại tới tăng trưởng của khía cạnh phân phối đó.
16

2.2. Sự thể hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng và chất lượng tăng
trưởng qua một số lĩnh vực
(1) Mối quan hệ giữa tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng qua việc
đầu tư hình thành các loại tài sản vốn.

Trên thực tế, việc đầu tư hình thành các loại tài sản vốn là vấn đề cần
thiết để có tăng trưởng. Tuy nhiên, để mang lại chất lượng tăng trưởng thì mức
đầu tư và cách thức đầu tư đều quan trọng như nhau. Vì vậy, sự đầu tư mất cân
đối, chẳng hạn đầu tư thiên lệch hay các chính sách làm méo mó sự hình thành
các loại tài sản vốn, sẽ không hứa hẹn duy trì được tăng trưởng trong dài hạn và
nâng cao phúc lợi xã hội. Lập luận này trái với nhiều quan niệm trước đây cho
rằng chỉ cần đầu tư, nhất là vốn vật chất ở mức cao sẽ đạt tăng trưởng như
mong đợi. Có thể nói các loại tài sản vốn là kết quả của quá trình đầu tư và tích
lũy, do đó nếu chỉ tập trung đầu tư vào một loại tài sản sẽ dẫn đến đầu tư ít vào
các loại tài sản khác.
Thực tế ở nhiều nước công nghiệp và các nước đang phát triển trong
những năm cuối thế kỷ XX là bằng chứng khá rõ cho sự tập trung đầu tư vào
tài sản vốn vật chất. Các nước này đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để
làm tăng lợi suất của nguồn vốn này, như trợ cấp, ưu đãi lãi suất, bảo lãnh cho
vay, bảo hộ sản xuất trong nước, miễn giảm thuế,… Hệ quả của chính sách
này là khuyến khích hành vi chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư, ngân hàng và
cộng đồng doanh nghiệp, gây bùng nổ về đầu tư tài sản vật chất. Mặt trái của
các chính sách này là thiếu nguồn lực đầu tư và hạ thấp lợi suất thu được từ
đầu tư vào các tài sản vốn khác và vì vậy không hấp dẫn các nhà đầu tư. Đầu
tư thiên lệch là một nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng không bền vững. Hệ quả
này càng trở nên trầm trọng hơn nếu đầu tư, nhất là đầu tư công, kém hiệu quả.
Những năm gần đây, để đạt tốc độ tăng trưởng cao cũng như thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều nước đang phát triển còn cho phép khai thác
tài nguyên và môi trường quá mức, thường thấy ở các nước có lợi thế so sánh
về phát triển các ngành tập trung tài nguyên. Các chính sách này được coi là
một trong những biện pháp khuyến khích đầu tư, nhưng tác động trái là làm
giảm giá của vốn tài nguyên để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Khai thác
quá mức tài nguyên và phát triển các ngành công nghiệp dựa vào tài nguyên
cũng kéo theo đầu tư nhiều hơn vào tài sản vốn vật chất. Do đó, làm giảm tài
nguyên cả về lượng và chất, từ đó có thể làm giảm năng suất của vốn vật chất.

Bên cạnh đó còn gây ra nhiều tác động khác về môi trường, điều kiện sống, và
để lại gánh nặng cho các thế hệ sau. Sự xuống cấp của nguồn vốn tài nguyên
17

mà không được thay thế bằng các loại tài sản vốn khác, như vốn vật chất, vốn
con người thì tăng trưởng khó đạt được mục tiêu xóa đói giảm nghèo một cách
bền vững.
Ngoài ra, việc quá chú trọng sử dụng tài nguyên có thể gây ra những ảnh
hưởng lớn tới sự tăng trưởng trong dài hạn. Tuy nhiên, tác động của sự xuống
cấp vốn tài nguyên tới tăng trưởng kinh tế có thể giảm nếu vốn tài nguyên được
thay thế bằng các loại tài sản vốn khác, nhất là vốn con người. Một nền kinh tế
chú trọng đầu tư vào vốn con người sẽ có cơ hội để phát triển các ngành kinh tế
dựa vào tri thức, qua đó làm giảm sự phụ thuộc của tăng trưởng vào các ngành
khai thác tài nguyên, cũng có nghĩa làm giảm ảnh hưởng của việc xuống cấp tài
nguyên tới tăng trưởng về lâu dài.
(2) Mối quan hệ giữa chất lượng tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng thể
hiện qua mô hình tăng trưởng
Dựa vào thực tế và một số chỉ tiêu phát triển chủ yếu của các nền kinh tế,
có thể nhận thấy rõ những cách tiếp cận khác nhau trong chiến lược tăng
trưởng của các nước. Đối với các nước đang phát triển ở trong giai đoạn đầu
công nghiệp hóa, việc đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng được đặt hàng đầu. Tuy
nhiên, phần lớn các nước này do quá chú trọng đạt được mục tiêu tăng trưởng
nên đã trả giá bằng những tổn thất lớn về môi trường, và những méo mó về mặt
xã hội, đẩy lùi quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mình. Cũng vậy, do
không chú ý tới chất lượng tăng trưởng, nên một số nền kinh tế mặt dù đã đạt
được những thành quả kỳ diệu vẫn bị cuốn vào vòng xoáy của khủng hoảng
kinh tế, phải đối mặt với những hiểm họa môi trường, và hệ thống an sinh xã
hội bị tổn thương. Có thể thấy chất lượng tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào mô
hình tăng trưởng mà các nước đã lựa chọn.
- Mô hình 1 (Mô hình tăng trưởng trì trệ): Tăng trưởng không bền vững,

quy mô của nền kinh tế được mở rộng trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, nhưng
tại những thời kỳ khác, tăng trưởng kinh tế lại thấp và nền kinh tế suy giảm, trì
trệ. Theo mô hình này, nền kinh tế có thể đạt tăng trưởng trong một giai đoạn
ngắn nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần, dẫn đến trì trệ và khó duy trì
tăng trưởng được lâu dài. Mô hình tăng trưởng này thường không bền vững. Lý
do chính là đầu tư quá thấp vào hình thành các loại tài sản và hiệu quả đầu tư
công thấp. Nền kinh tế có thể rơi vào vòng luẩn quẩn do tăng trưởng thấp dẫn
đến thiếu nguồn lực để đầu tư, nhất là vào vốn con người, không tăng phúc lợi
và không thực hiện được mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Mô hình này thường
thấy ở những nước đang phát triển mà trong nhiều năm các chỉ số phát triển
18

không được cải thiện, nhất là tình trạng nghèo đói vẫn dai dẳng và thu nhập đầu
người không được cải thiện.
- Mô hình 2 (Mô hình tăng trưởng bị bóp méo): Tăng trưởng nhanh, mất
cân đối và phải trả giá bằng những tổn thất lớn về tài nguyên, môi trường. Đánh
giá thấp các loại tài sản, các nguồn vốn cho nên chậm trễ trong đầu tư, hoặc
đầu tư không đúng mức cho các loại tài sản vốn, đặc biệt là vốn nhân lực, do đó
không nâng cao hiệu năng của vốn hoặc không sản sinh ra vốn mới. Ở mô hình
này, tăng trưởng có được chủ yếu dựa vào khai thác quá mức tài nguyên, trợ
cấp vốn vật chất một cách rộng rãi bằng nhiều biện pháp như miễn thuế, cho nợ
thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư và trợ cấp tín dụng đầu tư,… Trong khi đó, đầu tư
vào vốn con người và đổi mới công nghệ chậm. So với loại thứ nhất, mô hình
tăng trưởng này có tốt hơn cho người nghèo và cải thiệu phúc lợi xã hội nói
chung.
Đặc điểm nổi bật của mô hình này là đầu tư thiên lệch, quá chú trọng ưu
tiên đầu tư vốn vật chất thông qua các chính sách ưu đãi vốn và tăng đầu tư
công. Với mô hình này, tăng trưởng còn có thể đạt được chừng nào mà Nhà
nước vẫn có có khả năng duy trì các khoản trợ cấp vật chất. Tuy nhiên, trong
dài hạn nền kinh tế phải đối mặt với những méo mó về cơ cấu, hệ quả là tăng

trưởng không bền vững, đặc biệt là đối với các nước nghèo có quy mô ngân
sách nhỏ và quản lý đầu tư không hiệu quả. Do nguồn lực dành cho các ưu đãi
này chiếm một tỷ trọng lớn của ngân sách nên có thể làm giảm nguồn lực để
đầu tư cho các loại tài sản khác. Tác động của các ưu đãi này thường là nhỏ,
mang tính ngắn hạn và không đóng góp nhiều vào tăng năng suất. Trong nhiều
trường hợp, ưu đãi đầu tư vốn vật chất còn làm giảm năng lực cạnh tranh của
ngành và của cả nền kinh tế.
- Mô hình 3 (Mô hình tăng trưởng bền vững): Các loại tài sản được hình
thành và đầu tư không bị bóp méo. Tăng trưởng bền vững nhờ nguồn tích lũy
từ các loại vốn tăng lên theo thời gian một cách cân đối. Chính phủ tập trung
đầu tư nhiều hơn cho các lĩnh vực tạo tác động lan tỏa, tích cực tới cả nền kinh
tế như giáo dục, y tế và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường, Nguồn
vốn của tư nhân cũng không bị giảm sút kể cả vốn vật chất và vốn nhân lực.
Vốn nhân lực được tiếp sức, có giá trị gia tăng cao hơn, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình đổi mới công nghệ và tăng TFP.
Theo mô hình này, con người là một trọng tâm của chính sách đầu tư
nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình phổ biến, tiếp thu và đổi mới công nghệ.
So với hai loại mô hình nêu trên, tăng trưởng theo mô hình này đạt được mục
19

tiêu tăng trưởng phúc lợi và xóa đói giảm nghèo. Tốc độ tăng trưởng không
nhất thiết là quá cao nhưng có thể duy trì trong dài hạn nhờ vào sự đầu tư và
hình thành hài hòa, cân đối không méo mó các loại tài sản vốn. Các nên kinh tế
tiến tới mô hình tăng trưởng này thường có một chính phủ khá trọng sạch và
quản lý hiệu quả.
Đi sâu phân tích mối quan hệ giữa “tăng trưởng” và “chất lượng”,
Francois Peroux
1
, đã cảnh báo rằng cần chú ý đến sự nguy hiểm của tăng
trưởng mà không có chất lượng. Hiểm họa này tồn tại một cách khá rõ rệt khi

các chính phủ coi tăng trưởng kinh tế nhanh là yếu tố quyết định mà bỏ qua
hoặc không chú ý một cách thích đáng đến các vấn đề xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, mô hình tăng trưởng dựa vào các tiêu chí về chất lượng tăng
trưởng đã được phát triển trong những năm vừa qua và ngày càng được nhiều
quốc gia theo đuổi. Đó là mô hình chú trọng cả khía cạnh lượng và chất của
quá trình tăng trưởng.
Về mối quan hệ giữa hai khía cạnh này, có thể thấy rằng chúng kết hợp
với nhau rất chặt chẽ, và việc cùng một lúc đạt được hai mục tiêu này là điều
khả thi. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là cơ sở để các chính phủ đề ra và thực
hiện các chính sách xã hội và môi trường, qua đó góp phần làm thay đổi cơ cấu
xã hội theo hướng mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Điều đó có nghĩa là
tăng trưởng không được thực hiện vì bản thân sự tăng trưởng với mục tiêu lớn
nhất và cuối cùng là lợi nhuận tối đa. Trái lại, tăng trưởng nhanh góp phần
quan trọng nhằm tăng cường các lợi ích xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao
mức sống, phát triển giáo dục, cải thiện chất lượng sống. Đến lượt mình những
yếu tố đó trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng cao hơn nữa. Rõ ràng, đi đôi
với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, thì chất lượng tăng trưởng có vai trò cực
kỳ quan trọng, làm nền tảng cho quá trình phát triển bền vững của mỗi dân tộc.
Với quan điểm như trên về chất lượng tăng trưởng, chúng ta có thể thấy
rằng tăng trưởng bền vững nhờ vào các yếu tố như: xác định đúng giá trị của các
loại vốn vật chất, vốn tài nguyên và vốn con người nhằm có được các chính sách
nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào phục vụ tăng trưởng; chính phủ
đầu tư hợp lý cho khu vực công như giáo dục, y tế và phải có các chính sách
thích đáng để người nghèo có thể tham gia vào quá trình phát triển nhằm xóa bỏ
nghèo đói và thực hiện công bằng xã hội; tăng cường thực hiện các chính sách
bảo về tài nguyên thiên nhiên và môi trường; cuối cùng tăng trưởng phải đi kèm

1
Nhà kinh tế học người Pháp
20


với sự đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới các thể chế kinh tế phù hợp với nền kinh
tế thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là mô hình tăng trưởng khá toàn diện, đề cập tương đối bao quát các
khía cạnh cần thiết của sự phát triển. Trên thực tế việc đạt được tất cả các tiêu
chuẩn về chất lượng tăng trưởng là một vấn đề khó khăn đối với các nước đang
phát triển. Song hiện nay nhiều quốc gia đang phát triển đã thay thế ưu tiên cho
tốc độ tăng trưởng bằng mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng. Đây chính
là cơ sở vững chắc để giúp các nước đạt được các mục tiêu về kinh tế - xã hội
và rút ngắn khoảng cách phát triển, giúp các nước nghèo hơn thoát khỏi nguy
cơ tụt hậu quá xa trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới đang toàn
cầu hóa.
(3) Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng từ góc
độ phân phối các thành tựu tăng trưởng – thực hiện công bằng xã hội và xóa
đói giảm nghèo
Ở đây công bằng không có nghĩa là đem chia đều các thành quả của tăng
trưởng kinh tế - xã hội cho mọi người. Vì nếu vậy không có ai đem hết sức lực,
trí tuệ, vốn vật chất ra để đầu tư, và không ai dám chịu rủi ro để đầu tư phát
triển sản xuất. Công bằng cần được hiểu là sự bình đẳng trước các cơ hội về
việc làm, về đầu tư, bình đẳng trước các cơ hội để nâng cao nguồn vốn nhân
lực và có mức sống cao hơn. Hay nói cách khác, mọi người đều có cơ hội tham
gia vào quá trình tăng trưởng và được hưởng các thành quả do mình đóng góp
tương xứng với năng lực của mình. Nhiều nước, mặc dù GDP tính theo đầu
người cao nhưng mức sống của đa số dân cư vẫn không được cải thiện tương
ứng, phúc lợi do tăng trưởng đem lại rơi vào tay một nhóm nhỏ trong xã hội.
Như vậy, khó có thể nói họ đã đạt được mục tiêu phát triển. Theo đánh giá,
một xã hội càng công bằng thì càng có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Khi tài
sản tập trung trong một nhóm nhỏ những người giàu thì lực lượng xã hội
không thể phát triển được. Tuy nhiên, nếu đem chia đều phúc lợi hoặc đầu tư
quá nhiều cho phúc lợi xã hội thì mục tiêu tăng trưởng nhanh có thể bị đe dọa

và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển.
Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhà kinh tế Simon Kuznetz đã đưa ra
giả thuyết “đường cong hình chữ U ngược” để minh họa mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phân phối thu nhập. Theo giả thuyết này, phân phối thu nhập
có xu hướng tăng thêm khoảng cách giàu nghèo trong thời kỳ đầu tăng trưởng,
nhưng khi tăng trưởng đến một mức độ nào đó, thì phân phối thu nhập có xu
hướng được cải thiện, làm giảm bất bình đẳng. Xu hướng này được cải thiện ở
21

một số nước phát triển nhanh và bền vững, nhưng chưa mang tính phổ biến trên
thế giới. GDP tính theo đầu người ở nhiều nước là như nhau nhưng chênh lệch
về phân phối thu nhập lại khác nhau. Nếu như khoảng cách giữa 20% người
nghèo nhất và 20% người giàu nhất của thế giới là 1-30 trong năm 1960, thì
đến nay tỷ lệ này lên tới mức 1-80. Do vậy có thể thấy rằng công bằng xã hội
thông qua phân phối thu nhập không hoàn toàn do GDP hay mức tăng trưởng
kinh tế quyết định, mà được quyết định phần lớn bằng các chính sách kinh tế -
xã hội của chính phủ.
Đối với các nước đang phát triển, lớp dân nghèo vẫn chiếm đa số, thì các
chính sách nhằm giải quyết tình trạng đói nghèo có vai trò rất quan trọng. Các
chính sách đó liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và
môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên nhân cơ bản
dẫn tới đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. Đó là các chính sách hỗ
trợ về giáo dục, y tế, xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, ưu đãi về vốn đầu tư
và phát huy quyền làm chủ cho người nghèo để giúp họ tự vươn lên thoát khỏi
khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển. Xóa đói giảm nghèo
không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các
đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng
tương đối đồng đều cho phát triển, tăng thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và
bảo đảm sự ổn định của xã hội.
Thông qua các chính sách xóa đói giảm nghèo, chính phủ tạo điều kiện

thuận lợi cho người nghèo – nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong quá trình
phát triển và hội nhập kinh tế thế giới - có khả năng thoát nghèo một cách bền
vững. Ở một mức độ nhất định, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng
kể thu nhập xã hội cho chương trình xóa đói giảm nghèo thì nguồn lực dành
cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài
hạn thì kết quả xóa đói giảm nghèo lại tạo điều kiện cho tăng trưởng nhanh và
bền vững, đóng góp chung vào quá trình phát triển. Vì vậy để đảm bảo cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội tiến triển với tốc độ nhanh và bền vững, các
chính phủ cần đề ra các mô hình phát triển phù hợp nhằm làm giảm khoảng
cách về thu nhập và giúp người nghèo nâng cao mức sống.
Đến lượt mình, phân phối thu nhập công bằng hơn lại được coi là có lợi
cho tăng trưởng trong dài hạn bởi các lý do sau đây:
- Một là, nhiều nghiên cứu gần đây cho rằng người giàu ở các nước đang
phát triển chưa thực sự muốn tiết kiệm để đầu tư. Xu thế dễ nhận thấy là các
nguời giàu muốn tiêu dùng hàng xa xỉ, mua những ngôi nhà đắt tiền hay tích
22

trữ vàng bạc, đồ trang sức,… Loại tiết kiệm và đầu tư đó không đóng góp nhiều
vào tiềm lực sản xuất của quốc gia, thậm chí là một sự lãng phí nguồn lực. Với
hành vi đó, chiến lược phát triển dẫn đến gia tăng nhanh bất bình đẳng về phân
phối thu nhập sẽ tạo cơ hội để duy trì vị thế của nhóm người giàu, đồng thời
gây tổn thất cho cả nền kinh tế. Trong dài hạn, một chiến lược như vậy thưởng
có tác dụng “phản tăng trưởng”.
- Hai là, về phía người nghèo, do thu nhập và mức sống thấp nên tình
trạng sức khỏe và giáo dục kém. Điều này làm giảm cơ hội tham gia hoạt động
kinh tế và năng suất lao động của họ, và vì thế trực tiếp hay gián tiếp ảnh
hưởng đến quá trình tăng trưởng.
- Ba là, thu nhập của người nghèo tăng sẽ kích thích tăng nhu cầu về
hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước. Qua đó kích thích đầu tư, sản xuất và
tạo thêm nhiều việc làm trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho người nghèo

có cơ hội tham gia và hưởng lợi nhiều hơn từ tăng trưởng kinh tế.
- Bốn là, chênh lệch thu nhập lớn và nghèo đói tuyệt đối phổ biến có thể
dẫn đến bất ổn về xã hội. Hầu hết các lập luận cho rằng bất bình đẳng là
nguyên nhân của các xung đột trong xã hội, có thể dẫn đến bất ổn định xã hội
và chính trị và rốt cuộc là có hại cho tăng trưởng kinh tế.
Như vậy có thể thấy, các chính sách tăng trưởng mà không tính đến khía
cạnh phân phối công bằng cũng như không gắn với xóa đói nghèo bền vững sẽ
khó duy trì được tăng trưởng trong dài hạn.
(4) Mối quan hệ giữa chất lượng tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng qua
cách nhìn nhận về môi trường
Trong tíến trình phát triển, các nước đều cố vươn lên để đạt tỷ lệ tăng
trưởng cao, song nhiều nước lại lâm vào tình thế “phản tăng trưởng”. Điều đó
có nghĩa là tốc độ tăng trưởng nhìn bề ngoài thể hiện sự tăng trưởng kinh tế -
xã hội, song nhìn vào chiều sâu và về lâu dài nếu bỏ qua các yếu tố chất lượng
thì lại dẫn đến những hậu quả nặng nề về phương diện xã hội và đặc biệt là môi
trường sinh thái.
Đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia ở trong giai đoạn đầu của quá
trình công nghiệp hóa, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò rất lớn, đóng
góp đáng kể vào tỷ lệ tăng trưởng. Tuy nhiên, nhiều nước đã khai thác quá mức
nguồn vốn thiên nhiên quý báu này, dẫn tới tình trạng hệ sinh thái bị mất cân
đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng, gây ảnh hưởng xấu về mặt môi
trường và kinh tế không chỉ cho hiện tại mà còn cho cả thế hệ mai sau.
23

Hiện nay, ô nhiễm môi trường là một vấn đề rất nghiêm trọng gắn liền
với quá trình tăng trưởng khi mà chất lượng tăng trưởng chưa được chú ý đúng
mức. Theo một nghiên cứu của UNDP, ô nhiễm không khí và hiện tượng hiệu
ứng nhà kính do khí thải hóa chất từ các nhà máy công nghiệp đã lên tới mức
báo động ở nhiều nơi trên thế giới, dẫn đến cái chết của hàng triệu người, trong
đó chủ yếu là người nghèo.

Không thực hiện các biện pháp quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường,
thì hiểm họa về biến đổi khí hậu tất yếu sẽ xảy ra. Những trận lụt, bão lớn và
nước dâng cao ở những vùng đất thấp xảy ra thường xuyên hơn, mức độ tàn
phá khủng khiếp hơn. Biến đổi khí hậu không chỉ gây tổn thất về của cải, sinh
mạng mà còn làm căng thẳng mối quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới và
từng khu vực. Theo ước tính, thay đổi khí hậu đã làm cho kinh tế toàn cầu thiệt
hại hàng trăm tỷ USD mỗi năm, thiệt hại nặng nhất là các nước đang phát triển
vì ở đây môi trường sinh thái đang bị hủy hoại nhanh chóng.
Ngoài những sai lầm như không quan tâm bảo vệ môi trường, yếu kém
trong công tác quản lý các nguồn tài nguyên, rất nhiều yếu tố khác về chính
sách phát triển đã góp phần làm cho môi trường sinh thái bị suy thoái. Quan
điểm sai lầm bị nhiều nhà kinh tế chỉ trích mà nhiều nước đang áp dụng là
“tăng trưởng trước, khắc phục hậu quả sau”. Lý do để nhiều nước đang phát
triển theo đuổi quan điểm này là:
- Một là, các nước công nghiệp trước đây khi tiến hành công nghiệp hóa
rất ít chú ý đến vấn đề suy thoái môi trường ở thời kỳ đầu tăng trưởng.
- Hai là, tăng trưởng là con đường duy nhất để giảm nghèo đói và rút
ngắn khoảng cách phát triển.
- Ba là, mặc dầu biết những hiểm họa môi trường có thể xảy ra, tuy nhiên
các nước này cho rằng có thể cứu vãn được khi nền kinh tế bước vào thời kỳ
hưng thịnh.
Quá trình tăng trưởng trước khắc phục hậu quả môi trường sau dẫn đến
sự bất công. Người nghèo phải gánh chịu hậu quả nặng nề hơn về ô nhiễm môi
trường và các nguồn tài nguyên cạn kiệt. Khí thải và chất thải công nghiệp sẽ
làm cho nguồn nước và không khí bị ô nhiễm. Bất bình đẳng về thu nhập, về
cơ hội tiếp cận tới các dịch vụ giáo dục và chăm sóc sức khỏe, dẫn đến xung
đột xã hội.
Có thể nói, những tổn thất về môi trường, về đa dạng sinh học là không
thể khắc phục. Điều này khiến cho nhiều nhà hoạch định chính sách phát triển
24


đề xuất ý kiến cần phải loại bỏ mô hình phát triển trước và khắc phục hậu quả
môi trường sau. Môi trường gắn liền với phúc lợi xã hội, không những hệ thống
phúc lợi hiện tại bị tổn hại mà thiệt hại còn có thể kéo dài tới những thế hệ sau.
Kinh nghiệm của nhiều nước có thu nhập cao chỉ ra rằng những chi phí chữa
bệnh do ô nhiễm môi trường gây ra còn cao hơn cả chi phí phòng bệnh. Điều
đó chứng tỏ mô hình tăng trưởng trước khắc phục hậu quả môi trường sau là
khó chấp nhận.
Việc bảo vệ môi trường sinh thái và sức khởe của mọi người trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu hết sức cấp bách đối với tất cả
các nước. Nhận thức được điều này, nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã
cam kết thực hiện những chính sách bảo vệ môi trướng song song với việc triển
khai các chính sách cải cách kinh tế nhằm thúc đẩy hơn nữa chất lượng của quá
trình tăng trưởng kinh tế - xã hội. Toàn thế giới và mọi quốc gia đã quan tâm
nhiều hơn đến vấn đề môi trường. Nhận thức rõ hơn vai trò của môi trường
trong quá trình phát triển và những hậu quả từ các hoạt động của con người đối
với môi trường, đã có nhiều nỗ lực nhằm làm giảm mức độ ô nhiễm không khí,
bảo vệ bầu khí quyển. Tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng gió,
mặt trời trong tổng sản lượng về năng lượng ngày càng tăng. Các công nghệ
sạch và thân thiện với môi trường đang được nghiên cứu và ứng dụng ngày
càng nhiều. Bên cạnh đó, nhiều nước đã chú trọng nhiều hơn đến việc bảo tồn
đa dạng sinh học, kiểm soát sự gia tăng dân số, cải thiện điều kiện vệ sinh môi
trường.
(5) Mối quan hệ giữa chất lượng tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng qua
việc thực hiện mục tiêu phát triển con người
Tăng trưởng có thể mang lại cho người dân cơ hội tiếp cận các hệ thống
giáo dục, y tế tốt, và tạo điều kiện cho họ tự vươn lên làm giàu,… Thực tiễn
cho thấy giáo dục có ảnh hưởng lớn mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội
và tư duy về vai trò của giáo dục trong việc thúc đẩy kinh tế đã có sự thay đổi
đáng kể theo hướng ngày càng được đề cao. Trong quá trình tăng trưởng, quốc

gia nào thực hiện thành công các chính sách giáo dục, thì con đường đến thành
công được rút ngắn rất nhiều. Thực tiễn cũng cho thấy ở những nước mà giáo
dục kém phát triển thì những người nghèo phải gánh chịu những thiệt thòi lớn.
Họ không có điều kiện tiếp cận các cơ hội giáo dục, hoặc chỉ có thể được học
trong những trường học có chất lượng thấp. Vì vậy, một vấn đề nữa được đặt ra
là phải có được một nền giáo dục công bằng thông qua các chính sách đầu tư
25

hợp lý, giúp cho mọi người dân, cả giàu và nghèo, đều có cơ hội đón nhận
những kiến thức khoa học tiên tiến nhất.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu quan trọng đối với hầu hết
các nước. Những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này,
nhưng hầu hết chỉ tập trung phân tích và đánh giá các động lực của tăng trưởng.
Do không chú ý đầy đủ tới chất lượng tăng trưởng, nên một số nền kinh tế mặc
dầu đã đạt được các thành quả kỳ diệu vẫn bị cuốn vào vòng xoáy của các cuộc
khủng hoảng kinh tế. Một số thành quả kinh tế xã hội đã không được duy trì,
hiểm họa môi trường, mất cân đối về mức độ phát triển giữa các vùng, hệ thống
an sinh xã hội bị tổn thương đang đe dọa các mục tiêu phát triển bền vững của
các quốc gia. Như vậy, có thể nói tăng trưởng nhanh và bền vững phải đảm bảo
được chất lượng tăng trưởng kinh tế, biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính
sau đây:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được những
biến động từ bên ngoài;
- Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể hiện ở sự đóng góp của
TFP cao và không ngừng gia tăng;
- Tăng trưởng phải bảo đảm nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế;
- Tăng trưởng đi kèm với phát triển môi trường bền vững;
- Tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới. Đến lượt mình,
dân chủ được đổi mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn;

- Tăng trưởng phải đạt được các mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và
giảm được nghèo đói.
Nhiều học giả cho rằng, quan niệm tăng trưởng cao là một chỉ số quan
trọng hàng đầu của phát triển đã không còn phù hợp và chính xác nữa. Tăng
trưởng số lượng phải đi cùng với chất lượng mới là mục tiêu quan trọng trong
bối cảnh hiện nay. Như vậy có thể rút ra một số kết luận đáng chú ý sau đây:
- Một là, tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn vật chất thì không thể bền
vững. Hầu hết các nước đang phát triển đã áp dụng mô hình 1 và 2, đầu tư cho
vốn nhân lực và vốn tài nguyên ở mức thấp, từ đó dẫn đến tăng trưởng chưa
cao và thiếu ổn định. Nếu như các nước đang phát triển chỉ đầu tư vào khu vực
kinh tế công cộng với tỷ lệ thấp, thì chỉ có tác dụng đối với tăng trưởng ở mức
độ vừa phải hoặc trong thời gian ngắn.

×