Trần Ngọc Khánh
VĂN HÓA ðÔ THỊ
Giản Yếu
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 7 -
PH
ẦN THỨ NHỨT
LÝ THUYẾT VĂN HÓA ðÔ THỊ
CHƯƠNG 1
Cơ sở tiếp cận văn hóa ñô thị
KHÁI NIỆM VĂN HÓA
Con người, về cơ bản, là một loài vật có văn hóa. ðể có văn hóa, con người ñã trải
qua quá trình tiến hóa làm người. Quá trình này không ngắn như một ñời người, vài ba
thế hệ hoặc dăm bảy nghìn năm mà bắt ñầu cách ngày nay ít nhất 15 triệu năm. Trong
quãng thời gian này, con người vừa thích ứng với môi trường tự nhiên, tạo nên các biến
ñổi di truyền ñể sinh tồn, vừa thích ứng với môi trường văn hóa bằng nhiều phương
thức, trải qua nhiều thời kỳ biến ñổi khác nhau ñể ngày càng phát triển.
Trong quá trình tiến hóa ñầu tiên từ các loài vượn người thành người Homo sapiens
sapiens, các bản năng loài vật dần bị thoái hóa, thay thế bằng văn hóa. So với quá trình
thích ứng tự nhiên do di truyền, thích ứng văn hóa theo các chức năng của loài người
diễn ra nhanh hơn. Văn hóa giúp con người thích ứng với môi trường tự nhiên, thích
ứng theo các nhu cầu của chính mình, ñồng thời còn làm cho con người có khả năng
biến ñổi tự nhiên, biến ñổi các nhu cầu của ñời sống kinh tế, văn hóa và xã hội.
Khái niệm văn hóa trước hết nhằm giải thích các ứng xử tự nhiên của con người.
ðối với con người, không có “tự nhiên” thuần túy. Tự nhiên ñược biểu hiện bằng văn
hóa. Khi nói: “Bạn cứ tự nhiên”, thì trên thực tế có nghĩa là “Bạn cứ ứng xử theo cách
của bạn”. Các ứng xử lúc ấy không theo bản năng sinh học mà là ứng xử văn hóa.
Văn hóa làm biến ñổi các xã hội loài người. Các nhu cầu theo chức năng sinh tồn
của cơ thể như ăn, ngủ, ngồi, ñi lại, tiêu tiểu, tính dục, v.v. ở mỗi xã hội khác nhau là do
văn hóa
1
. Ngay như khác biệt sinh học về giới tính cũng không phải là tự nhiên thuần
túy. ðó là sự phân công về vai trò và nhiệm vụ theo giới tính của xã hội loài người.
Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hóa ñược xem xét theo quá trình tiến hóa lịch
sử, trực tiếp gắn với quá trình hình thành ý nghĩa văn hóa trong xã hội hiện ñại. Do ñó,
vấn ñề không phải là phân tích văn hóa về mặt ngữ nghĩa, ñịnh nghĩa văn hóa là gì, mà
tìm kiếm các mối liên hệ giữa lịch sử “văn hóa” và lịch sử tư tưởng [Denys Cuche,
2004].
Các ñịnh nghĩa văn hóa khác nhau về ngữ nghĩa thường ẩn chứa bất ñồng về
phương diện xã hội và dân tộc. Kể từ khi xuất hiện vào thế kỷ XVIII, khái niệm văn hóa
theo nghĩa rộng ñược nhiều người chấp nhận. ðó là sự ña dạng về lối sống và cách thức
suy nghĩ của con người.
VĂN HÓA LÀ GÌ?
“Văn hóa” là một từ cổ trong tiếng Pháp, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIII ñể
chỉ một thửa ñất ñược trồng trọt [Bénéton, 1975]. Từ nguyên cultura theo tiếng Latinh
có nghĩa là chăm sóc ñồng ruộng hoặc súc vật. Từ văn hóa ñược khai sinh trong tiếng
Pháp, rồi truyền bá sang tiếng Anh, tiếng ðức dưới hình thức vay mượn ngôn ngữ.
ðầu thế kỷ XVI, văn hóa không chỉ có ý nghĩa trạng thái, thuộc vật chất (thứ ñược
trồng), mà trở thành hoạt ñộng, thuộc tinh thần (biết trồng trọt ñất ñai). Và cho ñến giữa
thế kỷ XVI, văn hóa mới có nghĩa bóng, chỉ ra khả năng làm cho nó phát triển, nhưng
ñến cuối thế kỷ XVII vẫn chưa ñược sử dụng phổ biến.
1
Marcel Mauss, Techniques du corps, 1936.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 8 -
ðầu thế kỷ XVIII, văn hóa ñược ñưa vào Từ ñiển Hàn lâm Pháp [1718], vừa có
nghĩa hoán dụ (từ văn hóa trạng thái ñến văn hóa hoạt ñộng), vừa có nghĩa ẩn dụ (từ
trồng trọt ñất ñai ñến chăm sóc tinh thần). Tuy nhiên, văn hóa lúc bấy giờ còn ñi kèm
với bổ ngữ: “văn hóa” nghệ thuật, văn chương, khoa học ñể xác ñịnh loại tri thức
ñược bồi ñắp. Trong Từ ñiển bách khoa, văn hóa chủ yếu vẫn ñược coi là “trồng trọt ñất
ñai”; còn nghĩa bóng nằm trong các chủ ñề khác như: giáo dục, tinh thần, văn chương,
triết học, khoa học.
Dần dần, “văn hóa” thoát khỏi bổ ngữ, ñược sử dụng ñộc lập ñể chỉ sự “hình thành”,
sự “giáo dục” về tinh thần. Lúc ấy ñã diễn ra hiện tượng ngược lại, văn hóa chuyển biến
từ hoạt ñộng (giáo huấn) sang trạng thái (tinh thần ñược dạy dỗ vun ñắp; cá nhân ở tình
trạng “có văn hóa”). Văn hóa phát triển thành các khái niệm. Các nhà tư tưởng thế kỷ
Ánh sáng quan niệm văn hóa là ñặc trưng riêng có của loài người.
Theo Joël Bonnemaison [2000], văn hóa là toàn thể tri thức ñược tích lũy và lưu
truyền trong lịch sử nhân loại. Văn hóa tồn tại theo bốn dạng thức :
– Văn hóa là cái còn lại (résidu). Năm 1981, tạp chí Không gian ñịa lý tổ chức cuộc
hội thảo về ñịa văn hóa. Các nhà ñịa lý ở các trường ñại học và viện nghiên cứu (CNRS,
ORSTOM) tiếp cận văn hóa với quan niệm: văn hóa là cái còn lại không giải thích ñược
khi ta ñã giải thích hết. Cái còn lại ấy không ño ñếm ñược, không sờ mó ñược, dành cho
con người tự do sáng tạo.
– Văn hóa là cái thành tựu. Từ văn hóa trong ngôn ngữ Ấn-Âu (kwel), ban ñầu có
nghĩa là nuôi nấng, chăm sóc, thương mến
2
. Sau ñó, người Hy Lạp sử dụng trong nông
nghiệp, với nghĩa là làm cho cây trồng chín muồi. ðó là thành quả hoạt ñộng, không
phải do ngẫu nhiên hoặc “tự nhiên”, tức là không phải do bởi tự nó. ðối với người Hy
Lạp, văn hóa là cái thành tựu.
Do các cuộc ñại xâm lăng của người Barbares (nghĩa là “man di”, theo cách gọi của
người phương Tây), từ văn hóa biến mất khỏi ngôn ngữ Ấn-Âu. ðến thế kỷ XII và XIII,
thời văn minh thượng Trung ñại ở châu Âu, văn hóa xuất hiện trở lại trong tiếng Pháp,
với ý nghĩa thiên về tôn giáo là sự thờ cúng, tôn thờ (culte), ñể con người phát triển theo
ñường hướng thánh thiện.
Cho ñến thời Phục hưng, nhất là giai ñoạn Ánh sáng thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới
có nghĩa rộng như hiện nay. Văn hóa bao gồm tinh thần, tri thức và sự tinh luyện. Văn
hóa ñồng nghĩa với tiến bộ, với các giá trị phổ biến; văn hóa trái nghĩa với tự nhiên,
man di và dị ñoan. Tóm lại, văn hóa biến ñổi thành văn minh, là thành tựu của con
người về tinh thần, là sự sáng tạo không do ngẫu nhiên – giống như ý nghĩa ban ñầu ở
Hy Lạp và hầu như không còn mang ý nghĩa tôn giáo.
Như vậy, từ văn hóa có phả hệ quan trọng về ý nghĩa, vì hàm chứa song nghĩa và
theo lộ trình ñi lên, từ trật tự cấp thấp tự nhiên ñến cấp cao tinh thần. Văn hóa dựa vào
tính chất nhị phân (hai mặt) – vật chất và tinh thần – của con người và hoạt ñộng của
con người. Văn hóa vừa là hoạt ñộng của con người ñể xây dựng chính nó, vừa thể hiện
hoạt ñộng của con người ñối với thế giới xung quanh ở bên ngoài, ñể xây dựng môi
trường sống nhân văn.
Sự phân biệt tương ñối các ý nghĩa bẩm sinh/tri thức hoặc tính hai mặt tự nhiên/văn
hóa làm cho văn hóa mang tính nhân tạo, vì con người không thể có mặt này mà thiếu
mặt kia.
– Văn hóa là cái sở ñắc và ñược lưu truyền. ðó là toàn thể di sản mà con người tiếp
nhận từ các thế hệ trước, gồm các biểu hiện, kiến thức, giá trị, tư tưởng và tính biểu
2
Dân tộc Ấn-Âu vốn là các kỵ binh, chiến binh, sinh sống bằng nghề chăn nuôi ở vùng thảo nguyên. Cho
nên, văn hóa ñược họ vận dụng trước hết vào việc chăm nom loài vật, ñặc biệt là nuôi ngựa.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 9 -
c
ảm. Văn hóa còn là phát minh của con người, trong khoảng thời gian và không gian
nhất ñịnh. Mỗi thế hệ, mỗi nhóm người lại phát minh và ñổi mới văn hóa mà họ tiếp
nhận. Không có truyền thống ñơn thuần, mà truyền thống ñược diễn ñạt lại và làm
phong phú thêm. Văn hóa trở thành truyền thống sống ñộng, pha trộn các ñặc trưng
ñược lưu truyền và thụ ñắc qua các biến ñộng của thực tiễn. Truyền thống ñược tái tạo
này cấu thành nền tảng bản sắc cộng ñồng, ñịa phương, bộ tộc, vùng miền, quốc gia và
các thực thể xã hội khác. Bản sắc không ngừng chuyển ñộng, làm cho văn hóa trở nên
mạnh mẽ hoặc suy yếu. Văn hóa sống ñược thì cũng có thể chết ñược. Cho nên, bản sắc
cũng có thể biến chuyển, theo các chiều hướng khác nhau.
– Văn hóa là sự say mê quá khứ qua phong tục. Phong hóa vừa bén rễ với truyền
thống, vừa luôn chuyển ñộng và biến ñổi. Phong hóa không là một hệ thống bất ñộng,
mà trái lại là di sản, cần ñổi mới và hòa hợp. Nietzsche nói: “Một dân tộc không có ký
ức là dân tộc không có tương lai” [Bonnemaison, 2000].
ðỊNH NGHĨA MÁC-XÍT VỀ VĂN HÓA
Văn hóa về mặt tư tưởng là kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào cấu tạo vật chất và
kinh tế của xã hội. Văn hóa dùng ñể tái sản xuất, làm cho tinh thần quen với các giá trị
quy ước thuộc về văn hóa, ñể cấu trúc ấy tồn tại lâu dài. Tóm lại, văn hóa tạo nên tinh
thần, phụ thuộc vào ý thức hệ thống trị. Tuy nhiên, theo quan niệm Trung Quốc trong
“cách mạng văn hóa”, tác ñộng lên cấu trúc thượng tầng có thể tác ñộng lên cấu tạo vật
chất và kinh tế.
Văn hóa và văn minh thuộc về hai truyền thống lịch sử và ñịa lý khác nhau. ðối với
người Pháp và người Anh, văn hóa biểu hiện toàn thể các truyền thống tinh thần
(morales), còn các truyền thống tri thức (intellectuelles) tạo ra văn minh. Văn minh là
phương diện cao của nghệ thuật và văn chương. Trong thế kỷ Ánh sáng của Rousseau
và Diderot, văn minh là khái niệm gộp: văn minh thâu tóm văn hóa; văn minh là cái
thành tựu từ sự chín muồi lâu dài của văn hóa; văn minh thuộc về tư tưởng tiến bộ, mới
mẻ hơn, hiện ñại hơn.
Văn minh có tính phổ quát và tiến bộ. Các nền văn minh có xu hướng cho mình
ñược quyền nắm giữ tính phổ quát và chân lý, coi ñó là mô thức biểu hiện mà các nền
văn minh khác phải theo. Người Pháp coi họ là hình thái phổ quát của Chân (Vrai), phổ
cập lý trí; còn người Mỹ coi họ là hình thái phổ quát của Thiện (Bien)
[Bonnemaison,
2000].
Ngược lại, ñối với người ðức, văn hóa (kultur) là biểu hiện mang tính ñịa phương,
không có tính phổ quát. Văn hóa thuộc về cái ñặc thù, mang tính chủ quan của các dân
tộc, làm cho họ trở nên khác biệt. Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc. Nước Ý và nước
ðức là các nước văn hóa hơn là văn minh. Nếu văn minh là tập hợp thì văn hóa là khác
biệt. Chính vì tôn trọng tính khác biệt nên mới có thể ñạt ñến tầm phổ quát.
Oswald SPENGLER (1880–1936), nhà triết học và sử học người ðức, quan niệm
văn hóa gồm tâm hồn, ñời sống, tính sáng tạo; ñối lập với văn minh gồm tri thức, lý lẽ,
óc phân tích. Văn minh là số phận không thể tránh khỏi của mọi nền văn hóa. Văn hóa
mang hình ảnh cái cây: thời kỳ ñỉnh cao là thời kỳ ñâm chồi nẩy lộc và còn non trẻ,
nhựa cây phát xuất và ñổi mới từ bên trong; văn minh biểu hiện thời kỳ chín muồi của
cây: tiến bộ và kỹ thuật chiếm ưu thế hơn sáng tạo và tinh thần.
QUAN NIỆM VĂN MINH
ðến thế kỷ XVIII, từ văn hóa gần giống như từ văn minh, cả về ngữ nghĩa và khái
niệm. “Văn hóa” và “văn minh” thường ñược dùng ở số ít. ðó là cái riêng có của Con
người (viết hoa), không phân biệt dân tộc, giai cấp. Tuy nhiên, khi ñứng cạnh nhau,
“v
ăn hóa” thiên về các tiến bộ cá thể; còn “văn minh” thuộc về các tiến bộ tập thể.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 10 -
T
ừ văn minh mới xuất hiện ở thế kỷ XVIII, lúc ñầu ñể chỉ sự thuần khiết của phong
tục, về sau mới có nghĩa là quá trình ñưa nhân loại thoát khỏi tình trạng vô minh về kiến
thức và vô lý về trí tuệ. Văn minh lúc ấy ñược quan niệm là quá trình cải tiến các thiết
chế, pháp luật, giáo dục; là cuộc vận ñộng chưa hoàn thành, có thể và cần phải mở rộng
ra khai hóa mọi dân tộc của nhân loại.
Kể từ ấy, con người ñược ñặt ở vị trí trung tâm của tư tưởng. Con người là trung tâm
của vũ trụ. Denis Diderot [1775] là người ñầu tiên nghĩ ñến việc hình thành một “ngành
khoa học nhân văn”; còn Alexandre de Chavannes [1787] là người ñầu tiên ñưa ra từ
“ethnologie”, hồi ấy có nghĩa là ngành học nghiên cứu “lịch sử văn minh tiến bộ của các
dân tộc”.
Nếu ý tưởng văn hóa từ thời Hy Lạp ñược truyền lại bằng tiếng Latinh (cultura), thì
văn minh (civilisation) có nguồn gốc từ tiếng Pháp, xuất hiện từ thế kỷ XVIII, với ý
nghĩa trái với dã man. Châu Âu thế kỷ XVIII cần một khái niệm ñể ñịnh nghĩa thế giới
ñang chuyển ñộng, ñể ñịnh vị một nền văn hóa ñược coi là tiến bộ và hiện ñại hơn, ñối
lập với dã man.
Văn minh xuất xứ từ civitas, thành thị, có gốc tiếng Latinh là civis, chỉ người ñồng
hương, có nghĩa là “một tập thể có ý thức và trách nhiệm”, thuộc về một xã hội mang
tính dân sự. Từ nguyên tính dân sự (civilité) có nghĩa là nghệ thuật, cách thức sống với
nhau ñể có văn minh (civilisé).
Từ văn minh cũng có hai nghĩa, tùy theo ñược sử dụng ở số ít hay số nhiều. Văn
minh ở số ít là nền văn minh phổ quát của cái tốt ñẹp và tiến bộ, gắn với thành thị, với
sự phát triển kỹ thuật và tri thức, với sự xét ñoán về giá trị, với sự ngự trị của lý lẽ. Văn
minh là văn hóa ñược phổ quát và biến ñổi theo chiều hướng tiến bộ. Văn minh ở số
nhiều rất gần gũi với từ văn hóa, chính là các nền văn hóa lớn.
Theo ñịnh nghĩa từ ñiển, văn minh là “Toàn thể các tính chất tôn giáo, ñạo ñức, văn
hóa, xã hội và vật chất thuộc về ñặc trưng của một xứ sở hoặc một xã hội”. Tuy nhiên, ở
Pháp văn hóa mang ý nghĩa hạn chế hơn văn minh: văn hóa giới hạn ở sự nhận biết về
tri thức, ñào tạo về kiến thức. Édouard HERRIOT (1872–1957): “Văn hóa là cái còn lại
khi ta ñã quên hết”. Văn hóa ñược coi là toàn thể các phương diện tri thức của một nền
văn minh, tương ứng với kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa mác-xít.
Ý NGHĨA VĂN HÓA VĂN MINH TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Văn minh là một tập hợp lớn về xã hội – chính trị – văn hóa và kinh tế; văn hóa là
các giá trị chung ñược chia sẻ bởi số ñông, biểu hiện sự liên kết phần tinh túy nhất của
tập hợp, là ngọn nguồn của văn minh mà không mang tính toàn bộ (totalité).
Trong khoa học xã hội, ñặc biệt là nhân học, sử học và ñịa lý, từ văn hóa ñược hiểu
theo nghĩa rộng hơn. Có các nền văn hóa và có các nền văn minh. Quan niệm này kết
hợp hai tầng: các giá trị tinh thần và các giá trị vật chất. ðối với nhà nhân học hoặc ñịa
văn hóa – tức là các “nhà văn hóa”, không có văn hóa hoặc văn minh cao cấp, mà ña
phần các nền văn hóa và văn minh làm cho nhân loại trở nên thịnh vượng.
Có khuynh hướng xem xét văn hóa và văn minh không do khác biệt về bản chất mà
khác nhau về phạm vi. Mỗi nền văn minh ñều chứa ñựng một số lượng không xác ñịnh
ñược các nền văn hóa và các hệ thống văn hóa. Văn minh có ý nghĩa và phạm vi không
gian rộng hơn so với văn hóa. Thời gian dài, không gian rộng là hai phạm vi ñặc trưng
của văn minh; khác với văn hóa vốn thuộc về từng nhóm người, trong phạm vi ñời sống
hàng ngày.
Văn minh thuộc về mức ñộ xã hội lớn hơn, thuộc phạm vi siêu văn hóa
(métaculturelle), dùng ñể mô tả một nền văn hóa khác; ngược lại văn hóa ñược hiểu ở
m
ức ñộ nhỏ hơn, của các nền văn hóa tộc người, quốc gia hoặc vùng miền
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 11 -
[Bonnemaison, 2000]. Tóm l
ại, văn hóa cần ñối thoại, còn văn minh cần ñấu tranh lẫn
nhau. ðó là “cú sốc của các nền văn minh”, vấn ñề cơ bản của thế kỷ XX.
CÁC QUAN NIỆM VĂN HÓA KHÁC NHAU TRÊN THẾ GIỚI
ðỨC – ðỐI LẬP VĂN HÓA VỚI VĂN MINH
Văn hóa (kultur) theo nghĩa bóng mới xuất hiện từ thế kỷ XVIII ở ðức. Giới thượng
lưu ðức, do chịu ảnh hưởng tư tưởng Ánh sáng từ nước Anh, ñã vay mượn từ văn hóa
trong ngôn ngữ Pháp ñể diễn ñạt.
Từ nửa sau thế kỷ XVIII, giới trí thức thượng lưu ðức sử dụng các giá trị “tinh
thần” của văn hóa, bao gồm khoa học, nghệ thuật, triết học và tôn giáo, ñể ñối lập lại
các giá trị “phong nhã” của giới quý tộc ðức, bị cô lập với các tầng lớp trung lưu trong
xã hội, vì bắt chước theo các kiểu cách ñược coi là “văn minh” của triều ñình Pháp.
Theo ñó, bất cứ cái gì có tính xác thực, góp phần làm giàu tri thức và tinh thần ñều là
văn hóa; ngược lại, cái gì mang vẻ hào nhoáng, hời hợt, sang trọng bề ngoài thì ñược
coi là văn minh.
Văn hóa ñối lập với văn minh, giống như sâu sắc phản nghĩa với nông cạn. Có thể
nói rằng, chính ý thức dân tộc ðức trước các thế lực phương Tây ñã tạo nên sự ñối lập
giữa văn hóa và văn minh, vì trong khi Anh và Pháp ñã hình thành nhà nước sau cách
mạng Pháp thì ðức vẫn chưa thống nhất về mặt chính trị.
Johann Gottfried HERDER (1744–1803), nhà triết học người ðức, trong công trình
Một triết học khác của lịch sử [1774], là người ñầu tiên sử dụng từ “văn hóa” một cách
có hệ thống. Herder chống lại thuyết văn hóa phổ quát và ñồng nhất của triết học Ánh
sáng Pháp. Ông giải thích các nền văn hóa theo số nhiều, trên cơ sở phân tích tính ña
dạng của ngôn ngữ. Ông ñược coi là người mở ñường cho quan niệm văn hóa mang tính
tương ñối.
Kể từ thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc ðức, khái niệm kultur có
khuynh hướng vạch ra giới hạn, gia cố các khác biệt dân tộc và nhằm ñịnh nghĩa “tính
cách ðức”. ðó không chỉ là tính ñộc ñáo, tính riêng biệt tuyệt ñối, mà gồm cả tính ưu
việt của văn hóa ðức.
Văn hóa theo quan niệm ở ðức là toàn thể các thành quả về nghệ thuật, tri thức và
ñạo ñức cấu thành di sản của một dân tộc, làm nền tảng cho sự thống nhất. ðó là các
thành quả tinh thần, không lẫn lộn với các thành tựu kỹ thuật gắn với tiến bộ công
nghiệp, xuất phát từ thuyết duy lý vô hồn. Kể từ ñó, văn minh ñược coi là tiến bộ vật
chất, gắn với phát triển kinh tế và kỹ thuật.
PHÁP – VĂN HÓA CỦA CÁC NHÀ KHAI SÁNG DÂN TỘC HỌC
Ở Pháp, quan niệm văn hóa theo chiều hướng rất khác biệt. ðó là toàn thể các tính
cách riêng của một cộng ñồng, thường có ý nghĩa rộng và chung nhất. Văn hóa không
hề ñối lập với văn minh, trong khi “văn minh” ñược sử dụng phổ biến thay thế cho văn
hóa
3
.
ðến ñầu thế kỷ XX, văn hóa vẫn theo quan niệm truyền thống của các nhà triết học
Ánh sáng về tính phổ quát, trừu tượng. Văn hóa mang ý nghĩa chung là văn hóa nhân
loại. “Trước khi có văn hóa Pháp, văn hóa ðức, văn hóa Ý, ñã có văn hóa loài người”
4
.
Văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, là tri thức dân tộc. Văn hóa không chỉ phát triển tri
thức cá nhân, mà trở nên phong phú hơn nhờ tri thức tập thể. Các ñặc thù văn hóa bị thu
hẹp; quan niệm thống nhất thắng thế ý thức ña dạng.
3
Công trình Primitive Culture của Tylor ñược dịch sang tiếng Pháp là “Văn minh nguyên thủy”. Và cho
ñến năm 1950, tác phẩm kinh ñiển Patterns of Culture của Ruth Benedict vẫn còn dịch sang tiếng Pháp
tựa ñề là Échantillons de Civilisations.
4
Dẫn theo Ernest Renan, tại hội nghị “Qu’est-ce qu’une nation?” năm 1882 tại Sorbonne.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 12 -
Các nhà khai sáng dân t
ộc học ở Pháp coi văn hóa mang nội dung miêu tả thuần túy.
Họ quan niệm, vấn ñề không phải văn hóa là gì, mà cần miêu tả nó ñã xuất hiện thế nào
trong các xã hội loài người.
ðối với vấn ñề thống nhất trong ña dạng, giữa tính ñặc thù của loài người với sự ña
dạng của các dân tộc và của các phong tục, ngành dân tộc học Pháp chia thành hai
khuynh hướng: một, ưu tiên thống nhất và thu nhỏ ña dạng, bằng cách coi ña dạng là
“tạm thời”, theo một sơ ñồ tiến hóa; hai, ngược lại, coi ña dạng là quan trọng, song về
cơ bản không mâu thuẫn với tính thống nhất của nhân loại.
Như vậy, từ thế kỷ XVIII ñến thế kỷ XX, sự ñối lập giữa tính ñặc thù ở ðức và tính
phổ quát ở Pháp là hai quan niệm khác biệt ñiển hình về văn hóa. ðó cũng là cơ sở của
hai cách ñịnh nghĩa khái niệm văn hóa trong khoa học xã hội hiện nay.
MỸ – QUAN NIỆM CỦA CÁC NHÀ NHÂN HỌC VĂN HÓA
Ngành nhân học văn hóa Mỹ chia thành ba dòng chính: lịch sử văn hóa của Boas;
quan hệ giữa văn hóa (tập thể) và nhân cách (cá thể); quan niệm văn hóa là hệ thống
truyền thông giữa các cá thể. Các công trình nhân học văn hóa ở Mỹ bị nhiều chỉ trích,
song qua ñó cho thấy khoa học văn hóa phát triển mạnh, góp phần bổ sung, hoàn chỉnh
các quan niệm văn hóa trước ñó.
Các nhà nhân học văn hóa Mỹ không quan niệm văn hóa là ổn ñịnh, ở trạng thái
tĩnh, mà cho rằng văn hóa tiến hóa thông qua các biến ñổi, tương tác khi thu nhận văn
hóa của các cá thể. Tranh luận xảy ra nhiều nhất về cách tiếp cận tương ñối các văn hóa,
chú trọng tính số nhiều của các nền văn hóa hơn là tính ñơn nhất của văn hóa.
Theo Boas, ban ñầu thuyết tương ñối là phản ứng về phương pháp luận chống lại
thuyết tiến hóa. Tuyệt ñối thì không thể so sánh các nền văn hóa khác nhau, mà chỉ có
thể so sánh sau khi ñã nghiên cứu riêng, thấu ñáo từng nền văn hóa.
Thuyết bản chất hoặc thực thể luận của Kroeber [1917] quan niệm văn hóa là một
thực thể tự nó, thuộc lĩnh vực “cơ chế thượng tầng”, có các quy luật riêng, tồn tại ñộc
lập bên ngoài sự kiểm soát của các cá thể.
Các nhà nhân học Mỹ thuộc trường phái “văn hóa và nhân cách” quan niệm văn hóa
là trừu tượng. Chính các cá thể tạo nên văn hóa, chuyển giao và biến ñổi văn hóa. Người
ta không thể quan sát văn hóa trên thực ñịa, vì ñó chỉ là các ứng xử cá thể. Và sau cùng,
họ quan niệm chính tầm quan trọng của giáo dục ñã làm nên sự khác biệt văn hóa.
CÁC HỌC THUYẾT VÀ TRƯỜNG PHÁI VĂN HÓA
TYLOR VÀ HỌC THUYẾT PHỔ QUÁT VĂN HÓA
Ngài Edward Burnett TYLOR (1832–1917), nhà sáng lập nhân học xã hội Anh, là
người ñầu tiên ñưa ra ñịnh nghĩa theo quan niệm dân tộc học về văn hóa: Văn hóa hoặc
văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất của dân tộc học, là cái toàn thể phức hợp bao gồm
nhận thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, ñạo ñức, pháp luật, phong tục và các năng lực hoặc
tập tục khác do con người thụ ñắc với tư cách thành viên xã hội [Văn hóa nguyên thủy,
Primitive Culture, 1871, tr.1].
ðịnh nghĩa Tylor miêu tả thuần túy và khách quan, không mang tính chuẩn tắc
5
.
Theo Tylor, văn hóa biểu hiện toàn thể ñời sống xã hội của con người; các ñặc trưng
văn hóa thuộc về phạm vi tập thể; văn hóa ñược thụ ñắc, không do di truyền sinh học,
trong khi nguồn gốc và tính chất của văn hóa phần lớn do vô thức.
ðịnh nghĩa Tylor cũng không làm rõ khái niệm văn minh ñối với xã hội nguyên
thủy, vì từ nguyên văn minh thuộc cấu trúc thành thị và trong khoa học lịch sử chủ yếu
chỉ các thành tựu vật chất, trong khi các xã hội nguyên thủy còn ít phát triển. Thực ra,
5
Khác với các ngành khoa học ñược coi là ñịnh ra và xác ñịnh các chuẩn tắc gồm: mỹ học, lôgic học, ñạo
ñức học.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 13 -
gi
ữa xã hội nguyên thủy và văn minh không khác biệt về bản chất, mà khác nhau do cấp
ñộ phát triển về văn hóa.
Tylor ñịnh nghĩa văn hóa về khái niệm, song không phải là người ñầu tiên sử dụng
từ này trong dân tộc học. Tylor chịu ảnh hưởng trực tiếp các nhà dân tộc học ðức, ñặc
biệt là Gustave KLEMM [1843], người sử dụng từ văn hóa theo nghĩa khách quan ñể
tham chiếu văn hóa vật chất
6
.
BOAS VÀ HỌC THUYẾT ðẶC THÙ VĂN HÓA
Nếu Tylor là người ñầu tiên ñưa ra quan niệm khoa học về văn hóa, thì Franz BOAS
(1858–1942) là nhà nhân học ñầu tiên tiến hành ñiều tra thực ñịa bằng quan sát trực tiếp
và lâu dài về văn hóa nguyên thủy. Sau chuyến ñi khảo sát người Esquimaux vùng
Baffin năm 1883–1884, ông nhận thấy tổ chức xã hội do văn hóa quyết ñịnh hơn là do
môi trường tự nhiên.
Theo Boas, khác biệt cơ bản giữa các nhóm là do mô thức văn hóa, không phải do
chủng tộc; khái niệm chủng tộc không có liên hệ giữa các ñặc trưng hình thể và ñặc
trưng tinh thần; không có khác biệt “tự nhiên” (sinh học) giữa con người nguyên thủy
và văn minh. ðó là sự khác biệt về văn hóa ñược thụ ñắc, không phải do bẩm sinh. Boas
là người ñầu tiên từ bỏ quan niệm chủng tộc khi giải thích các ứng xử của con người.
Khác với Tylor, mục tiêu nghiên cứu văn hóa của Boas là các nền văn hóa hơn là
Văn hóa. Ông quan niệm dân tộc học là ngành khoa học quan sát trực tiếp. Theo ông,
khi nghiên cứu văn hóa ñặc thù, phải ghi chép mọi cái ñến từng chi tiết và phải hiểu biết
thấu ñáo nền văn hóa ñược nghiên cứu trước khi ñưa ra kết luận chung. Boas cũng là
người sáng lập phương pháp quy nạp và bổ cứu thực ñịa. Chính nhờ ông mà nhân học
quan niệm thuyết văn hóa tương ñối như là nguyên tắc thuộc về phương pháp luận, bao
gồm quan niệm tương ñối về văn hóa.
DURKHEIM VÀ HỌC THUYẾT THỐNG NHẤT CÁC SỰ KIỆN VĂN HÓA
Cùng thời với Boas là Émile DURKHEIM (1858–1917), nhà xã hội học người Pháp,
người tham gia sáng lập ngành nhân học Pháp, thành lập tạp chí L’Année sociologique
[1897], với nhiều công trình chuyên khảo nổi tiếng về dân tộc học.
Durkheim không dùng khái niệm văn hóa, mà thường diễn dịch là “văn minh”. Qua
công trình soạn chung với Marcel Mauss Chú thích khái niệm văn minh [Note sur la
notion de civilisation, 1913], ông ñưa ra quan niệm khách quan và không chuẩn tắc về
văn minh. Durkheim cho rằng các nền văn minh ñặc thù góp phần vào văn minh nhân
loại, mà nói như Mauss [1901]: “Văn minh của một dân tộc không phải cái gì khác hơn
là toàn thể các hiện tượng xã hội. Không có dân tộc phi văn hóa, không văn minh hoặc
«tự nhiên»”.
Theo Durkheim, các hiện tượng xã hội ñều mang tính biểu trưng, nên cần có chiều
kích văn hóa. Các hiện tượng xã hội trải rộng trên các khu vực vượt ra ngoài không gian
lãnh thổ quốc gia, hoặc phát triển qua các khoảng thời gian vượt ra ngoài lịch sử một xã
hội. Ông muốn chứng minh người nguyên thủy hoàn toàn có khả năng tư duy lôgich.
Ông không ñồng tình với sơ ñồ tiến hóa ñơn tuyến, mà quan niệm ñó là “một thân cây
tỏa ra nhiều nhánh” [1913]. ðối với thuyết văn hóa tương ñối, Durkheim quan niệm:
chuẩn tắc của mỗi xã hội là tương ñối và tương quan với trình ñộ phát triển của nó.
Trong sự nghiệp của mình, Durkheim quan tâm ñến việc xác ñịnh bản chất của liên
kết xã hội, hơn là ñưa ra một học thuyết mang tính hệ thống về văn hóa. Ông xác ñịnh
6
Klemm chia lịch sử phát triển văn hóa thành ba giai ñoạn: hoang dã, có ñặc trưng sống theo từng hộ gia
ñình, không luật lệ, kinh tế chiếm ñoạt (hái lượm, săn bắt); tự cung tự cấp, có luật lệ chặt chẽ ñể liên kết
các hộ gia ñình với nhau, phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, có chữ viết; tự do, có ñặc trưng là quyền lực
của giới tăng lữ ở thời kỳ trước ñó bị sụp ñổ.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 14 -
xã h
ội chiếm ưu thế trên cá nhân. Kể từ công trình Tự tử [Le Suicide, 1897], Durkheim
triển khai lý thuyết “ý thức tập thể”, ñược coi là một dạng lý thuyết về văn hóa. Theo
ông, mọi xã hội ñều có một ý thức chung, ñược hình thành từ các biểu hiện chung, các
lý tưởng, giá trị và tình cảm chung ñối với mọi cá nhân trong xã hội ấy. Chính ý thức
tập thể tạo nên sự thống nhất và cố kết của một xã hội. Khái niệm “ý thức tập thể” của
Durkheim có khi ñược diễn ñạt là “nhân cách tập thể”, rất gần với khái niệm mô thức
văn hóa và “nhân cách cơ bản” của các nhà nhân học văn hóa Mỹ, ñặc biệt là lý thuyết
văn hóa về “cơ chế thượng tầng” của Alfred Kroeber [1917].
LÉVY-BRUHL VÀ HỌC THUYẾT TIẾP CẬN KHÁC BIỆT
Lucien LÉVY-BRUHL (1857-1939) với công trình Chức năng tinh thần trong các
xã hội hạ ñẳng [Les fonctions mentales dans les sociétés inférieures, 1910], nêu lên sự
khác biệt văn hóa thể hiện hai quan niệm văn hóa khác nhau trong dân tộc học Pháp thời
kỳ ñầu. Khác với Durkheim, Lévy-Bruhl sử dụng khái niệm “tinh thần” thay cho “văn
hóa”, nhằm bác bỏ học thuyết tiến hóa ñơn tuyến và luận giải về sự tiến bộ tinh thần.
Lévy-Bruhl cũng không chia sẻ các luận ñiểm Tylor về thuyết vật linh của người
nguyên thủy. Trong công trình Tinh thần nguyên thủy [La mentalité primitive”, 1922],
ông chống lại tư tưởng coi hoạt ñộng tinh thần của “người nguyên thủy” ở dạng sơ khai
(tiền lôgich), trẻ thơ hoặc bệnh lý so với bối cảnh thời ñại. Trái lại, theo Lévy-Bruhl,
người nguyên thủy thực hành tinh thần trong ñiều kiện bình thường, kể cả phức tạp và
phát triển theo cách của họ. Ông khẳng ñịnh con người có cùng ñời sống tâm lý cơ bản
hơn là khác biệt, song ông phản ứng quan niệm chỉ theo một phương thức chức năng
duy nhất. Ông cũng không ñồng tình với Durkheim muốn chứng minh con người ở mọi
xã hội ñều có tinh thần “lôgich”, buộc phải tuân theo các quy luật của lý trí.
Các quan ñiểm của Lévy-Bruhl hồi ñầu thế kỷ XX mâu thuẫn với thuyết phổ quát
(trừu tượng) của triết học Ánh sáng và các nguyên tắc ñạo ñức theo khuôn mẫu của
phần lớn các học giả Pháp, do ñó, ñã tạo nên nhiều cuộc tranh luận khoa học sôi nổi về
tính khác biệt (altérité) và bản sắc văn hóa.
KROEBER VÀ HỌC THUYẾT TRUYỀN BÁ VĂN HÓA
Các học trò của Boas như Alfred KROEBER (1876–1960) và Clark WISSLER
(1870–1947) tiếp tục nghiên cứu phạm trù lịch sử của các hiện tượng văn hóa. Họ vay
mượn một loạt khái niệm về “vùng văn hóa” và “ñặc trưng văn hóa” của các nhà nhân
học “truyền bá” ðức hồi ñầu thế kỷ XX, ñể nghiên cứu sự phân bố trong không gian của
một hoặc nhiều ñặc trưng văn hóa của các nền văn hóa ở gần nhau và phân tích quá
trình lan truyền của chúng.
“Truyền bá văn hóa” là kết quả quan hệ giữa các nền văn hóa khác nhau và sự di
chuyển các ñặc trưng văn hóa. Khi có hiện tượng hội tụ các ñặc trưng giống nhau trong
một phạm vi không gian, người ta gọi ñó là vùng văn hóa. Trong ñó, ở khu vực trung
tâm là các ñặc trưng văn hóa cơ bản; còn ở khu vực ngoại vi, các ñặc trưng này ñan xen
lẫn nhau với các ñặc trưng ñến từ các khu vực văn hóa lân cận.
MALINOWSKI VÀ HỌC THUYẾT PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG VĂN HÓA
Bronislaw MALINOWSKI (1884–1942), nhà nhân học Anh gốc Ba Lan, mang quốc
tịch Áo, là người ñưa ra thuyết chức năng tập trung ở hiện tại, ñể chống lại thuyết tiến
hóa hướng ñến tương lai và thuyết truyền bá hướng về quá khứ. Theo ông, chỉ có quãng
thời gian ở giữa là nơi mà nhà nhân học có thể nghiên cứu các xã hội loài người một
cách khách quan; cần quan sát trực tiếp các nền văn hóa trong tình trạng hiện tại, không
cần truy ngược về nguồn gốc vì hão huyền và không có chứng cứ khoa học; mỗi nền
văn hóa hình thành một hệ thống cân bằng theo chức năng, trong ñó các yếu tố phụ
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 15 -
thu
ộc lẫn nhau, nên cần loại trừ việc nghiên cứu riêng rẽ; văn hóa biến ñổi chủ yếu ñến
từ bên ngoài, do sự giao tiếp văn hóa.
ðể giải thích các nền văn hóa có chức năng khác nhau, trong công trình Lý thuyết
khoa học về văn hóa [Une théorie scientifique de la culture, 1944], Malinowski xây
dựng học thuyết về các “nhu cầu” gây nhiều tranh cãi. Các yếu tố cấu thành một nền
văn hóa có chức năng thỏa mãn các nhu cầu chủ yếu của con người. ðối tượng của
ngành nhân học không phải là nghiên cứu các ñặc trưng văn hóa vô nghĩa, cũng không
phải các sự kiện văn hóa riêng rẽ, mà là các thiết chế (kinh tế, chính trị, pháp luật, giáo
dục ) và quan hệ giữa các thiết chế trong tương quan của một hệ thống văn hóa.
Hạn chế của học thuyết chức năng là ít có khả năng giải quyết các mâu thuẫn nội tại,
các rối loạn chức năng và các hiện tượng bệnh lý của văn hóa. Tuy vậy, công lao của
Malinowski là chứng minh không thể nghiên cứu văn hóa từ bên ngoài và quá lâu về
thời gian. Ông không bằng lòng với phương pháp quan sát trực tiếp tại chỗ, mà ñã hệ
thống hóa việc sử dụng phương pháp dân tộc học miêu tả, thường gọi là phương pháp
“quan sát tham dự”.
TRƯỜNG PHÁI “VĂN HÓA VÀ NHÂN CÁCH”
Từ những năm 1930, ngành nhân học Mỹ hướng ñến một hướng ñi mới trong cố
gắng tìm cách giải thích một cách kiên trì các khác biệt văn hóa giữa các nhóm người.
Họ cho rằng nghiên cứu văn hóa còn quá trừu tượng, trong khi quan hệ giữa cá nhân với
văn hóa của mình còn chưa ñược tính ñến; văn hóa không thể tồn tại như một thực thể
tự nó, nằm ngoài các cá thể, dù cho mọi văn hóa ñều ñộc lập tương ñối so với các cá
thể; mỗi nền văn hóa xác ñịnh một kiểu ứng xử chung cho toàn thể các cá thể tham gia
vào nền văn hóa ñó. Vấn ñề cần làm sáng tỏ là văn hóa ñã hiện diện trong cá thể như thế
nào, thúc ñẩy họ hành ñộng ra sao và tạo nên cách ứng xử nào.
Vấn ñề cơ bản của trường phái này là nhân cách. Con người ñồng nhất với nhau về
phương diện sinh học và tâm lý, song cơ chế nào làm cho các cá thể lúc ñầu có bản chất
giống nhau, biến ñổi thành các kiểu nhân cách ñặc trưng khác nhau trong các nhóm
riêng biệt. Họ ñặt ra giả thuyết ña số các nền văn hóa tương ứng với nhiều kiểu nhân
cách.
Edward SAPIR (1884–1939), nhà nhân học ngôn ngữ Mỹ gốc ðức, cho rằng việc
truyền bá các ñặc trưng văn hóa, các yếu tố văn hóa từ nền văn hóa này ñến nền văn hóa
khác không ñộc lập với các cá thể, mà chính ứng xử của các cá thể có thể giải thích sự
vay mượn văn hóa ñặc thù [1949].
Ruth BENEDICT (1887–1948) ñề xuất khái niệm “mô thức văn hóa” [1934] từ ý
tưởng của Boas và Sapir. Theo ñó, mỗi nền văn hóa có một kiểu mô thức ñặc trưng,
ñồng nhất và gắn bó với nhau nhờ các thiết chế (ñặc biệt là giáo dục) và các giá trị, qua
ñó ñiều khiển các cá thể theo một “sơ ñồ” vô thức trong mọi hoạt ñộng của ñời sống.
Margaret MEAD (1901–1978) nghiên cứu về cách thức, mô hình giáo dục và các hệ
quả văn hóa mà cá thể tiếp nhận ñể hình thành nhân cách của mình. ðó là quá trình
“truyền giao văn hóa” và xã hội hóa nhân cách bằng giáo dục. Nhân cách cá thể không
phải do các ñặc ñiểm sinh học mà do “mô thức” văn hóa ñặc thù của xã hội. ðó là quá
trình mà các nhà nhân học gọi là “văn hóa hóa” (enculturation), tạo nên sự liên kết chặt
chẽ giữa mô thức văn hóa, phương pháp giáo dục và nhân cách chủ ñạo.
Ralph LINTON (1893–1953) cho rằng ngoài tâm lý của từng cá thể còn có tâm lý
chung của mọi thành viên trong một cộng ñồng, gọi là “nhân cách cơ bản”. Văn hóa
biến ñổi do ưu thế hơn hẳn của một kiểu nhân cách nào ñó mà các thành viên trong một
cộng ñồng cùng chia sẻ. Trong công trình Cơ sở văn hóa của nhân cách [1945], ông cho
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 16 -
r
ằng mỗi nền văn hóa ưu tiên một trong số các kiểu nhân cách ñược xã hội coi là “bình
thường”, phù hợp với chuẩn mực văn hóa và hệ thống các giá trị.
Abram KARDINER (1891–1981) ñã cộng tác chặt chẽ với Linton ñể triển khai quan
niệm “nhân cách cơ bản”, ñược hình thành ở cá thể thông qua “các thiết chế sơ ñẳng”
(trước hết là gia ñình và hệ thống giáo dục) riêng của mỗi xã hội; và nhân cách cơ bản
này tác ñộng trở lại văn hóa của nhóm bằng cách sản sinh ra “các thiết chế thứ cấp” (ñặc
biệt là hệ thống các giá trị và tín ngưỡng).
LÉVI-STRAUSS VÀ HỌC THUYẾT PHÂN TÍCH CẤU TRÚC VĂN HÓA
Claude LÉVI-STRAUSS (1908–2009), nhà nhân học người Pháp, người ñược
James Frazer xưng tụng là “cha ñẻ ngành nhân học hiện ñại”, ñã ñưa ra một ñịnh nghĩa
về văn hóa: Mọi văn hóa ñều có thể xem là toàn thể các hệ thống biểu trưng ñược ñặt
lên hàng ñầu gồm ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học,
tôn giáo. Tất cả các hệ thống này ñều nhằm diễn tả một số phương diện hiện thực của tự
nhiên và xã hội, ñặc biệt là các quan hệ mà hai loại hiện thực này trao ñổi lẫn nhau và
các hệ thống biểu trưng của từng loại trao ñổi với nhau [1950].
Lévi-Strauss chịu ảnh hưởng của nhân học văn hóa Mỹ về tính toàn thể của văn hóa,
ñặc biệt là của Boas, Kroeber và Benedict do ông ở Mỹ một thời gian khá lâu (1941-
1947). Trong công trình Nhiệt ñới buồn [Tristes tropiques, 1955], ông mượn của Ruth
Benedict bốn ý tưởng chủ yếu: một, các nền văn hóa khác biệt do một mô thức nào ñó;
hai, các kiểu văn hóa khả dĩ tồn tại với số lượng giới hạn; ba, nghiên cứu các xã hội
“nguyên thủy” là phương pháp tốt nhất ñể xác ñịnh sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa;
bốn, sự kết hợp này có thể ñược nghiên cứu tự bản thân chúng, ñộc lập với các cá thể
trong nhóm và họ không có ý thức gì về sự kết hợp này.
Ngoài việc nghiên cứu các biến ñổi văn hóa, Lévi-Strauss còn phân tích tính không
thể biến ñổi của một nền văn hóa ñặc thù mà ông coi là “vốn chung” của nhân loại.
Tham vọng về nhân học cấu trúc của Lévi-Strauss là nhận biết và tiếp thu các sự kiện
bất biến, tức là các “tư liệu” văn hóa giữa các nền văn hóa luôn luôn giống nhau do tính
thống nhất về ñời sống tâm lý của con người, tất nhiên là với số lượng có giới hạn. Tổ
chức ñời sống xã hội phụ thuộc vào một nền văn hóa và ñòi hỏi thực hiện các quy ước
xã hội. Trong các ñiều kiện chung về chức năng của ñời sống xã hội, có thể tìm gặp các
quy ước phổ biến vốn là các nguyên tắc cần thiết của mọi ñời sống xã hội. Chẳng hạn,
việc cấm loạn luân là cơ sở cần thiết cho các trao ñổi của xã hội.
CÁC TIẾP CẬN VĂN HÓA TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ðối với các nhà ñịa lý với tư duy thực nghiệm ở Mỹ, văn hóa bao gồm các thứ
không thuộc về tự nhiên. Họ phân biệt văn hóa là cái nhìn thấy ñược trong cảnh quan
ñịa lý, do con người tạo lập nên và có khả năng làm thay ñổi môi trường tự nhiên. ðó là
cảnh quan ñược nhân hóa.
ðối với các nhà nhân học, văn hóa nằm ngay ở ngành học. Mỗi dân tộc ñược ñịnh
nghĩa trước tiên là có một nền văn hóa riêng. ðó là một toàn thể phức hợp như là một
tổng thể mà con người có ñược. Mỗi cá nhân sinh ra trong xã hội ñều thuộc về một nền
văn hóa. Văn hóa mang ý nghĩa tập thể, thuộc về một cộng ñồng, bộ tộc, xã hội Nói
như HÉRODOTE, “Phong tục là vua của mọi thứ”. Có hàng ngàn cách thức ñể thỏa
mãn nhu cầu của con người về ăn, ở, ngủ, nghỉ, ñi lại hoặc làm việc.
ðối với các nhà văn hóa, họ quan niệm mọi nền văn hóa vừa giống nhau vừa khác
nhau trên một số phương diện, vì ñáp ứng các nhu cầu và các mục tiêu chung bằng các
cách thức khác nhau. Ở cấp ñộ ñầu tiên thì sự khác biệt tách rời nó ra, ñến cấp ñộ thứ
hai thì tập hợp lại.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 17 -
Song có l
ẽ chính các nhà ngôn ngữ mới ñưa ra ñịnh nghĩa văn hóa ñầy ñủ và rõ ràng
nhất. Émile BENVENISTE (1902–1976), chuyên gia Ấn-Âu, nhà ngôn ngữ học người
Pháp, ñịnh nghĩa: “Tôi gọi văn hóa là môi trường của con người, là mọi thứ vượt qua
các chức năng sinh học ñể ñem lại cho cuộc sống, cho hoạt ñộng của con người hình
thức, ý nghĩa và nội dung” [Bonnemaison, 2000]. Từ văn hóa ñược sử dụng ở ñây vừa
thuộc phạm vi vật chất – giống như các nhà ñịa lý Mỹ – vừa thuộc phạm vi trí tuệ và
tinh thần. Văn hóa là một hệ thống các thái ñộ, tín ngưỡng và các biểu trưng.
Giống như ngôn ngữ, văn hóa ñược ñịnh nghĩa thông qua việc truyền ñạt. ðó là toàn
thể các thứ di sản mà con người nhận ñược từ các thế hệ ñi trước: các biểu hiện, tri thức,
giá trị, ý tưởng, tính biểu cảm. Nhưng văn hóa cũng là cái mà con người phát minh, sinh
sống trong một thời ñiểm và một không gian nhất ñịnh. Cho nên, người ta nói văn hóa
những năm 30, những năm 60, văn hóa vùng miền, văn hóa ñô thị, văn hóa ngoại ô, văn
hóa xí nghiệp, v.v. vì văn hóa luôn ñược hoàn thiện, ñổi mới, phát minh trở lại tùy theo
các thế hệ, nhóm người.
Không có truyền thống nào là thuần chất. Mọi truyền thống khi truyền ñạt lại ñều
ñược các thế hệ, nhóm người diễn giải lại. Chính vì vậy mà văn hóa là một truyền thống
sống ñộng, hỗn hợp các ñặc trưng ñược lưu truyền và các ñặc trưng tri thức của một
thực thể chuyển ñộng, cấu thành bản sắc.
Văn hóa bao gồm cả văn minh vật chất và văn minh tinh thần. Nhưng hệ luận văn
hóa ñòi hỏi cả hai phải gắn với nhau thành một hệ thống, mang tính tổng thể, gọi là
phức hợp văn hóa. ðó là một hệ thống ñi từ ñặc trưng vật chất nhất ñến ñặc trưng tinh
thần nhất. Văn hóa gần giống như ngôn ngữ. ðó là một toàn thể, một hệ thống tiến triển
phức hợp và tương tác. Văn hóa biểu hiện sự chuyển ñộng từ cái này ñến cái kia, từ
cách sống ñến ý nghĩa ñời sống [Bonnemaison, 2000].
Ngành ðịa văn hóa nói riêng bao gồm việc nghiên cứu cùng lúc các nền văn hóa và
văn minh. Nó không bị lạc hướng khi nghiên cứu sâu vào các quá trình của văn hóa, mà
ở các phạm vi khác nhau: quá trình văn minh và quá trình của các nền văn hóa
[Bonnemaison, 2000].
ðịa văn hóa phân biệt văn hóa có bốn trình ñộ, từ ñơn giản ñến phức tạp là: ñặc
trưng văn hóa hay các yếu tố văn hóa, các tập hợp hay phức hợp văn hóa, các nền văn
hóa và các nền văn minh. Cái toàn thể (còn gọi là phức hợp văn hóa hoặc chu kỳ văn
hóa) cấu thành từ các yếu tố hoặc ñặc trưng. Văn hóa hội nhập các phức hợp văn hóa
khác nhau trong một hệ thống văn hóa tổng quát (global). Một nền văn hóa hay một hệ
thống văn hóa bao gồm nhiều tập hợp hoặc phức hợp văn hóa (một tập hợp có nhiều
phức hợp). Văn hóa tham gia vào văn minh, hội nhập ở tầng cao của các nền văn minh.
VĂN HÓA LÀ MỘT QUÁ TRÌNH [Bonnemaison, 2000]
Quá trình ñược ñịnh nghĩa là sự tiến hóa của một tập hợp các ñối tượng theo một
thông số cơ sở. Chẳng hạn, công nghiệp hóa, ñô thị hóa, giao lưu văn hóa là các quá
trình. Mọi nền văn hóa ñều là một quá trình, trong ñó có thể phân tích thành 5 giai ñoạn:
phát hiện, phát minh, ñổi mới, tiến hóa và truyền bá.
– Phát hiện là tìm thấy cái gì ñó tồn tại trong môi trường tự nhiên, chưa từng sử
dụng ñến, có thể sử dụng mà không cần sáng tạo
– Phát minh là tạo ra cái gì mới, nhân tạo, xuất phát từ ý muốn của con người. Phát
minh cấu thành ñộng lực phát triển xã hội, nhất là khi nó tạo nên sự ñổi mới
[Schumpeter, 1911].
– ðổi mới là ứng dụng phát minh hoặc khám phá trong một lĩnh vực kỹ thuật và
trong ñời sống xã hội. Chẳng hạn, phát minh ra transistors cho phép ứng dụng một loạt
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 18 -
ñổi mới trong lĩnh vực công nghiệp ñiện tử. Ngược lại, cũng có những khám phá hoặc
phát minh không phát sinh ñổi mới vì các lý do văn hóa, kinh tế – xã hội và chính trị.
– Tiến hóa là một trào lưu ñi từ ñơn giản ñến phức tạp, từ biến chuyển, ñổi mới lúc
ñầu ñến các hệ thống phức tạp hơn.
– Truyền bá là quá trình lan tỏa trong không gian và tiếp nối trong thời gian.
Như vậy, quá trình văn hóa là một trào lưu liên tục, vì nó kéo theo một loạt các phản
ứng dây chuyền. Xã hội càng tiên tiến, văn hóa càng trở nên phức tạp, không thuần nhất
và quá trình ñổi mới diễn ra một cách nhanh chóng.
Lịch sử nhân loại ñã và ñang xảy ra ba cuộc cách mạng : từ cách mạng ñá mới ñến
cách mạng công nghiệp và ñến nay là cách mạng thông tin và truyền thông. Quyết ñịnh
luận văn hóa hay chủ nghĩa văn hóa ñược coi là phương thế ưu tiên dành cho các
phương diện văn hóa giải thích sự cấu thành các hiện tượng lịch sử, xã hội và các tập
tính tinh thần (mentalités).
KHÁI NIỆM “TIỂU VĂN HÓA” VÀ “XÃ HỘI HÓA”
Trong thế kỷ XIX, xã hội học và dân tộc học ñược hình thành và trở thành các
ngành khoa học ñộc lập. Pháp là nơi khai sinh ngành xã hội học. Trong thời kỳ ñầu, xã
hội học ở Pháp ñộc quyền nghiên cứu mọi lĩnh vực của xã hội loài người. Các vấn ñề xã
hội chiếm ưu thế, làm lu mờ các vấn ñề văn hóa. Dân tộc học dần thu hẹp ở lĩnh vực
miêu tả (ethnographie), bị coi là một nhánh phụ của ngành xã hội học.
Sự gần gũi giữa hai ngành học dẫn ñến việc xã hội học vay mượn các phương pháp
nghiên cứu của nhân học, còn nhân học ñi vào các lĩnh vực của xã hội học. Các nhà
nhân học ñưa ra bằng chứng về sự thống nhất văn hóa ở Mỹ; còn các nhà xã hội học
hướng ñến tính ña dạng văn hóa của xã hội Mỹ, dẫn ñến hình thành khái niệm “tiểu văn
hóa” của các nhóm tộc người, các tầng lớp xã hội, của người nghèo, kẻ phạm pháp,
ñồng tính, thanh thiếu niên, v.v. Các hiện tượng “phản văn hóa” như phong trào
“hippie” vào những năm 1960 và 1970 cũng ñược coi là một tiểu văn hóa.
Các nhà xã hội học ở Mỹ còn ñưa ra khái niệm “xã hội hóa”, ñể giải thích tính liên
tục qua nhiều thế hệ của các nền văn hóa hoặc tiểu văn hóa ñặc thù giữa các nhóm xã
hội khác nhau. Họ quan niệm ñó là quá trình hội nhập của cá thể vào một xã hội hoặc
một nhóm người riêng biệt, bằng cách thu mình vào các mô thức văn hóa riêng của xã
hội hoặc của nhóm người ñó. Tuy nhiên, khái niệm “xã hội hóa” chỉ sử dụng phổ biến
từ cuối những năm 1930, ñể phản ánh vấn ñề cơ bản của xã hội học lúc bấy giờ là làm
thế nào cá thể trở thành thành viên trong xã hội của mình và làm thế nào xã hội ñồng
nhất về bản sắc.
Theo Émile DURKHEIM [1922], mỗi xã hội ñều thông qua giáo dục ñể truyền lại
cho các cá thể cấu thành xã hội toàn thể các tiêu chuẩn xã hội và văn hóa, nhằm bảo
ñảm sự ñoàn kết giữa mọi thành viên của xã hội, và các cá thể ñều phải làm theo ở mức
ñộ nhất ñịnh.
Nhà xã hội học người Mỹ Talcott PARSONS [1954] tìm cách dung hòa các phân
tích của Durkheim và Freud trong quá trình xã hội hóa. Ông cho rằng xã hội hóa hoàn
tất ở tuổi thanh niên; ñời sống cá thể càng sớm phù hợp với các tiêu chuẩn, giá trị của
xã hội thì càng thích ứng dễ dàng hơn với “hệ thống xã hội”; ngoài gia ñình là tác nhân
xã hội ñầu tiên chiếm ưu thế, không thể xem thường vai trò của trường học và nhóm
ñồng ñẳng (bạn học và bạn chơi).
Ngoài ra, Robert K. MERTON [1950] còn ñưa ra khái niệm “xã hội hóa ñi trước”,
ñể chỉ hiện tượng một cá thể tìm cách thích ứng và thu mình vào trước, theo các tiêu
chuẩn và giá trị của một nhóm mà cá thể ấy còn chưa thuộc về nhưng muốn hội nhập.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 19 -
Peter L. BERGER và Thomas LUCKMANN [(1966) 1986] còn phân bi
ệt “xã hội
hóa sơ ñẳng” (thời thơ ấu) và “xã hội hóa thứ cấp” (thời thanh niên). Họ quan niệm xã
hội hóa là một quá trình không ngừng trong cuộc ñời của một cá thể, bao gồm các giai
ñoạn “giải xã hội hóa” (cắt ñứt hội nhập với mô thức chuẩn mực) và “tái xã hội hóa”
(trên cơ sở thu mình vào một mô hình khác).
HỆ THỐNG VĂN HÓA [Bonnemaison, 2000]
Một hệ thống văn hóa tạo nên các ñặc trưng nhờ tổ chức ñặc thù bên trong của nó.
Hệ thống văn hóa khác với hệ thống xã hội, vì có tính chất bao quát hơn, gồm có bốn
yếu tố: kiến thức, kỹ thuật, tín ngưỡng và không gian. ðây cũng là bốn cực hay bốn trụ
cột của hệ thống văn hóa.
– Di sản kiến thức: Văn hóa trước hết là di sản kiến thức. ðó là sự hiểu biết về thế
giới, làm cho văn hóa mang tính “khoa học”. Bên cạnh khoa học phương Tây có tính
phổ quát, còn có các “khoa học” trong mỗi nền văn minh khác nhau, ở mỗi tộc người
ngoại lai, gọi là các khoa học tộc người (ethnosciences) ngoài phương Tây, ñược coi là
các khoa học hoặc kiến thức tiền hiện ñại. Ngày nay, văn hóa bản ñịa ñược ñánh giá
cao, không bị coi là thấp kém như ñầu những năm 1950
– Di sản kỹ thuật: gồm các kỹ năng và công cụ. Theo cách nói của nhà ñịa lý người
Pháp Paul Vidal de la Blache (1845–1918), ñó là các lối sống, dựa vào các kỹ thuật cơ
bản, ñáp ứng các nhu cầu ñầu tiên của ñời sống ñể sinh tồn, ñể phân biệt con người với
loài vật. ðó còn là nghệ thuật sống, một lý lẽ ñể sống.
– Tín ngưỡng: kiến thức và kỹ thuật “ngoài phương Tây” còn dựa trên tín ngưỡng
tôn giáo, thể hiện một cách nhìn về thế giới, thường ñược coi là tầng cao của văn hóa,
biểu hiện mối liên hệ cơ bản giữa các giá trị và kỹ thuật.
Văn hóa mang lại ý nghĩa, ñưa ra cách nhìn về thế giới, tức là cách giải thích thế
giới. ðó là trật tự của tư duy, dựa trên tín ngưỡng, huyền thoại và các giá trị. ðó cũng là
trật tự của văn hóa, kết hợp ý nghĩa ñạo ñức và thẩm mỹ, luân lý và nghệ thuật, lý trí và
xúc cảm, thường ñược coi là các biểu hiện. Mọi văn hóa ñều là hệ thống các biểu hiện
khác biệt, còn gọi là các biểu trưng ñịa lý.
Không có ký ức thì không có văn hóa, bởi vậy không có tương lai. Ký ức càng xa về
thời gian, văn hóa càng phong phú. Nếu thiếu quá khứ, ñời sống văn hóa chỉ gắn với
hiện tại, quay lưng với chiều sâu văn hóa ðó là sự phủ nhận văn hóa.
Trong một số trường hợp, tín ngưỡng tôn giáo ñược thay thế bằng ý thức hệ. Chủ
nghĩa mác-xít ñược coi là tôn giáo không có Thượng ñế của con người, xây dựng trên
trái ñất một “ngày mai tươi sáng” nhờ vào cuộc ñấu tranh của giai cấp cần lao. Từ ý
thức hệ ñến tín ngưỡng chỉ có một bước chân. Như vậy, một cách nhìn về thế giới là
một hệ thống cấu thành từ bốn yếu tố: các biểu hiện, các huyền thoại sáng thế, các biểu
trưng ñịa lý và ký ức. Hệ thống này biểu hiện tầng cao của văn hóa.
– Không gian: Các nền văn hóa ñược xây dựng và ñịnh vị trong một không gian.
Fernand BRAUDEL (1902–1985), nhà sử học người Pháp nổi tiếng với Lý thuyết hệ
thống kinh tế-xã hội trên phạm vi thế giới, cho rằng văn hóa có một chỗ dựa ñịa lý.
Khác với quyết ñịnh luận ñịa lý, nó có quan hệ biện chứng giữa môi trường và văn hóa.
Môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn không cách ly lẫn nhau, mà tạo nên
môi trường văn hóa và môi trường ñịa lý. Sự phân chia các nền văn hóa trong không
gian tạo nên các vùng văn hóa. Vùng văn hóa ñược ñịnh nghĩa là một không gian tương
ñối ñồng nhất, trong ñó có kết hợp một số ñặc trưng văn hóa chủ ñạo. Các vùng văn hóa
không khép kín, mà có thể tiếp nhận, trao ñổi các ñặc trưng văn hóa với nhau. Có thể
hình dung ba cấp ñộ cấu thành một hệ thống văn hóa là: vùng văn hóa, không gian sống
và không gian v
ăn hóa.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 20 -
Không gian v
ăn hóa tương ứng với một nền văn hóa riêng và một khu vực lãnh thổ
riêng. Có thể phân biệt các ñịa ñiểm và cái nôi
7
văn hóa, các khu vực, các vùng văn hóa
và các thế giới văn hóa. Mỗi nền văn hóa và mỗi nền văn minh lớn ñều có một hoặc
nhiều cái nôi văn hóa. Khu vực văn hóa còn là một xứ sở (gồm một phức hợp văn hóa
và phạm vi lan tỏa của nó). Khi mở rộng một phức hợp văn hóa tương ứng với một
không gian ñịa lý sẽ tạo nên khu vực văn hóa; khu vực văn hóa là một nền văn hóa với
không gian của nó – ñó là tập hợp của một nhóm các vùng văn hóa có các biến thái
chung hoặc cơ sở văn hóa giống nhau; thế giới văn hóa bao gồm nền văn minh và không
gian - ñó là siêu văn hóa (métaculturel – cái vượt qua, cái bao gồm) và nguồn cội hoặc
các bể chứa văn hóa như : các tôn giáo lớn, ý thức hệ, các trào lưu văn minh, ngôn ngữ,
các cộng ñồng quốc tế như EU, OTAN, APEC và các trục thế giới.
CÁC ỨNG DỤNG VĂN HÓA – XÃ HỘI
Trong mấy thập niên gần ñây, văn hóa ñược sử dụng ngày càng nhiều trong ñời
sống xã hội. Có khuynh hướng sử dụng từ văn hóa thay thế cho các từ khác như trí tuệ,
tinh thần, truyền thống hoặc ý thức hệ. Văn hóa trở nên phổ biến trong từ vựng chính
trị: văn hóa chính quyền, văn hóa giải trung ương hóa, hoặc rất thông dụng vì ở mỗi lĩnh
vực xã hội ñều muốn có văn hóa của mình như văn hóa hip hop, văn hóa bóng ñá, văn
hóa ñiện thoại Từ văn hóa có khi biểu ñạt ý nghĩa tiêu cực như “văn hóa cái chết” do
giáo hoàng Jean-Paul II sử dụng từ năm 1995 trước nạn phá thai; hoặc “văn hóa thù
hận” của bộ trưởng Nội vụ Pháp năm 1998 ñể lên án nạn bạo ñộng của một số băng
nhóm thanh niên ở ngoại ô.
Các ñiển hình trên cho thấy xu hướng ngày càng cấp thiết ứng dụng các lý thuyết
khoa học về văn hóa vào các hoạt ñộng của tư tưởng và ñời sống xã hội.
TƯƠNG TÁC VĂN HÓA
Sapir hẳn là một trong những người ñầu tiên coi văn hóa như một hệ thống truyền
thông giữa cá nhân với nhau. Theo ông, văn hóa là toàn thể các ý tưởng mà các cá thể
của một nhóm lan truyền thông qua các tương tác.
ðến những năm 1950, ở Mỹ phát triển một khuynh hướng gọi là “nhân học truyền
thông”, ñặc biệt xung quanh Gregory Bateson và trường phái Palo Alto. Truyền thông
không ñược quan niệm là quan hệ truyền và nhận, mà theo mô thức dàn nhạc. Nói cách
khác, ñó là kết quả của một tập hợp các cá thể họp nhau lại ñể cùng biểu diễn một bản
nhạc vô hình, trong tình trạng tương tác bền vững, tham gia một cách liên ñới, song mỗi
người theo cách của mình. Bản nhạc ấy là văn hóa, chỉ tồn tại nhờ cách chơi tương tác
giữa các cá nhân.
Tiếp cận tương tác dẫn ñến ñặt lại vấn ñề giá trị thu hoạch của khái niệm “tiểu văn
hóa”, hoặc ñúng hơn là phân biệt “văn hóa” và “tiểu văn hóa”. Trong xây dựng văn hóa,
trước tiên là văn hóa nhóm, văn hóa ñịa phương, văn hóa liên kết các cá thể trong quan
hệ tương tác trực tiếp giữa các cá thể này với các cá thể khác, mà không phải là văn hóa
tổng quát của tập thể rộng hơn. Do vậy, ñối với tương tác văn hóa, khái niệm “tiểu văn
hóa” theo cách nhìn của xã hội học rõ ràng là không thích hợp.
GIAO LƯU VĂN HÓA
Từ giao lưu văn hóa có lẽ do nhà nhân học Mỹ J. W. Powell, sử dụng từ năm 1889
khi ñề cập ñến sự biến ñổi của lối sống và lối suy nghĩ của người di dân khi tiếp xúc với
xã hội Mỹ. Tuy nhiên, phải ñợi ñến những năm 1930 mới có tư tưởng hệ thống về hiện
tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa và có ñịnh nghĩa về mặt khái niệm.
7
Foyers tạm dịch là ñiểm xuất phát, thuộc về nguồn gốc.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 21 -
N
ăm 1936, Hội ñồng nghiên cứu khoa học xã hội Mỹ lập ra một ủy ban ñể tổ chức
nghiên cứu các sự kiện giao lưu văn hóa, trong ñó có Robert Redfield, Ralph Linton và
Medville Herskovits. Trong Bản ghi nhớ nghiên cứu về giao lưu văn hóa [1936] có nêu
ra ñịnh nghĩa: Giao lưu văn hóa là toàn thể các hiện tượng do việc tiếp xúc liên tục và
trực tiếp giữa các nhóm cá thể có văn hóa khác nhau, dẫn ñến những biến ñổi trong các
mô thức văn hóa ban ñầu của một hoặc của hai nhóm này.
Giao lưu văn hóa khác với “biến ñổi văn hóa”, thường ñược dùng trong nhân học
Anh. Biến ñổi văn hóa mới chỉ là một phương diện, vì có thể là do các nguyên nhân nội
tại, khác với hiện tượng biến ñổi văn hóa do ngoại sinh, có thể không theo cùng quy
luật.
Giao lưu văn hóa khác “ñồng hóa văn hóa”. ðó là giai ñoạn cuối và hiếm khi ñạt tới
của giao lưu văn hóa, vì ñòi hỏi một nhóm phải biến mất hoàn toàn văn hóa gốc của
mình và thu nhận toàn bộ văn hóa của nhóm thống trị.
Giao lưu văn hóa cũng không lẫn lộn với “truyền bá văn hóa”, vì truyền bá có thể
không có tính liên tục và trực tiếp, và dù sao nó cũng chỉ là một phương diện của quá
trình giao lưu văn hóa vốn phức tạp hơn nhiều.
Quá trình giao lưu văn hóa gồm có: các phương thức “chọn lọc” các yếu tố vay
mượn hoặc “phản ứng” lại sự vay mượn; các hình thức hội nhập các yếu tố này vào mô
thức văn hóa gốc; các cơ chế tâm lý tạo ñiều kiện dễ dàng hay không cho việc hội nhập
văn hóa; và cuối cùng là các hậu quả chủ yếu của giao lưu văn hóa, bao gồm các phản
ứng tiêu cực, ñôi lúc có thể xảy ra với các phong trào “chống lại giao lưu văn hóa”.
Tóm lại, giao lưu văn hóa là một hiện tượng ñộng, một quá trình ñang xảy ra hoặc
ñang thực hiện. Trong các biến ñổi văn hóa của quá trình giao lưu văn hóa, có thể rút ra
quy luật chung là các yếu tố không mang tính biểu trưng (kỹ thuật và vật chất) của một
nền văn hóa biến chuyển dễ dàng hơn các yếu tố biểu trưng (tôn giáo, ý thức hệ, v.v.).
ðể giải thích sự phức tạp của quá trình giao lưu văn hóa, H. G. Barnett [1940] phân
biệt hình thức biểu hiện, chức năng và ý nghĩa của các ñặc trưng văn hóa và nêu ra ba
ñặc ñiểm phụ bổ sung: một, dạng thức càng “lạ” (xa cách với văn hóa tiếp nhận) thì
càng khó tiếp nhận; hai, các dạng thức biến chuyển dễ hơn các chức năng
8
; ba, một ñặc
trưng văn hóa dù dạng thức và chức năng như thế nào vẫn dễ ñược chấp nhận và hội
nhập tốt hơn nếu mang ý nghĩa phù hợp với nền văn hóa tiếp nhận.
Khuôn khổ xã hội của giao lưu văn hóa. Nhà nhân học và xã hội học người Pháp
Roger BASTIDE (1898–1974) cho rằng không thể nghiên cứu văn hóa ñộc lập với xã
hội. Theo ông, hạn chế lớn nhất của học thuyết văn hóa Mỹ về giao lưu văn hóa là thiếu
vắng mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội [1960]. Các quan hệ văn hóa phải ñược nghiên
cứu trong các khuôn khổ khác nhau của quan hệ xã hội, gồm quan hệ hội nhập, tranh
ñua, xung ñột, v.v.; các sự kiện hỗn hợp, pha trộn thậm chí ñồng hóa văn hóa cần phải
ñặt lại trong khuôn khổ cấu trúc và giải cấu trúc xã hội của mình; mọi biến ñổi văn hóa
ñều sinh ra các tác ñộng phụ ngoài dự kiến, không tránh khỏi ñược, dù các tác ñộng ấy
không diễn ra cùng lúc.
Bastide chống lại quan niệm của Lévi-Strauss về thuyết cấu trúc mà ông cho rằng
quá “tĩnh”, quá tiêu cực trước các hiện tượng giải cấu trúc trong xã hội thuộc ñịa. Theo
ông, văn hóa là một cấu tạo “ñồng bộ”, thường xuyên ñược xây dựng trong ba chuyển
ñộng: cấu trúc, giải cấu trúc và tái cấu trúc. Giải cấu trúc có thể vừa là hậu quả gặp gỡ
văn hóa, song vừa tác ñộng như là nguyên nhân của tái cấu trúc văn hóa, cho nên lẽ tất
nhiên không thể coi là hiện tượng tiêu cực.
8
ðiều này trái với Malinowski, vì theo Barnett, các giả ñịnh tương ñương về chức năng ñược ñưa vào
trong một nền văn hóa hiếm khi có thể thay thế một cách hữu hiệu các thiết chế cũ.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 22 -
Nghiên c
ứu các sự kiện giao lưu văn hóa còn dẫn ñến việc xem xét lại khái niệm
văn hóa. Văn hóa bao gồm một tổng thể năng ñộng, ít nhiều gắn bó và ñồng nhất. Việc
xác ñịnh tính liên tục của một nền văn hóa thường phụ thuộc vào ý thức hệ nhiều hơn
hiện thực. Tính ñứt quãng của văn hóa hẳn là phải tìm kiếm trong trật tự thời gian nhiều
hơn không gian [theo “Nguyên tắc lát cắt” của Bastide, 1955].
Giao lưu văn hóa là ñề tài nghiên cứu chủ yếu và lâu ñời của nhân học. Song việc sử
dụng phổ biến từ này ngày càng nghèo ñi về ý nghĩa. Một số tác giả ñưa ra khái niệm
mới về các quan hệ liên văn hóa là “lai tạp văn hóa”. Lai tạp không chỉ về sinh học mà
còn về văn hóa, thường sử dụng khá thời thượng trong truyền thông và quảng cáo, kể cả
trong một số công trình ñể thay thế từ giao lưu văn hóa. Một số tác giả ñưa vào nội dung
khái niệm riêng, coi lai tạp là một dạng pha trộn văn hóa ñặc biệt, trái với sự ñối lập
giữa ñồng nhất/không ñồng nhất. Họ coi ñó là “con ñường thứ ba” giữa ñồng nhất tăng
trưởng và ñỉnh ñiểm của các ñặc thù. Khác với hỗn hợp, lai tạp là một thành phần mà
các yếu tố vẫn giữ ñược tính toàn vẹn của mình. Lai tạp mà không hợp nhất, ñối chiếu
và ñối thoại ñể cố kết, nên không ngừng chuyển ñộng [François Laplantine, 1997;
Alexis Nouss, 2001].
Ngoài ra, Édouard GLISSANT (1928–2011), nhà phê bình văn hóa và tư tưởng ở
Martinique (Pháp), xuất phát từ sự hình thành các nền văn hóa hỗn hợp vùng biển
Caribê, còn ñưa ra khái niệm “pha tạp ngôn ngữ” ñể chỉ ra quá trình văn hóa có tầm vóc
xuyên quốc gia. “ðó là lai tạp văn hóa, nhưng có một kết quả tổng hợp vượt xa hơn và
khó lường trước ñược” [1999].
VĂN HÓA THỐNG TRỊ VÀ BỊ TRỊ
Trong một không gian xã hội ñược ñề cập luôn có một thứ bậc về văn hóa. Karl
MARX và Max WEBER ñã không lầm khi xác ñịnh văn hóa của giai cấp thống trị luôn
là văn hóa thống trị. Tất nhiên, nói như vậy không phải văn hóa của giai cấp thống trị
ñược coi là có ưu thế nội tại, có sức lan truyền do tự bản chất, làm cho nó thống trị “tự
nhiên” các văn hóa khác.
ðối với Marx cũng như Weber, sức mạnh của các nền văn hóa khác nhau khi ñối
ñầu phụ thuộc trực tiếp vào sức mạnh xã hội của các nhóm làm bệ ñỡ cho chúng. Nói
văn hóa thống trị hoặc văn hóa bị trị là lối nói ẩn dụ, vì trên thực tế chính các nhóm xã
hội có các quan hệ thống trị và lệ thuộc lẫn nhau.
Một văn hóa bị trị không bắt buộc phải là văn hóa bị tha hóa, hoàn toàn phụ thuộc.
Văn hóa trong quá trình tiến hóa của mình không thể không chú ý ñến văn hóa thống trị,
nhưng vẫn có thể chống lại nhiều ít sự áp ñặt của văn hóa thống trị. Theo các nhà xã hội
học Claude Grignon và Jean-Claude Passeron [1989], các quan hệ thống trị văn hóa
không dẫn ñến việc nắm lấy các quan hệ thống trị xã hội, vì quan hệ giữa các biểu trưng
không vận hành theo cùng lôgic với quan hệ giữa các nhóm hoặc các cá thể. Văn hóa
thống trị không thể áp ñặt tuyệt ñối văn hóa bị trị như cách mà một nhóm có thể áp ñặt
lên một nhóm khác yếu thế hơn
VĂN HÓA BÌNH DÂN
Các nhà phân tích văn học ñã quan tâm ñến khái niệm bình dân từ thế kỷ XIX, kế ñó
các nhà folklore học mở rộng ra các truyền thống nông dân, về sau mới ñến các nhà
nhân học và xã hội học ñề cập ñến lĩnh vực nghiên cứu này.
Khái niệm văn hóa bình dân thường nhập nhằng về ngữ nghĩa, do tính ña nghĩa của
hai từ cấu thành. Trong khoa học xã hội, hai luận ñề ñơn phương hoàn toàn ñối lập nhau
thường tránh ñi song song. Văn hóa bình dân không ñược thừa nhận tự nó có tính năng
ñộng hoặc sáng tạo, mà chỉ coi ñó là loại văn hóa phái sinh, nằm bên lề; là các bản sao
kém cõi, ngày càng nghèo nàn c
ủa văn hóa thống trị vốn ñược thừa nhận là chính ñáng,
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 23 -
ñược coi là văn hóa trung tâm, văn hóa quy chiếu. Văn hóa bình dân chỉ có thể là biểu
hiện tha hóa xã hội của các tầng lớp bình dân, bị mất quyền ñộc lập. Chỉ có văn hóa
“thật” của tầng lớp tinh hoa xã hội. Văn hóa bình dân chỉ là thứ sản phẩm kém chất
lượng, chưa hoàn thành.
ðối lập với quan niệm này, văn hóa bình dân ñược coi là bình ñẳng, ñích thực, hoàn
toàn ñộc lập, thậm chí cao hơn so với văn hóa tinh hoa. ðối với ña số còn lại cho rằng
văn hóa không thiết lập thứ bậc giữa bình dân và “bác học”. Văn hóa bình dân không
hoàn toàn phụ thuộc, cũng như không hoàn toàn ñộc lập. Mọi nền văn hóa ñều lắp ghép
các yếu tố gốc với các yếu tố du nhập, các yếu tố tự sáng tạo và vay mượn.
Michel de Certeau [1980] ñịnh nghĩa văn hóa bình dân là văn hóa “thông thường”
của những người bình thường, tức là thứ văn hóa ñược tạo ra hàng ngày, trong các hoạt
ñộng tầm thường, lặp ñi lặp lại mỗi ngày, mất tính sáng tạo. Cho nên, ñó chỉ là văn hóa
“tiêu dùng”.
VĂN HÓA ðẠI CHÚNG
Khái niệm “văn hóa ñại chúng” nổi lên từ những năm 1960. Một số nhà xã hội học
như Edgar MORIN [1962] chủ yếu nhấn mạnh phương thức sản xuất của văn hóa này
theo sơ ñồ sản xuất công nghiệp ñại chúng, ñặc biệt là sự phổ biến các phương tiện
truyền thông ñại chúng dẫn ñến sự ñồng nhất văn hóa. Các phương tiện truyền thông ñại
chúng phát triển ñi ñôi với việc ñưa vào các tiêu chuẩn năng suất, sinh lợi liên quan ñến
sản xuất văn hóa. “Sản xuất” có xu hướng thay thế “sáng tạo” văn hóa. Các phương tiện
thông tin ñại chúng bị coi là kéo theo sự tha hóa văn hóa, tiêu hủy mọi khả năng sáng
tạo văn hóa của cá thể, vì không cách nào tránh ñược ảnh hưởng của truyền thông.
Khái niệm ñại chúng do vậy là không chuẩn xác, vì từ “ñại chúng” vừa thuộc về
toàn thể dân chúng, vừa thuộc về thành phần dân chúng. Một mặt, có thể lẫn lộn giữa
“văn hóa cho ñại chúng” và “văn hóa của ñại chúng”. Tất nhiên, thông tin ñại chúng là
ñồng nhất, nhưng không vì thế mà ñồng nhất cách tiếp nhận thông tin của các cá thể.
Mặt khác, thật sai lầm khi cho rằng giới bình dân dễ tiếp nhận thông tin ñại chúng nhất.
Các nghiên cứu xã hội học cho thấy truyền thông ñại chúng ñến với tầng lớp trung lưu
sâu sắc hơn tầng lớp bình dân.
Việc tiếp nhận thông tin không ñồng nhất mà phụ thuộc nhiều vào các ñặc ñiểm văn
hóa của mỗi nhóm, cũng như hoàn cảnh mà mỗi nhóm lĩnh hội khi tiếp nhận. Nói cách
khác, văn hóa ñại chúng dù ñược lan truyền trên phạm vi toàn cầu vẫn không dẫn ñến
văn hóa toàn cầu. Toàn cầu hóa văn hóa là biểu hiện có tính thời sự của ngày nay mà
không phải ngày mai. Nhân loại vẫn không ngừng sản sinh ra khác biệt về văn hóa.
Toàn cầu hóa, nếu quả ñúng như vậy, chỉ là về thị trường tài sản, trao ñổi về kinh tế
ñược gọi là “văn hóa”. Song ngay ở trình ñộ này, các nghiên cứu gần ñây cũng chứng
minh là không dẫn ñến ñồng nhất về tiêu dùng [Warnier, 2003]. Toàn cầu hóa kích thích
tạo nên bản sắc tập thể gốc, bằng cách tạo nên nhiều cơ hội trao ñổi và gặp gỡ hơn
[Arjun Appadurai, 2001]. Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng hoàn toàn mới mẻ, vì
từng có những quá trình khác tương tự. Cuộc chinh phục châu Mỹ là ñiểm xuất phát của
toàn cầu hóa dẫn ñến hệ quả như ngày nay, vẫn không làm biến mất mọi khác biệt văn
hóa và bản sắc.
Theo Jean-Loup Amselle [2001], nỗi lo sợ ñồng nhất văn hóa mang trên mình nó ảo
tưởng rằng trước ñây ñã từng có các nền văn hóa thuần túy, cô lập và khép kín. ðiều
thực sự nguy hiểm không phải là ñồng nhất, vì “nếu toàn cầu hóa ngày nay bao gồm
một nguy cơ, thì ñó chính là nguy cơ thu mình lại và khép kín về bản sắc”.
VĂN HÓA GIAI CẤP
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 24 -
S
ự không chuẩn xác và kém giá trị của khái niệm văn hóa ñại chúng, văn hóa thống
trị và văn hóa bình dân càng làm rõ tính ñộc lập tương ñối về văn hóa của các tầng lớp
dưới bị phụ thuộc. Các nhà nghiên cứu phải xem xét lại rõ hơn về quan niệm văn hóa
(hoặc tiểu văn hóa) giai cấp, không dựa trên các suy diễn triết học theo truyền thống chủ
nghĩa Mác, mà căn cứ vào các cuộc ñiều tra thực nghiệm.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các hệ thống giá trị, kiểu cách ứng xử và các nguyên lý
giáo dục thay ñổi rõ rệt từ giai cấp này ñến giai cấp khác. Các khác biệt văn hóa có thể
quan sát ñược ngay trong các tập quán thông thường nhất hàng ngày. Chẳng hạn,
Claude và Christiane Grignon ñã chỉ ra rằng các tầng lớp xã hội khác nhau tương ứng
với các kiểu loại thực phẩm khác nhau. Dù ñi mua sắm cùng một siêu thị có thể cho
cảm tưởng ñồng nhất về phương thức tiêu dùng, nhưng thực ra ñó còn là các lựa chọn
tương phản. Lý do chính không hẳn là cách biệt về sức mua, mà gắn với thói quen và
cái “gu” thị hiếu ít thay ñổi theo truyền thống của các giới xã hội khác nhau. Ở Pháp,
khi chọn mua thịt, có loại thịt “trưởng giả” như cừu và bê, có loại thịt “bình dân” như
heo, thỏ và xúc xích tươi. Cách thức chuẩn bị bếp núc cũng ñể lộ ra cái gu sở thích của
giai cấp. Nói theo Claude và Christiane Grignon [1980], ăn uống cũng là phương cách
cho thấy mình thuộc về một giai cấp xã hội riêng.
VĂN HÓA CHỦ TƯ BẢN
Max WEBER (1864–1920), nhà kinh tế chính trị và xã hội học người ðức, với công
trình nổi tiếng ðạo lý Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản [L’Éthique protestante et
l’esprit du capitalisme, 1905] nêu lên các sự kiện văn hóa và các giai cấp xã hội. Ông cố
tình chứng minh rằng, chỉ có thể hiểu ñược các ứng xử kinh tế của giai cấp chủ tư bản
khi chú ý quan niệm của họ về thế giới và hệ thống các giá trị của họ. Sự xuất hiện ban
ñầu của họ ở phương Tây không phải ngẫu nhiên, mà nhờ một loạt các biến ñổi văn hóa
gắn với sự ra ñời của tôn giáo Tin Lành.
Trong công trình này, Max Weber không nghiên cứu nguồn gốc của chủ nghĩa tư
bản theo nghĩa rộng nhất của từ này, mà về sự hình thành văn hóa ñược ông gọi là “tinh
thần” của giai cấp mới chủ doanh nghiệp, góp phần tạo ra chủ nghĩa tư bản hiện ñại.
Giai cấp ñóng vai trò quyết ñịnh phát triển chủ nghĩa tư bản hiện ñại không phải là ñại
tư bản thương mại theo truyền thống, mà ñó là giới chủ tư bản trung lưu, “tầng lớp ñang
lên, chủ yếu xuất thân từ các chủ doanh nghiệp” hồi ñầu kỷ nguyên công nghiệp.
Chính giới tư bản trung lưu cùng với hệ thống giá trị của chủ nghĩa tư bản hiện ñại
ñã góp phần hiệu quả nhất cho sự truyền bá của mình. ðặc ñiểm của tầng lớp trung lưu,
theo ngôn từ của Max Weber, là “lối sống”, “nếp sống”, nói cách khác là một văn hóa
riêng, dựa trên tập tính mới là “lối sống thế tục khổ hạnh”, ñoạn tuyệt với các nguyên
tắc truyền thống. Tôn giáo Tin Lành ñã tạo ra môi trường văn hóa thuận lợi cho chủ
nghĩa tư bản phát triển, bằng cách phổ biến các giá trị khổ hạnh ñược thế tục hóa.
Tập tính tư bản bao gồm ñạo lý về ý thức nghề nghiệp và giá trị lao ñộng như là
hoạt ñộng có mục ñích tự thân. Lao ñộng không chỉ là phương tiện ñể kiếm sống. Lao
ñộng còn làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Thông qua lao ñộng “tự do” nhờ cơ chế tiền
lương, con người hiện ñại thực hiện với tư cách là người tự do và có trách nhiệm.
Nếu lao ñộng trở thành giá trị trung tâm của nếp sống mới, ñòi hỏi con người dành
hết năng lực và thời gian của mình cho lao ñộng, thì ñiều ñó không chỉ nhằm mục ñích
tìm cách làm giàu cho cá nhân. Làm giàu như mục ñích tự thân không phải là ñặc ñiểm
của tinh thần chủ nghĩa tư bản hiện ñại. Ngược lại, cái ñược tìm kiếm chính là lợi nhuận
và tích tụ tư bản. ðiều này ñòi hỏi về phía cá nhân một dạng “khổ hạnh”, ý tứ và dè dặt,
khác xa với lôgic tiêu xài hoang phí và phô trương theo truyền thống. Cá nhân phải sử
d
ụng lợi nhuận của mình theo cách có ích cho xã hội, tức là chuyển sang ñầu tư. ðạo
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 25 -
ñức thế tục mới ñược thừa nhận là ý thức tiết kiệm, tiết chế và nỗ lực. ðó mới là cơ sở
kỷ cương của các xã hội công nghiệp.
VĂN HÓA CÔNG NHÂN
Ở Pháp, nghiên cứu văn hóa giai cấp chủ yếu là văn hóa công nhân. Các công trình
của nhà triết học và xã hội học Maurice HALBWACHS (1877–1945), ñặc biệt trong
luận án Giai cấp công nhân và mức sống [La classe ouvrière et les niveaux de vie,
1913], ñã mở ñường phân tích văn hóa công nhân. Theo ông, nhu cầu cá nhân hướng
ñến các hoạt ñộng văn hóa do quan hệ sản xuất quyết ñịnh. Sau khi phân tích cấu trúc
một loạt ngân quỹ gia ñình công nhân, ông thiết lập mối liên hệ giữa bản chất lao ñộng
công nhân và các hình thức tiêu dùng của công nhân.
Richard HOGGART (1918), nhà nghiên cứu văn hóa, văn học và xã hội người Anh,
vốn xuất thân từ công nhân, ñã cho ra ñời tác phẩm kinh ñiển Văn hóa người nghèo,
nghiên cứu lối sống của giai cấp bình dân ở Anh [1957]. Ông mô tả dân tộc học ñến
từng chi tiết riêng tư nhất trong ñời sống hàng ngày, làm nổi bật các ñặc ñiểm luôn
mang tính thời sự của văn hóa công nhân, mặc dù kể từ ñầu thế kỷ XX các ñiều kiện vật
chất về ñời sống của công nhân ñã có những thay ñổi quan trọng cùng với sự phát triển
của truyền thông ñại chúng.
Ngày nay hầu như không còn các cộng ñồng công nhân ñúng nghĩa, tập hợp trong
cùng một khu phố, phát triển mạnh mẽ quan hệ láng giềng và thỉnh thoảng họp nhau lại
trong các dịp lễ hội tập thể ñều ñặn. ðặc thù văn hóa công nhân trong ngôn ngữ, trang
phục, nhà ở, v.v. ít thấy, nhưng không biến mất. Việc “tư nhân hóa” lối sống công nhân
rõ ràng ñã làm tăng thêm không gian gia ñình. Mặc dù vậy, theo Olivier Schwartz, quá
trình này không có nghĩa làm suy yếu các không gian xã hội, nhờ các không gian riêng
tư của công nhân ñược tổ chức theo các chuẩn mực riêng.
VĂN HÓA BẢN SẮC
Quan niệm bản sắc văn hóa có ñặc ñiểm ña nghĩa và lỏng lẻo. Từ những năm 1950,
các nhóm nghiên cứu tâm lý xã hội ñặt ra khái niệm bản sắc văn hóa. Họ muốn có công
cụ phù hợp ñể giải quyết các vấn ñề hội nhập của di dân. Quan niệm này tiếp cận bản
sắc văn hóa ñể xác ñịnh hạnh kiểm của các cá thể và ít nhiều có tính bất biến. Về sau,
cách tiếp cận này bị lỗi thời vì có quan niệm năng ñộng hơn, không coi bản sắc ñộc lập
với bối cảnh các quan hệ.
Ở thời kỳ ñầu, bản sắc văn hóa thuộc về vấn ñề rộng lớn hơn của bản sắc xã hội. ðối
với ngành tâm lý xã hội, bản sắc là công cụ phản chiếu rõ rệt về tâm lý và xã hội của cá
thể. Bản sắc biểu hiện kết quả tổng hợp các tương tác khác nhau giữa cá thể và môi
trường xã hội của mình, vừa gần gũi vừa xa lạ. Bản sắc xã hội của cá thể có ñặc trưng là
toàn thể cái gì thuộc về mình trong hệ thống xã hội: giới tính, lứa tuổi, xã hội, quốc gia,
v.v.
Bản sắc cho phép cá thể nhận ra mình trong hệ thống xã hội và bản thân nó ñược
nhận trở lại về mặt xã hội. Song bản sắc xã hội không chỉ liên quan ñến cá nhân. Bản
sắc xã hội vừa bao gồm vừa loại trừ: nó vừa ñồng nhất hóa một nhóm (là thành viên
nhóm khi họ giống nhau trong một quan hệ nào ñó) vừa làm cho nhóm ñó khác với các
nhóm khác (các thành viên khác với nhóm kia trong cùng một quan hệ).
Ngày nay, bản sắc là vấn ñề của văn hóa. Người ta muốn thấy văn hóa ở khắp nơi,
ñồng thời muốn có bản sắc cho mọi người. Khủng hoảng văn hóa là khủng hoảng về
bản sắc. Phải chăng cần ñặt lại vấn ñề phát triển bản sắc trong khuôn khổ mô hình Nhà
nước yếu ñi, do mở rộng hội nhập chính trị siêu quốc gia và toàn cầu hóa về kinh tế?
Thực ra, mốt bản sắc gần ñây là kéo dài hiện tượng ủng hộ sự khác biệt xuất hiện từ
nh
ững năm 1970, là sự kiện ảnh hưởng khác biệt về ý thức hệ, thậm chí ñối nghịch
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 26 -
nhau. M
ột mặt người ta ñề cao xã hội ña văn hóa, mặt khác quan niệm “mỗi người có
chỗ của mình ñể vẫn là chính mình”. Văn hóa phần lớn thuộc về quá trình vô thức;
trong khi bản sắc thuộc về một chuẩn mực phụ thuộc, cần có ý thức, vì dựa vào các mâu
thuẫn mang tính biểu trưng.
Từ quan niệm khách quan/chủ quan ñến khái niệm quan hệ/hoàn cảnh của bản sắc.
Văn hóa ñược coi là “thiên nhiên thứ hai”, cho nên bản sắc là cái vốn có và không thể
xóa bỏ ñược. Cội nguồn là cơ sở của mọi bản sắc văn hóa. Nói cách khác, bản sắc là cái
có trước, nên cá thể phải bám chặt vào, nếu không muốn ở bên lề hoặc “mất gốc”. Bản
sắc ñược quan niệm là di sản sinh học thuộc gien di truyền [Van den Berghe, 1981], là
ñiều kiện nội tại của cá thể, dựa trên tình cảm thuộc về, mang tính bẩm sinh, ổn ñịnh.
Một tiếp cận khác thuộc về di sản văn hóa quan niệm cá thể gắn với tính xã hội
trong nhóm văn hóa của mình, thu nhận các mô thức văn hóa và tự nhận mình thuộc về
một nhóm gốc. Bản sắc cũng là cái có trước, bất biến. Bản sắc văn hóa – tộc người là
cái chủ yếu, cái thuộc về ñầu tiên và cơ bản nhất của xã hội, vì ñó là các quan hệ dựa
trên phả hệ chung [Geertz, 1963].
Các quan niệm trên ñược coi là “khách quan”, vì dựa trên nguồn gốc chung (di
truyền, phả hệ), có cùng ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, tâm lý cộng ñồng (“nhân cách cơ
bản”), lãnh thổ chung, v.v. Trái lại, quan niệm chủ quan coi bản sắc văn hóa không
thuộc tính tĩnh, bất biến hoặc chỉ ñược tiếp nhận một lần. Bản sắc văn hóa – tộc người
không phải cái gì khác hơn là tình cảm thuộc về, hoặc ñồng nhất với một cộng ñồng, ít
nhiều do trí tưởng tượng. Bản sắc phải là các biểu hiện mà cá nhân tạo ra từ thực tiễn xã
hội, do cá nhân lựa chọn tự do. Cách tiếp cận chủ quan ñáng chú ý ở tính biến ñổi của
bản sắc, song chỉ ở mức ñộ thoáng qua, trong khi không hiếm trường hợp bản sắc tương
ñối ổn ñịnh.
Do cách tiếp cận bản sắc thuần túy khách quan hoặc chủ quan ñều lâm vào bế tắc,
nên người ta ñặt nó vào bối cảnh quan hệ ñể giải thích tại sao bản sắc ñược xác lập hoặc
bị ñẩy lùi ở một thời ñiểm nào ñó. Fredrik BARTH [1969] là người tiên phong quan
niệm bản sắc là biểu hiện của quan hệ khi ñối chiếu nhóm này với các nhóm khác. Bản
sắc luôn ñặt trong hoàn cảnh quan hệ với người khác. Bản sắc ñi ñôi với khác biệt, nên
có thể quan niệm bản sắc là quá trình “ñồng nhất hóa” [Gallissot, 1987]. Còn theo
Simon [1999], bản sắc là quá trình ñiều ñình, thỏa hiệp giữa bản sắc “tự có” (auto-
identité) với bản sắc “khác” (hétéro-identité) hoặc bản sắc “ngoại lai” (exo-identité).
Ngoài ra, bản sắc còn ñược coi là cuộc ñấu tranh xã hội về “thứ hạng”
9
, tùy thuộc
vào vị trí, ảnh hưởng quyền lực trong hệ thống các quan hệ liên kết giữa các nhóm với
nhau. Bản sắc còn là công việc chính trị của Nhà nước hiện ñại. Ý thức hệ quốc gia hay
bản sắc dân tộc có khuynh hướng loại trừ các khác biệt văn hóa, làm cho các Nhà nước
hiện ñại có quan niệm tỏ ra cứng nhắc hơn so với các xã hội truyền thống, có khi gây
nên phản ứng trong các cộng ñồng dân tộc thiểu số.
Do vậy, ngày nay người ta còn ñề cập ñến bản sắc “ña chiều”, vì mỗi cá thể ý thức
bản sắc thay ñổi theo khuôn khổ, vị trí của nhóm tham chiếu trong một hoàn cảnh quan
hệ nào ñó, ngay cả khi hai cực tham chiếu của bản sắc ñặt ở cùng trình ñộ. Bản sắc chỉ
là tương ñối vì có thể biến ñổi, hoặc ñó là công cụ, phương tiện ñể ñạt mục ñích, nên
tùy hoàn cảnh xã hội mà có các chiến lược bản sắc linh hoạt. Bản sắc là một cấu trúc xã
hội, không ngừng chuyển ñộng: tự cấu trúc, tự giải cấu trúc và tự tái cấu trúc tùy theo
hoàn cảnh. Do vậy, bản sắc luôn là hệ quả của quá trình ñồng nhất hóa.
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
9
Theo giải thích của Pierre Bourdieu trong bài báo ñược xếp vào loại kinh ñiển “L’identité et la
représentation” [1980].
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 27 -
Khái ni
ệm văn hóa chính trị ñặt ra ñể các nhà nghiên cứu tìm hiểu chiều cạnh văn
hóa trong chính trị, chẳng hạn vấn ñề tính phổ quát về “quyền làm người” [Abou, 1992].
Khái niệm này ra ñời trong bối cảnh các nước thuộc ñịa giành ñược ñộc lập. Các Nhà
nước mới trong thế giới thứ ba hình thành cho thấy việc ñưa vào các thiết chế dân chủ
không ñủ bảo ñảm vận hành dân chủ. Nhà xã hội học tự hỏi về các cơ sở văn hóa của
nền dân chủ.
Mọi hệ thống chính trị xuất hiện ñều gắn với một hệ thống các giá trị và các biểu
hiện – nói khác ñi là văn hóa, về các ñặc ñiểm của một xã hội. Khái niệm văn hóa chính
trị lúc ñầu gần giống như khái niệm “tính cách quốc gia” xuất hiện trước ñó. Thành
công của khái niệm văn hóa chính trị là nhờ ñịnh hướng so sánh. Chẳng hạn, hiểu ñược
cái gì là thuận lợi hoặc cản trở việc vận dụng thiết chế hiện ñại một cách hiệu quả; phân
tích so sánh ñể thấy rằng chính trị không tồn tại theo cách phổ quát.
Hai nhà nghiên cứu Mỹ, Gabriel ALMOND và Sidney VERBA [1963] ñã so sánh
năm nước (Mỹ, Anh, ðức, Ý và Mêhicô), bắt ñầu từ việc phân tích các hình thức ứng
xử chính trị khác nhau. Họ lập bảng phân loại các văn hóa và các cấu trúc chính trị có
chức năng phù hợp: văn hóa “xóm ñạo”, tập trung vào các lợi ích ñịa phương, tương
ứng với cấu trúc chính trị truyền thống và giải trung ương hóa; văn hóa “lệ thuộc”, duy
trì tính thụ ñộng ở cá thể, tương ứng với cấu trúc dựa trên quyền lực; và cuối cùng là
văn hóa “tham dự” ñi ñôi với cấu trúc dân chủ. Cả ba mô thức văn hóa nói trên có thể
cùng tồn tại, nhưng tùy theo mô hình thống trị thích ứng nhiều hay ít, và cấu trúc vận
hành có thể giải thích hệ thống chính trị ñáp ứng mức ñộ nào, ñặc biệt là các thiết chế
dân chủ.
Ngành nhân học chính trị phát triển dẫn ñến việc xem xét lại tư tưởng khác nhau của
các nhà chính trị trong mỗi xã hội. Các quan niệm về quyền lực, luật pháp, trật tự khác
nhau một cách sâu sắc, vì ñược xác lập trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ
thống văn hóa. Khi tìm hiểu ý nghĩa các hoạt ñộng chính trị trong một xã hội, không
tránh khỏi tham chiếu toàn thể hệ thống các ý nghĩa thuộc về văn hóa của xã hội ñó.
VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN LÝ
Khái niệm văn hóa doanh nghiệp xuất hiện ñầu tiên ở Mỹ từ những năm 1970, nhằm
nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố nhân văn trong sản xuất. Cú sốc về “tinh thần” và
khó khăn trong quan hệ do hệ quả từ việc hợp nhất, tập trung các xí nghiệp xảy ra trước
thời kỳ tăng trưởng kinh tế, khiến người ta nghĩ ñến những khái niệm mới ñể vận hành
doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp không phải là một khái niệm ñể phân tích, mà ñể hợp thức
hóa tổ chức lao ñộng trong mỗi xí nghiệp. Việc sử dụng khái niệm này giúp giới chủ
doanh nghiệp một phương tiện chiến lược ñể ñạt ñến sự ñồng tâm, thái ñộ trung thành
và hiệu quả của người lao ñộng gắn với các mục tiêu của doanh nghiệp. Nói cách khác,
chấp nhận làm việc là chấp nhận văn hóa doanh nghiệp.
Tuy nhiên, quan niệm về văn hóa theo nghĩa hẹp của dân tộc học gây ra nhiều tranh
cãi, vì ñó là một thế giới khép kín, hầu như không thay ñổi, tạo nên vẻ bề ngoài của một
tập thể ñồng nhất về thái ñộ và cách thức ứng xử của cá nhân, trong các phạm vi giới
hạn. Văn hóa doanh nghiệp ñòi hỏi các thành viên chấp nhận hệ thống các biểu hiện và
các giá trị của tổ chức.
ðối với các nhà xã hội học, họ không cần ñến khái niệm “văn hóa doanh nghiệp”
mà ñề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vấn ñề văn hóa trong xí nghiệp. Họ phân tích về một
thế giới văn hóa không ñồng nhất giữa các loại lao ñộng khác nhau, giống như bên
ngoài xã hội. Người lao ñộng ñưa vào doanh nghiệp văn hóa nghề nghiệp, văn hóa giai
c
ấp (văn hóa công nhân), về cơ bản không phụ thuộc doanh nghiệp nào. Văn hóa doanh
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 28 -
nghi
ệp không tồn tại ngoài các cá thể của doanh nghiệp. Nó không có trước, mà ñược
xây dựng trong quan hệ tương tác lẫn nhau.
Renaud Sainsaulieu [1977] chứng minh rằng có thể xác ñịnh các sơ ñồ ứng xử văn
hóa khác nhau cùng tồn tại và ñan xen trong cùng một doanh nghiệp, tùy theo loại nghề
nghiệp – xã hội có trình ñộ chuyên môn cao thấp. Michel de Certeau [1980] mô tả thực
tiễn “làm lén” trong doanh nghiệp. Hiện tượng làm lén chỉ xảy ra khi có sự thông ñồng
với các thành viên khác của nhóm, tức là chỉ khi nào văn hóa chung gắn các thành viên
cùng nhóm lại với nhau. Cho nên, theo ông, làm lén là một biểu hiện văn hóa của nhóm.
Văn hóa doanh nghiệp hình thành không hẳn từ các quyết ñịnh ñộc ñoán, mà nhờ
phức hợp tương tác giữa các nhóm, các yếu tố xã hội cấu thành doanh nghiệp. ðể ñịnh
nghĩa văn hóa doanh nghiệp, phải bắt ñầu từ các tiểu văn hóa của nhóm là các bộ phận
của doanh nghiệp. Các tiểu văn hóa này bảo ñảm công việc vận hành hàng ngày, nhịp
ñộ lao ñộng, quan hệ lao ñộng, nghĩ ra các giải pháp kỹ thuật cho sản xuất của doanh
nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp nằm ở giao ñiểm của các tiểu văn hóa hiện diện trong
doanh nghiệp. Các tiểu văn hóa này không nhất thiết phải hòa hợp với nhau, vì không
thể không có va chạm khi tiếp xúc lẫn nhau.
Mặt khác, nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp không thể ñộc lập với môi trường xung
quanh. Doanh nghiệp càng hiện ñại, càng phụ thuộc vào môi trường, cả về phương diện
kinh tế lẫn phương diện xã hội và văn hóa. Nói cách khác, văn hóa doanh nghiệp không
thể thu hẹp một cách giản ñơn là văn hóa tổ chức. Bằng nghiên cứu so sánh, có thể
chứng minh các doanh nghiệp như nhau, xây dựng ở các nước khác nhau, ñược vận
hành theo các hệ thống văn hóa khác nhau.
VĂN HÓA DI DÂN VÀ VĂN HÓA GỐC
“Văn hóa di dân” xuất hiện ở Pháp vào những năm 1970. Theo Abdelmalek Sayad
[1978], người ta quan tâm các ñiều kiện hội nhập, các hậu quả khác biệt văn hóa, trong
ñó văn hóa của người nhập cư nói chung có bị ñồng hóa theo cách loại trừ văn hóa gốc
hay không?
Thực ra, văn hóa không phải là hành lý mang theo khi di chuyển. Khái niệm văn hóa
gốc còn có những bất tiện khác, vì khó nhận ra “nguồn gốc” nào? quốc gia, vùng, ñịa
phương, dân tộc, xã hội? Có thể chỉ ra văn hóa của nhóm gốc mà người di dân thuộc về
trước khi di dân. Hơn nữa, các cấu trúc xã hội và gia ñình của nhóm gốc di dân xuất
phát từ một nước còn cho phép giải thích các khác biệt về cách thức hội nhập và giao
lưu văn hóa trong xã hội tiếp nhận.
Văn hóa không phải là cái “vốn có” (donné) mà là cái “ñang là” (construit). Việc di
truyền văn hóa không phụ thuộc vào tính di truyền, cũng không thuộc về “di sản” truyền
từ ñời này sang ñời khác. Văn hóa luôn ñược tạo thành và tiến triển trong các quan hệ
với bối cảnh xã hội xung quanh và các biến ñổi của nó.
Theo Dominique Schnapper [1974], những người di dân gốc Ý ở Pháp và ở Mỹ phát
triển rất khác nhau. Mỹ là nơi tồn tại mô hình ña văn hóa, chấp nhận một loại “liên bang
văn hóa”, nên người nhập cư gốc Ý phát triển rất sống ñộng, với những khu phố “tiểu
Ý” trong các không gian ñô thị. Ngược lại, Pháp là nơi theo mô hình “tập trung văn
hóa” nhằm ñồng hóa người nước ngoài nhập cư, nên người di dân gốc Ý phải chấp nhận
các phương thức ứng xử xã hội trong phạm vi công như người Pháp; cho nên, họ phải
tập trung trong phạm vi riêng của gia ñình ñể cố gắng duy trì truyền thống Ý, tất nhiên
không tránh khỏi một số biến ñổi.
Các di dân không gắn bó với các tập quán văn hóa truyền thống như nhau. Tuy
nhiên, thế nào là “văn hóa truyền thống”? Văn hóa truyền thống không tồn tại tự thân.
Chúng ch
ỉ tồn tại trong quan hệ với một trật tự xã hội nào ñó làm cơ sở cho các quan hệ
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 29 -
xã h
ội và hình thành các quan hệ xã hội mà chúng biểu hiện. Trong khi ñó, các cá thể lại
không có cùng ñịa vị trong các quan hệ xã hội này, nên không thể có cùng lợi ích ñể
duy trì truyền thống. Một truyền thống chỉ có ý nghĩa trong một bối cảnh xã hội riêng.
Nếu bối cảnh ấy thay ñổi và giả như người ta bất chấp vẫn cố gắng duy trì truyền thống
cũ, thì lúc ñó không tránh khỏi việc giải thích lại truyền thống theo bối cảnh mới. Nếu
bối cảnh không còn như trước nữa, thì chức năng của truyền thống cũng không thể như
cũ ñược.
Tuy nhiên, cũng giống như các dân tộc lưu tán và khái niệm văn hóa dân tộc lưu
tán, cái tạo ra mối liên hệ ñoàn kết bên trong và bên ngoài của các nhóm khác nhau cấu
thành dân tộc lưu tán là ý thức chung về bản sắc thuộc về bản chất tộc người; họ tham
gia các biểu hiện của cộng ñồng lưu tán, vì qua ñó sẽ tạo ra thực thể cùng chia sẻ một
lịch sử và cùng một văn hóa. Cho nên, không thể có dân tộc lưu tán nếu như không có
một ký ức cộng ñồng không ngừng ñược khích lệ [Denys CUCHE, 2004]. Nếu vậy, phải
chăng văn hóa di dân và khái niệm văn hóa gốc cũng tồn tại ý thức về một bản sắc dân
tộc trong các cộng ñồng, với các ñặc trưng văn hóa và lịch sử. Dân tộc trong trường hợp
này không chỉ là một thực thể trong ký ức hoặc trên danh nghĩa, mà còn ñược thúc ñẩy
mạnh mẽ bởi các hoạt ñộng cộng ñồng tồn tại sống ñộng trên thực tế.
Trần Ngọc Khánh Văn hóa ñô thị giản yếu
- 30 -
Lewis Mumford
(1895-1990)
CHƯƠNG 2
Văn hóa ñô thị như một ngành khoa học
VĂN HÓA ðÔ THỊ
Từ ñầu thế kỷ XX, nhiều công trình nghiên cứu về ñô thị xuất hiện. Cho ñến thời kỳ
này, trong khi các nhà không tưởng vẫn loay hoay tìm kiếm một mô hình ñô thị thích
hợp, tạo nên môi trường sống tiện ích cho con người, thì một số các nhà khoa học chịu
ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa sinh học, công trình Nguồn gốc các loài [1859] của
Charles DARWIN ñã bắt ñầu vận dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, về nguồn gốc của
xã hội loài người (Morgan, Engels), về sự phát triển của kỹ thuật qua các thời ñại văn
minh, về các hình thái phát triển của ñô thị trong lịch sử… ði ñầu là các nhà khoa học
chịu ảnh hưởng của trường phái mác-xít.
Bên cạnh ñó, trong thời kỳ này còn có một loạt các công trình khác nghiên cứu về
ñô thị, ñáng kể nhất là sự xuất hiện trường phái xã hội học ñô thị Chicago ở Mỹ vào
những năm 1920 và 1930; trong khi ngành ñịa lý cũng hướng vào các lĩnh vực nghiên
cứu về môi trường sinh thái và nhân văn như Paul Vidal de La Blache.
Patrick GEDDES (1854-1932), nhà tư tưởng xã hội và quy hoạch ñô thị người
Scotland, với công trình Thành thị ñang tiến hóa [Cities in Evolution, 1915:46]. Theo
ông, tiến hóa ñô thị vẫn chỉ bắt ñầu và tồn tại ở các thành thị chưa từng ñược xây dựng
lại. Geddes là người ñầu tiên nêu ra ý tưởng ñô thị liên hợp (conurbations) trước các
hiện tượng phát triển công nghiệp và ñô thị ở Anh. Geddes có thể ñược coi là người ñầu
tiên ñặt nền móng xây dựng ngành học. Công trình của Geddes ñã ñể lại nhiều ảnh
hưởng ñối với Lewis Mumford sau này.
Lewis MUMFORD (1895-1990) có lẽ và cần ñược tôn
vinh là cha ñẻ của ngành học Văn hóa ñô thị. Mumford xuất
bản công trình Văn hóa ñô thị (The Culture of Cities, 1938)
cùng với một loạt hàng chục công trình ñồ sộ khác có liên
quan về ñô thị như Kỹ thuật và văn minh (Technics and
Civilization, 1934), Thành thị trong lịch sử (The City in
History, 1961, giải thưởng sách quốc gia), Kỹ thuật và Phát
triển Nhân văn (Technics and Human Development, 1967),
v.v.
Bên cạnh ñó, nhiều tác giả uy tín nước ngoài còn có những
công trình lớn về lịch sử ñô thị, coi ñô thị như là một hệ thống
thế giới, phát triển theo các quy luật tất yếu của xã hội loài
người như Pierre GEORGE (1909-2006), nhà ñịa lý nhân văn
người Pháp, với hàng loạt công trình trong nửa cuối thế kỷ
XX, trong ñó có Thành thị, sự kiện ñô thị khắp thế giới [La Ville, le fait urbain à travers
le monde, 1952], v.v.
Tuy nhiên, văn hóa ñô thị trên thế giới vẫn chưa ñược coi là một ngành học, mặc dù
có nhiều ngành học khác nhau ngày càng quan tâm nghiên cứu ñô thị. ðầu tiên là các
nhà sáng lập xã hội học thuộc trường phái Chicago tỏ ra nhạy cảm ñối với lĩnh vực văn
hóa trong các quan hệ xã hội. Họ chịu ảnh hưởng của nhân học văn hóa Mỹ, chú ý ñặc
biệt vấn ñề di dân ñầu thế kỷ XX; nghiên cứu các “cộng ñồng” ñô thị những năm 1930.
Gần ñây, trong các ngành khoa học xã hội truyền thống, ñã xuất hiện các chuyên
ngành ñô thị như xã hội học ñô thị, nhân học ñô thị, ñịa lý học ñô thị và bước ñầu ñã
xu
ất hiện ngành ñô thị học. Riêng ñối với ngành ñịa lý, do khuynh hướng gắn với các