Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo trong tư tưởng đạo đức hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.24 KB, 164 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN TH HNG DOAN
VấN Đề Kế THừA, PHáT TRIểN MộT Số PHạM TRù
CƠ BảN CủA ĐạO ĐứC NHO GIáO TRONG
TƯ TƯởNG ĐạO ĐứC Hồ CHí MINH
Chuyờn ngnh : CNDVBC & CNDVLS
Mó s : 62 22 80 05
LUN N TIN S TRIT HC
Ng i h ng d n khoa h c: 1. PGS.TS NGUYN TH NGA
2. GS.TS NGUYN HNG HU
H NI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các tài liệu trích dẫn sử dụng trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết luận khoa học rút ra
trong luận án là kết quả tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc của bản
thân tác giả luận án.
Tác giả
Nguyễn Thị Hồng Doan
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
5
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức nho giáo
5
1.2. Những công trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
và sự kế thừa, phát triển đạo đức nho giáo trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh


14
Chương 2: MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
24
2.1. Nội dung một số phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo ở Trung Quốc
24
2.2. Nội dung một số phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo ở Việt Nam
46
Chương 3: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU
CỦA VIỆC KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN MỘT SỐ PHẠM TRÙ
CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
70
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc kế thừa, phát triển một số
phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh
70
3.2. Những nội dung chủ yếu của việc kế thừa, phát triển một số phạm trù
cơ bản của đạo đức nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
87
Chương 4: Ý NGHĨA RÚT RA TỪ VIỆC KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN MỘT
SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
121
4.1. Ý nghĩa lý luận rút ra từ việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ
bản của đạo đức nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
121
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của một số phạm trù cơ bản trong đạo đức nho
giáo được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển đối với việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay
125

KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách mạng
vẻ vang, một sự nghiệp văn hoá đồ sộ mà qua cuộc đời đầy gian khổ hy sinh,
vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ của mình,
Người còn để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản lớn, đó là tư tưởng và
tấm gương đạo đức sáng ngời của người cách mạng, tượng trưng cho những
gì cao đẹp nhất trong tâm hồn, ý chí, nhân cách Việt Nam.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một vĩ nhân, không chỉ ở tầm dân
tộc, mà ở tầm thời đại, tầm nhân loại. Trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 77 năm
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đánh giá:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm chất và
khí phách của dân tộc ta, Đảng ta. Giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là yêu cầu cấp bách hiện nay, vừa là
nhiệm vụ cơ bản lâu dài” [75, tr.4]. Có thể nói rằng, cả cuộc đời Hồ Chí Minh là
một bài học lớn về đạo đức cách mạng mà ngày nay mỗi người Việt Nam nói
chung và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng cần học tập và noi theo.
Hiện nay, Đảng ta xác định: sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên biểu hiện tập trung ở tình trạng
tham nhũng đang làm băng hoại nền đạo đức xã hội, băng hoại truyền thống
nhân văn của dân tộc, đang là thách thức lớn nhất của công cuộc đổi mới đất
nước, là nguy cơ đe doạ sự sống còn của chế độ ta, đang làm mất thanh danh
uy tín của Đảng, Nhà nước, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào

chế độ xã hội. Bên cạnh đó những thang bậc đạo đức xã hội đang có chiều
hướng suy thoái, lối sống theo chủ nghĩa cá nhân chưa bị ngăn chặn , trong
bối cảnh đó đạo đức trong sáng, thanh tao của Hồ Chí Minh lại càng có ý
nghĩa thực tiễn vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác dạy và việc Bác làm, hơn
lúc nào hết cần lắm ở mỗi cán bộ, đảng viên những việc làm gương mẫu dù là
nhỏ còn gấp ngàn lần những lời nói suông.
2
Nho giáo được truyền nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, trải qua
hơn hai ngàn năm tồn tại và phát triển, nó đã được Việt Nam hoá theo tinh
thần của người Việt. Nho giáo đã trở thành một học thuyết đạo đức - chính trị
xã hội ăn sâu vào tâm tưởng của người Việt Nam. Những thang bậc đạo đức
của Nho giáo, cùng với thời gian được lớp lớp các thế hệ người Việt Nam tiếp
thu và phát triển.
Học thuyết Nho giáo đã đến với Hồ Chí Minh trong diện mạo hoàn chỉnh
của một hệ tư tưởng chính trị - đạo đức đã được Việt hoá. Hồ Chí Minh là người
ý thức hơn ai hết sự gắn bó của Nho giáo trong đời sống của người Việt.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, tư tưởng Nho giáo
là hệ tư tưởng sâu sắc về lòng nhân ái, đã thấm nhuần vào Hồ Chí Minh từ
tấm bé, hình thành nên ở Hồ Chí Minh một trật tự gia phong, một kỷ cương
xã hội, một tinh thần thượng quốc, thương dân. Những tư tưởng đạo đức về:
Nhân, Nghĩa, Lễ , Trí, Tín, Trung, Hiếu, Cần, Kiệm, Liêm, Chính đã được
Hồ Chí Minh tiếp thu, phát triển và trở thành chuẩn mực sống của Người.
Nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta nhận thấy, trong nhiều tác phẩm, bài
nói, bài viết của Hồ Chí Minh, dấu ấn Nho giáo hiện lên rất đậm nét. Hồ Chí
Minh đã có thái độ như thế nào đối với Nho giáo? Với tinh thần Hồ Chí Minh,
chúng ta có thể tiếp thu được những nhân tố tích cực nào của đạo đức Nho
giáo trong sự nghiệp đổi mới hôm nay? Với tinh thần Hồ Chí Minh, những
phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo có ý nghĩa lý luận và thực tiễn như thế
nào đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong giai đoạn hiện nay?

Bản thân tác giả nhận thấy đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng,
mang tính thời sự cấp thiết trong việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Cũng bởi ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề này nên tác giả chọn:
“Vấ n đề kế thừ a, phát triể n mộ t số phạ m trù cơ bả n củ a đạ o đứ c Nho giáo
trong tư tư ở ng đạ o đứ c Hồ Chí Minh” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mụ c đích
- Phân tích sự kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức
Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó rút ra ý nghĩa lý luận và
thực tiễn của việc kế thừa, phát triển đó đối với việc giáo dục đạo đức, lối
sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệ m vụ
- Tổng quan các công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo; các công
trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và sự kế thừa, phát triển
đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Phân tích, làm rõ một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo ở
Trung Quốc và Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng và nội dung chủ yếu của
việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Phân tích ý nghĩa rút ra từ việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ
bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Sự kế thừa, phát triển số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
Đạo đức Nho giáo là một hệ thống đồ sộ và phong phú, trong luận án chỉ

tập trung phân tích những phạm trù đạo đức tiêu biểu được Hồ Chí Minh kế
thừa, phát triển như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Cần, Kiệm,
Liêm, Chính và ý nghĩa của những phạm trù đó đối với việc giáo dục đạo đức,
lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luậ n củ a luậ n án
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về
đạo đức và về việc kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại cùng những giá
trị truyền thống của dân tộc, đồng thời luận án cũng kế thừa có chọn lọc kết quả
các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã công bố liên quan tới đề tài.
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u củ a luậ n án
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mác xít, đặc biệt là phương
pháp lịch sử - lôgic, so sánh - đối chiếu, phân tích - tổng hợp, khái quát hoá…
để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án hệ thống hóa lại các phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo có
ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Luận án chỉ ra được sự kế thừa, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh
đối với đạo đức Nho giáo và cách cách tiếp cận khoa học của Người.
- Luận án nêu được ý nghĩa rút ra từ việc kế thừa, phát triển một số phạm trù
cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những vấn đề luận án đề cập, giải quyết góp phần làm sáng tỏ việc
nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Nho giáo và sự ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo đối với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Luận án sau khi hoàn thiện có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục

vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về đạo đức Nho giáo và đạo đức Hồ
Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
Nho giáo ra đời trong bối cảnh đất nước Trung Hoa có nhiều biến động
và tự thân Nho giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử. Mục đích
của Nho giáo là mong muốn xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị có trật tự
kỷ cương, nề nếp. Nho giáo chủ trương lấy Đức trị làm phương thức cai quản
đất nước, vì vậy, Nho giáo đã xây dựng được hệ thống các phạm trù đạo đức,
đề cao việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, xây dựng các mối quan hệ phù hợp với
những chuẩn mực đạo đức. Xét về mặt ý thức hệ, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu
đậm của tư tưởng phong kiến Trung Quốc, mà nền tảng là Nho giáo.
Đạo đức Nho giáo, bên cạnh một số yếu tố tích cực, vẫn chứa đựng
không ít những yếu tố tiêu cực mà cho đến nay còn ảnh hưởng khá nặng nề
trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta. Trong nhiều năm trở lại
đây, Nho giáo và đạo đức Nho giáo đã được nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu, được đánh dấu bởi các công trình nghiên cứu sau:
Nhóm công trình luận giải nguồn gốc, nội dung của Nho giáo và hệ
thống những yêu cầu đạo đức của Nho giáo, có thể kể tới một số công trình
tiêu biểu sau:
Trong “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu [10]. Tác giả trình bày,
phân tích những tư tưởng cơ bản của Nho giáo trong quá trình hình thành và
phát triển. Qua đó, khi đánh giá, nhận xét về Nho giáo tác giả đã nêu bật và đề
cao những nhân tố tích cực của Nho giáo và cho rằng đạo đức Nho giáo có vai

trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức con người và đóng góp trong việc ổn
định trật tự xã hội.
- “Nho giáo” của Trần Trọng Kim [57]. Trong tác phẩm này, tác giả đã
nói rõ về nguồn gốc ra đời và phát triển của Nho giáo ở Trung Quốc qua các
6
thời kỳ lịch sử cùng nội dung và hệ thống tư tưởng đạo đức chủ đạo của Nho
giáo như: Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ Tác giả nêu rõ, trong quan niệm về
Nhân, Khổng Tử cho rằng: Nhân là yêu người (ái nhân); là điều gì mình
không muốn ai làm cho mình thì không nên làm cho ai; là sửa mình trở lại
theo lễ là Nhân . Khổng Tử dùng chữ Nhân làm tư tưởng chủ đạo xuyên
suốt trong hệ tư tưởng đạo đức của mình. Đến Tuân Tử cũng theo tông chỉ
của Nho giáo lấy Nhân, Nghĩa dạy người. Song Tuân Tử chỉ hiểu cái nghĩa
hẹp của Nhân là ái mà thôi, tức chỉ đơn thuần là một đức tính tốt nói về lòng
yêu thương người.
Tác giả cũng nói đến sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam qua sự đại
diện của những nhà Nho ở từng thời kỳ lịch sử. Tác giả kết luận về cách tiếp
nhận Nho giáo của người Việt phải nên biến đổi luôn song, biến đổi phải lấy
gì làm gốc, để cho sự biến đổi của mình có căn bản mà nghĩa lý vẫn không
mất. Nói theo Nho giáo là theo cái tinh thần cường kiện, đem cái tư tưởng của
ta vượt lên đến cái lý nguyên thủy, rồi cùng với vũ trụ mà lưu hành, mà tạo
tác ra một cuộc nhân sinh có đủ nghị lực để đồng sinh, đồng hóa với vạn vật,
biết tùy thời mà ứng biến, nhưng không quên cái gốc cũ, để thành một hạng
người có nhân cách tôn quý, có lòng nhân từ bác ái, có cái sức mạnh mẽ để
cùng với thiên hạ mà sinh tồn, mà xây đắp thêm một vài viên gạch viên đá
vào cái nền chung nhân loại. Tuy vậy, tác giả mới trình bày những nét khái
quát nhất, chưa đi sâu phân tích nội dung và quá trình tiếp biến của Nho giáo
Việt Nam.
- “Khổng giáo và phê bình tiểu luận” của Đào Duy Anh [1]. Trong tác
phẩm này, tác giả nhận định, muốn biết rõ chân tướng Khổng giáo ta phải đặt
Khổng Tử vào xã hội đương thời để thấy rằng dẫu là bậc thánh nhân cũng

không thế vượt ra ngoài không gian và thời gian mà lập túc được. Vì tư tưởng
của Khổng Tử không đơn giản như một người dung phàm, vì vậy, chúng ta
không những không nên phủ nhận mà cần nhận rõ chân những điều phức tạp
mâu thuẫn của ông. Nghĩa là, chúng ta phải quan sát sự nghiệp và học thuyết
7
của ông bằng con mắt biện chứng mới khỏi thất chân. Từ quan điểm đó, tác
giả đi vào nghiên cứu: sự xuất hiện và chân tướng của Khổng giáo; Vì sao
Khổng giáo tồn tại được hơn hai nghìn năm? Kết quả Khổng giáo ở Trung
Quốc và Việt Nam; Khổng giáo gặp văn hóa phương Tây ở Trung Quốc và ở
nước ta; Khổng giáo không thể tồn tại ở xã hội ta ngày nay, vì vậy thái độ của
chúng ta với Khổng giáo như thế nào?
Qua những phần nghiên cứu trên tác giả đã đưa ra phương pháp khoa
học để nhìn nhận và đánh giá Khổng giáo một cách công bằng. Cho dù hiện
nay, nó không còn thích hợp nữa, song không thể phủ nhận công dụng và sự
nghiệp của nó trọn vẹn ở trong lịch sử, không ai có thể chối cãi hay xóa bỏ đi
được. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu ban đầu về
những ưu và nhược điểm của Khổng giáo đối với xã hội nước ta.
- “Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu” của Cao
Xuân Huy [50]. Trong cuốn sách này, người soạn đã dành hẳn phần III với
tiêu đề “ Đề cương bài giảng triết học cổ đại Trung Quốc” là nội dung nghiên
cứu về Nho giáo của tác giả. Những bài giảng này là chuyên đề triết học
phương Đông được trình bày tại Viện Văn học năm 1962 - 1963. Tác giả tập
trung đi vào nghiên cứu về xã hội và tư tưởng cổ đại Trung Quốc; về Khổng
Tử và nội dung học thuyết của ông. Tác giả chỉ ra tư tưởng chính trị - xã hội,
nhân sinh quan của Khổng Tử thông qua các sách Luận ngữ và Trung dung.
Khi bàn về “Nhân” của Khổng Tử, tác giả cho rằng hai chữ “trung” và “thứ”
chưa phải là bản thể của chữ “nhân”. Đặc biệt, tác giả nêu được những mâu
thuẫn nội tại trong chữ “nhân” của Khổng Tử, vì xuất phát từ một tâm lý phổ
cập (tính tương cận) mà lại quy kết ở một lý tưởng cao nhất, cần phải một đại
thánh mới thực hiện nổi. Tiếp theo, vì chữ “nhân” đã là thuộc tính phổ cập, thì

đáng lẽ nó là siêu giai cấp, nhưng nó lại gắn liền với chữ “Lễ”, mà “Lễ” lại là
chính trị tôn giáo hóa của giới quý tộc. Những mâu thuẫn nội tại này đều bắt
nguồn từ tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” và lập trường điều hòa mâu thuẫn
của Khổng Tử. Quả là những nhận xét có giá trị!
8
Song, cuốn sách mới chỉ dừng lại những nghiên cứu chung về thế giới
quan, tư tưởng chính trị - xã hội của các nhà nho, còn phần nhân sinh quan
mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu bước đầu (nói về Nhân, nói ít về Trung,
và không thấy đề cập đến các phạm trù đạo đức khác).
-“Bàn về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện [145]. Qua việc trình bày
những luận điểm về: ông quan và kẻ sĩ, người tiểu nông và quan lại, đời sống
làng xã và Nho sĩ, nhân - nghĩa - lễ, nho sĩ quan lại và nho sĩ bình dân tác
giả đã đồng thời nêu lên mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của Nho giáo.
Khi đánh giá những mặt tích cực, tác giả cho rằng đạo Nho đã đóng một vai
trò quan trọng trong việc hình thành lòng yêu nước. Nói về những điều tâm
đắc của mình khi nghiên cứu, tìm hiểu Nho giáo, tác giả đánh giá cao tính vừa
phải, không thái quá trong đạo làm người của Nho giáo và vấn đề ứng xử của
Nho giáo đối với các mối quan hệ trong xã hội.
Từ đó, tác giả kết luận, thích cái tinh thần có mức độ, ứng xử vừa phải
của đạo Nho. Không cường điệu lên là yêu hết mọi người ngang nhau, mà bảo
phải yêu bố mẹ mình, vợ con mình đã rồi mới đến yêu người khác. Lấy ân
báo ân nhưng cũng không đến mức lấy ân báo oán, mà báo oán thì lấy công
bằng mà xử lý, nhận rõ điều gì là phi pháp, nhưng không nhẫn tâm đến mức đi tố
cáo bố mẹ mình với nhà chức trách. Vì cao hơn pháp luật là tình người, là lòng
nhân. Đó chính là những nhận định có giá trị mà tác giả đã lột tả thành công.
Xuất phát từ kinh nghiệm của một số nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo
đã đạt được một số kết quả khả quan về ổn định xã hội và phát triển kinh tế do
biết phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo. Từ công cuộc đổi mới hôm
nay, đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa
của dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu về Nho giáo Việt

Nam, nêu rõ ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực đạo đức, chính trị - xã hội,
hệ tư tưởng, văn hóa, giáo dục . Liên quan đến vấn đề này có:
- “Các bài giảng về tư tưởng phương Đông” của Trần Đình Hượu [54].
Phần 1: Tác giả trình bày về tư tưởng Nho gia và Lão Trang và lịch sử vận
9
động của các hệ tư tưởng này ở Trung Quốc. Phần 2: Nho giáo và Nho giáo ở
Việt Nam trình bày nội dung học thuyết Nho giáo, cơ sở kinh tế xã hội của
Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện đại. Đóng
góp của tác giả là đã thể hiện được sự hiểu biết sâu về kinh sử nên chỉ ra được
nguyên lý về sự phát triển của các hệ tư tưởng; từ các vấn đề chung của Nho
giáo góp phần soi sáng sự kiện đại cách mạng văn hóa, chủ nghĩa Mao hay
hiện tượng vươn lên của bốn con rồng Châu Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Nam
Triều Tiên, Đài Loan; soi sáng cả các vấn đề thực tế của Việt Nam như: làng
xã, tổ chức làng xã, bộ máy quan lại, đô thị và khởi nghĩa nông dân Những
trang viết về gia đình Nho giáo như: quan hệ giữa những người thân trong gia
đình, vấn đề thờ cúng tổ tiên, quan hệ họ hàng đều được tác giả trình bày
khoa học và hệ thống.
- “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu [60]. Cuốn sách là tập hợp các
bài viết của các nhà nghiên cứu về Nho giáo. Cuốn sách đề cập đến phương
hướng và phương pháp tiếp cận, nội dung và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt
Nam, Nho giáo và sự phát triển ở một số nước châu Á. Tiêu biểu là các bài
viết: “Hiện đại đối thoại với Nho giáo” của Bùi Đăng Duy, “Khổng giáo và
gia đình” của Quang Đạm, “”Nho giáo và văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc
Vượng . Tựu trung, cuốn sách đặt vấn đề: Nho giáo đã từng bao đời là hệ tư
tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng Trung Quốc, của nhiều nước
phương Đông và của Việt Nam. Nho giáo đã góp phần xây dưng một hệ thống
hành chính và quản lý xã hội bao gồm những người trí thức được đào tạo
công phu về kiến thức, về cách ứng xử xã hội, về phẩm chất kẻ làm quan.
Phải chăng Nho giáo còn có thể giúp ích gì, cả về mặt chính diện và phản diện
cho giới quản lý trong xã hội Việt Nam ngày nay?

Tác giả nhận định, trong lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam, đã từng
có sự đóng góp to lớn của nhiều nhà trí thức lỗi lạc, vẫn tự nhận là nhà Nho
như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát,
Nguyễn Đình Chiểu. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sử dụng nhiều
10
danh ngôn của Khổng Mạnh trong nhiều bài nói và viết của mình. Từ đó, tác
giả lập luận cần đánh giá như thế nào cho khoa học và đúng mức ảnh hưởng
của Nho giáo trong sự cống hiến của các nhà trí thức Việt Nam được gọi là
những nhà Nho ấy.
-“Nho giáo và đạo đức” của Vũ Khiêu [62]. Tác giả cho rằng: Nho
giáo không chỉ là một hệ tư tưởng chính thống trong kiến trúc thượng tầng,
mà còn ăn sâu vào đời sống thường ngày, chi phối ý nghĩ, tình cảm và hành vi
của các tầng lớp nhân dân. Thông qua những quy tắc chặt chẽ trong mọi quan
hệ xã hội, đạo đức Nho giáo có sức sống dai dẳng, kéo dài hàng nghìn năm
lịch sử.
Tác giả nêu vấn đề cần đánh giá đạo đức Nho giáo như thế nào cho
khách quan và khoa học? Và trong khi đánh giá lại Nho giáo, không thể một
chiều đề cao quá mức tư tưởng đạo đức của học thuyết này mà bỏ quên mặt
tiêu cực của nó trong giáo dục ràng buộc con người vào những nghi lễ hà
khắc. Nho giáo luôn luôn lấy khuôn mẫu của người đời xưa giáo dục đời nay:
“theo lịch nhà Hạ, đi xe nhà Ân, mang mũ miện nhà Chu, dũng nhạc Thiều
của vua Vũ” [62, tr.8]. Nho giáo khuyên răn con người ta bảo thủ và an phận;
Đạo đức Nho giáo đối lập với tinh thần bình đẳng và dân chủ giữa người với
người; Nho giáo đem Đức trị đối lập với Pháp trị
Từ nhận định đó, tác giả chỉ rõ: trước những mạnh yếu của đạo đức
Nho giáo, chúng ta có thể tiếp thu những gì để phục vụ sự nghiệp đổi mới đất
nước? Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín nếu được tước bỏ đi những yếu tố tiêu cực vẫn
đầy sức thuyết phục. Trong tu thân, Nho giáo có hàng loạt những lời răn dạy:
muốn tu thân trước hết phải giữ lòng dạ mình ngay thẳng. Việc trau dồi đức
hạnh phải được thực hiện bền bỉ, thường xuyên, theo đuổi đến cùng.

Xuất phát từ những nhận định trên, trong cuốn sách này, tác giả đã dày
công sưu tầm và ghi lại những câu trích của Nho giáo, chủ yếu là của Khổng
Mạnh. Cuốn sách có ý nghĩa quan trọng đối với những người nghiên cứu về
đạo đức Nho giáo. Song cuốn sách mới dừng lại ở việc nêu lên những câu
11
trích của Nho giáo về đạo đức chứ chưa có sự phân tích, đánh giá về những
câu trích đó.
- “Nho giáo tại Việt Nam” của Lê Sỹ Thắng [125]. Trong cuốn sách
này, có một số bài viết liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đối với con người và xã hội Việt Nam như:
+ “Vài nét về tinh thần chống ý thức hệ Nho giáo trong văn học dân
gian Việt Nam” của Bùi Văn Nguyên. Tác giả cho rằng: Tổ tiên ta chẳng cần
biết đến Nho giáo, biết đến thuyết chính danh, định phận, biết đến thuyết tam
cương, ngũ thường, mới biết thương cha, thương mẹ, thương vợ, thương chồng,
thương đồng bào dân tộc, mới biết kính trên nhường dưới. Trong quá trình lịch
sử, do sự giao lưu văn hóa hoặc do sự ngoại xâm tác động, những hệ tư tưởng
như Nho giáo đã du nhập nước ta. Quá trình tiếp thu và chống đối ý thức hệ Nho
giáo đó là một quá trình biện chứng dai dẳng, xen kẽ và phức tạp.
Về ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo tác giả quan niệm: dần dần những
khái niệm chủ quan của giai cấp thống trị phong kiến, như ở Trung Quốc và ở
ta là: trung hiếu, đi vào lĩnh vực tình cảm từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở
thành yếu tố của chủ nghĩa tình cảm, bất chấp mọi phân tích và chứng minh
của trí tuệ và khoa học.”.
Về ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong xã hội Việt Nam
hiện nay, tác giả cho rằng, trải qua thời gian, biết bao tàn dư và tác hại của ý
thức hệ Nho giáo, như tác hại về thuyết định mệnh, về lẽ trọng nam khinh nữ,
vốn nảy sinh từ thuyết tam cương .Và cùng biết bao nhiêu là tàn dư và tác hại
khác do ý thức hệ Nho giáo gây nên, có khi từ thời Triệu Đà đến mãi ngày nay.
+ “Ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam” của
Nguyễn Đức Quỳ: Tác giả cho rằng, tư tưởng Nho giáo có ảnh hưởng vô cùng

mạnh mẽ tới đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Những chuẩn mực
về đạo đức như: tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức đều bó hẹp con
người trong một khuôn phép vô cùng nghiệt ngã, đặc biệt với những ai không
tuân theo những chuẩn mực ấy. Tác giả cũng chỉ ra, ngày nay, ảnh hưởng của
12
mặt trái đạo đức Nho giáo vẫn còn dai dẳng trong đời sống nhân dân ở mọi
tầng lớp. Nó tác động tiêu cực tới suy nghĩ và hành động của một bộ phận
người trong xã hội thể hiện trên những bình diện: Nếp sống không thật sự dân
chủ; Đánh giá con người không đúng theo tiêu chuẩn; Coi thường phụ nữ và
vai trò của phụ nữ trong xã hội.
“Nhân dân Việt Nam dưới tác động của Khổng giáo” của Vũ Khiêu. Tác
giả phân tích, trong suốt một nghìn năm dưới ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc, hệ thống giáo lý Nho giáo đã trở thành phương tiện truyền tải
tinh thần rất độc hại mà giai cấp thống trị đã sử dụng để nô dịch quần chúng.
Lễ giáo phong kiến nước ngoài cùng những lời răn dạy của Khổng Tử dần đi
vào đời sống của nhân dân, song cũng gặp những phản ứng gay gắt. Nhân dân
ta dù đã phản ứng lại nội dung của “tam cương”, “ngũ thường” của Nho giáo,
nhưng những tàn dư, sự hà khắc của lễ giáo đạo Nho như sự khinh rẻ và coi
thường phụ nữ, trung quân một cách mù quáng là những nội dung mà cuộc
cách mạng văn hóa của chúng ta phải có trách nhiệm xóa bỏ.
+ “Vị trí và vai trò của Nho giáo ở thời kỳ cực thịnh của chế độ phong
kiến Việt Nam” của Nguyễn Đức Sự. Tác giả cho rằng: Nho giáo vốn gốc từ
Trung Quốc nhưng đã thâm nhập vào nước ta hàng ngàn năm. Nó đã chiếm
giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống tư tưởng và tinh thần của nhân dân
ta xưa kia và trở thành nòng cốt của hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam. Do đó,
nó đã ăn sâu vào toàn bộ sinh hoạt xã hội của nước ta trong nhiều thế kỷ.
Luận giải về cơ sở giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn và các phạm
trù đạo đức Nho giáo thâm nhập vào đời sống con người Việt Nam trong thời
kỳ thịnh trị của chế độ phong kiến Việt Nam, tác giả cho rằng: nền sản xuất
nhỏ tiểu nông đã tương đối phát triển ơ nước ta hồi thế kỷ 14 và 15 trở thành

cơ hội để cho Nho giáo dễ dàng thâm nhập vào đời sống. Bởi vì Nho giáo với
các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người gia
trưởng và tôn ty trật tự trong gia đình. Hơn nữa, suốt các triều đại Lý, Trần,
Lê, người nông dân Việt Nam tuy sinh hoạt trong gia đình nhưng không tách
13
rời những quan hệ xã hội của họ. Từ đó, tác giả kết luận: cho nên không phải ngẫu
nhiên mà thôn xã Việt Nam đã giành cho Nho giáo một chỗ đứng nhất định.
Tác giả nêu bật được những nét đặc thù và vị trí của Nho giáo trong thời kỳ
cực thịnh của nó. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra, Nho giáo ở Việt Nam lúc này
chủ yếu xoay quanh đạo tu thân và phép đối nhân xử thế, đạo trị bình thiên hạ,
nên nó không giải đáp được những vấn đề số phận con người, không cắt nghĩa
được sự bất hạnh và rủi ro cũng như không đáp ứng được yêu cầu giải thoát của
con người. Vì vậy, dù có chiếm được địa vị độc tôn và đạt tới đỉnh cao nhất của
sự thịnh trị thì Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn này vẫn không giữ nguyên bộ mặt
vốn có của nó như ở Trung Quốc. Nó đã thực sự thay hình, đổi dạng và được cải
biến cho thích hợp với mảnh đất và nhu cầu của xã hội Việt Nam.
- “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam” của GS. Phan Đại Doãn [17].
Ở đây, các tác giả đã phân tích rõ những nét cơ bản của tiến trình xác lập vị
thế và những thành tựu của Nho giáo Việt Nam trong chặng đường lịch sử từ
thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, mà đỉnh điểm của nó là thời Lê Thánh Tông
(1460 - 1497). Đây là thời kỳ Nho giáo Việt Nam chiếm địa vị độc tôn của
chế độ quân chủ chuyên chế ở nước ta.
Các tác giả chỉ rõ, cuối thế kỷ XIX, mặc dù Nho giáo Việt Nam ngày
càng suy tàn, không còn đáp ứng được yêu cầu của xã hội Việt Nam, nhưng
những thành tựu của nó về giáo dục, khoa cử, những yếu tố tiến bộ, hợp lý
của nó về xây dựng gia đình, xây dựng cộng đồng, tu dưỡng cá nhân, tinh
thần hiếu học, tôn sư trọng đạo vẫn cần được khai thác phát huy với hướng
gạn đục khơi trong, nối tiếp truyền thống nhằm góp phần tích cực vào công
cuộc xây dưng đất nước ngày một phát triển nhanh và bền vững.
Cuốn sách cũng nêu lên được Nho giáo khi vào Việt Nam không còn

giữ nguyên như ở Trung Quốc, nó đã được “Việt Nam hóa”. Các nhà nho Việt
Nam vì công cuộc xây dựng xã hội và bảo vệ Tổ quốc đã tiếp nhận và khai
thác những yếu tố Nho giáo cho phù hợp với xã hội và đất nước mình. Nói
một cách khác, các nhà nho Việt Nam nặng hơn về luân lý đạo đức, chủ yếu
14
là hiếu nghĩa, nặng về tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử. Bàn nhiều về đạo và
đức, về lễ và pháp, về quân tử và tiểu nhân, về trị và loạn Các nhà nho Việt
Nam đã đơn giản hóa và thực dụng hóa tư tưởng của Khổng, Mạnh, Trình,
Chu. Các vương triều và Nho sĩ Việt Nam đã tiếp nhận Nho giáo như một
công cụ tư tưởng để tổ chức xã hội, trước hết là ở các phương diện như: nhân
cách cá nhân, gia đình được củng cổ, xã hội và đất nước được ổn định. Các
nhà nho Việt Nam không bàn nhiều về lý luận phức tạp, mà chú trọng vào
củng cố nhân luân, hiếu đễ - những tư tưởng cơ bản của đạo đức Nho giáo.
- Hội thảo “Nho giáo ở Việt Nam” do Viện nghiên cứu Hán Nôm và
Viện Harvard - Yenching (Mỹ) phối hợp [147]. Các nhà khoa học Việt Nam
và các nhà khoa học đến từ các nơi trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc, Đài
Loan , đã thảo luận nhiều vấn đề xoay quanh các nội dung: Ảnh hưởng của
Nho giáo trong đời sống hiện nay; quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam;
ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam thời phong kiến; Tư
tưởng Nho giáo trong văn học và sử học thời phong kiến, . Các tham luận
về các vấn đề trên đều khẳng định: Nho giáo giữ một vị trí khá quan trọng
trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam và nó có ảnh hưởng sâu đậm đối
với con người và xã hội Việt Nam.
Các tác phẩm trên, bên cạnh việc phê phán những ảnh hưởng tiêu cực
của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng, nhiều tác giả đã đặt ra
vấn đề kế thừa và phát triển những giá trị tích cực của nó nhằm khắc phục
những mặt tiêu cực, góp phần xây dựng đạo đức mới ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Tuy nhiên nội dung của việc kế thừa đó mới chỉ dừng lại ở
những nghiên cứu bước đầu.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ

CHÍ MINH VÀ SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và sự kế thừa, phát triển
đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đã nhiều tác giả bàn
luận đến, có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau đây:
15
- “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh truyền thống dân tộc và nhân loại”,
của Vũ Khiêu [61]. Đây là công trình được xuất bản trong khuôn khổ chương
trình nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh (đề tài KX02). Công trình là tập
hợp các bài tham luận và bài phát biểu tại Hội thảo về nguồn gốc hình thành
và đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; về Hồ Chí Minh với các giá trị
và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Công trình tập trung vào nhận định: quá
trình hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một cuộc cách mạng trên lĩnh
vực đạo đức, nó thể hiện một thái độ khoa học đối với đạo đức cũ. Trên cơ sở
của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh đã gạt bỏ những cái đã lỗi thời, phát
huy những nhân tố tích cực của đạo đức cũ để xây dựng một kiểu đạo đức mới.
Đạo đức mới là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc, vì sự tiến
bộ của cả nhân loại, vì tự do và hạnh phúc của mỗi con người.
Công trình chỉ rõ: Từ những quan điểm đạo đức rất cơ bản, rất lớn đến
những nội dung đạo đức rất bình thường đều được Hồ Chí Minh trình bày rõ
ràng, ngắn gọn, giản dị, nhiều khi rất cô đọng và súc tích như những châm
ngôn. Giúp chúng ta tìm thấy những căn cứ đúng đắn nhất để xét người xét
việc và xem xét chính bản thân mình. Giúp chúng ta tìm thấy ở đây những
chuẩn mực để yêu hay ghét, trọng hay khinh, ca ngợi hay chê trách, tán thành
hay phản bác, và đặc biệt quan trọng là để phấn đấu và vươn tới những cái
cao đẹp nhất của con người. Đó là những vấn đề tư tưởng đạo đức được thể
hiện trong lời nói và bài viết của Người.
Trong công trình này, đặc biệt có hẳn một phần nội dung về Hồ Chí
Minh với học thuyết của Khổng Tử và tư tưởng đạo đức phương Đông. Đáng
chú ý là các bài: “Tư tưởng đạo đức ở Khổng Tử và Hồ Chí Minh” của Phan

Văn Các, “Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Nho giáo” của Nguyễn Đình
Chú, “Hồ Chí Minh và đạo đức Nho giáo” của Đặng Việt Bích, “Hồ Chí
Minh tiếp thu và không tiếp thu những gì ở Nho giáo” của Vũ Đăng Như
đều là những bài viết mang tính khoa học và có giá trị cao trong nghiên cứu
về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
16
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, của Thành Duy [19]. Đây là công
trình nghiên cứu công phu của tập thể các nhà khoa học đã có quá trình nhiều
năm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuốn sách được trình bày một cách
có hệ thống nguồn gốc, đặc trưng và những nội dung cơ bản của hệ thống tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nghiên cứu bản chất và nội dung tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, cuốn sách đã khẳng định tính phổ biến và giá trị
trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhằm quán triệt và vận dụng tư
tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức của Người trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Đặc biệt, cuốn sách đã trình bày một cách khoa học về tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do; tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng đất nước vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng và văn minh; tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong học tập,
tu dưỡng, rèn luyện con người mới; tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay của cách mạng nước ta Từ đó, khẳng định trên con
đường đi tới xã hội ngày mai, để có thể cùng năm châu khẳng định tương lai
tươi sáng của một xã hội phát triển kỳ diệu trong khoa học - kỹ thuật hiện đại,
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn luôn luôn là bó đuốc soi đường cho dân
tộc ta, cho nhân loại tiến bộ. Bởi lẽ, con người và hạnh phúc của con người
vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam” của Vũ Khiêu [64]. Trong tác
phẩm này, Vũ Khiêu đã đề cập đến vai trò của Nho giáo trên con đường cách
mạng và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam ngày nay. Người đại diện cho
sự vận dụng đầy tính biện chứng và khoa học đó là chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tác giả nhận định: Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà Nho,

được sống giữa một quê hương bao đời theo Nho học, lại được chứng kiến
những hành vi yêu nước và chống giặc đầy nhiệt tình và khí phách của nhân
dân. Trong hoàn cảnh ấy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những truyền thống đạo
đức của dân tộc thể hiện trong sinh hoạt của nhân dân và chứa đựng trong
nhiều câu chữ của Nho giáo.
17
Tác giả phân tích, Hồ Chí Minh chứng kiến sự bất lực của Nho giáo
trước chủ nghĩa đế quốc; Hồ Chí Minh thấy rõ được những ưu điểm, nhược
điểm của Nho giáo trước nhu cầu mới của đất nước và cũng chính Hồ Chí
Minh là người đã vận dụng thành công ưu điểm đó trong việc xây dựng nên
nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng.
Tác giả so sánh: Nếu như Nho giáo đặt vấn đề tu dưỡng đạo đức lên
hàng đầu “từ bậc thiên tử xuống tới hạng bình dân, ai nấy đều phải lấy tu thân
làm gốc” nhằm thực hiện một xã hội lý tưởng theo mô hình Nho giáo với sự
thống trị của “vua hiền, tôi giỏi” thì trong sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh
cũng coi “đạo đức là gốc” và đòi hỏi người cách mạng phải có bản lĩnh đạo đức.
Nếu Nho giáo coi thực hiện lý tưởng của mình là một nhiệm vụ rất khó khăn thì
Hồ Chí Minh cũng coi nhiệm vụ cách mạng là nặng nề, phức tạp và gian khổ.
Tác giả cũng cho rằng, trải qua hai cuộc kháng chiến đầy gian lao thử
thách, có thể nói Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng khá nhiều những kinh
nghiệm của Nho giáo vào việc giáo dục đạo đức và phát động tinh thần của
nhân dân nhưng sự vận dụng đó được nhìn dưới lăng kính của chủ nghĩa Mác
- Lê nin. Trong quá trình lịch sử này không thể bỏ qua sự đóng góp những lời
răn dạy được rút ra từ trong Nho giáo. Tuy nhiên, không phải để thực hiện
mục tiêu của Nho giáo mà để đi ngược lại mục tiêu ấy, hướng vào sự nghiệp
giải phóng cho tổ quốc và nhân dân.
Song sự phân tích của tác giả về vấn đề này mới dừng lại ở những nét
khái quát nhất, chưa đi sâu phân tích cụ thể trong cách vận dụng từng phạm
trù đạo đức của Nho giáo trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
- “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh” của Trần Văn Giàu

[41]. Tác giả đi sâu vào nghiên cứu những nền móng trang bị kiến thức và tư
tưởng của Hồ Chí Minh thời trẻ; những yếu tố tư tưởng được Hồ Chí Minh
tiếp cận ở Tây Âu trước khi gặp chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí
Minh được hình thành về cơ bản trong thời kỳ lịch sử 1920 - 1930; cách mạng
giải phóng dân tộc - là vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
18
Trong khi trình bày về các vấn đề trên, tác giả có lồng ghép về đạo đức
Hồ Chí Minh. Tác giả nhận định: Sự quan tâm thật nhiều đến đạo đức là đặc
sắc nổi bật nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho Cụ Hồ phân biệt với hầu
hết các nhà lãnh đạo cách mạng khác.
Để trả lời cho câu hỏi “Đạo đức học Hồ Chí Minh chủ yếu là gì?”, tác
giả viện dẫn câu trả lời của thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Học Cụ Hồ là học
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cụ Hồ kế thừa và phát huy cả một
truyền thống dân tộc về đức cần, kiệm” [41, tr.166]. Tác giả khẳng định: “Ở
Cụ Hồ nói và làm là một; chính đời sống, đời hoạt động của Cụ Hồ là một
pho sách lớn về đạo đức học, một mạch nước ngầm từ lòng trái đất, trong
veo, vô tận” [41, tr.167].
- “Thử tìm mối quan hệ giữa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tư
tưởng đạo đức Nho giáo” của Nguyễn Bình Yên [151]. Tác giả đã chỉ ra
được, Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với những người nho học
mà còn ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân Việt Nam. Ảnh hưởng của Nho
giáo trong đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam là một đặc điểm lớn của lịch
sử Việt Nam; tư tưởng đạo đức Nho giáo có ảnh hưởng nhất định đối với tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Từ đó tác giả đặt vấn đề và đi vào phân tích: Hồ
Chí Minh đã tiếp thu và phê phán những gì ở tư tưởng đạo đức Nho giáo? Giữa
tư tưởng đạo đức Nho giáo và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có những điểm
tương đồng và khác biệt gì? Tuy nhiên, do khuôn khổ là một bài báo trên tạp chí,
tác giả mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu bước đầu, chưa đi sâu một cách có
hệ thống. Song, đây là những đóng góp, trao đổi rất đáng trân trọng.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Bình với đề tài: “Quan niệm Nho giáo

về các mối quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta
ngày nay” [7]. Tác giả luận án đã trình bày được đặc điểm của xã hội Việt
Nam qua các triều đại phong kiến và sự vận dụng Nho giáo. Quan niệm của
Nho giáo về các mối quan hệ xã hội như quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng,
quan hệ anh em Ví dụ khi đề cập đến các mối quan hệ trong cộng đồng gia
19
đình, tác giả lập luận: gia đình được Nho giáo coi là gốc của xã hội. Vì vậy,
Nho giáo đòi hỏi mỗi gia đình phải là một tổ chức chặt chẽ.
Tác giả đi sâu phân tích về đạo Hiếu của Nho gia và khẳng định: Hiếu là
đạo thường của trời, là lẽ phải của đất, là bản tính tự nhiên vốn có của người,
là gốc của đạo làm người, là nết đầu trong trăm nết của con người, là cơ sở để
con người trở thành người quân tử, thành kẻ đại trượng phu, thậm chí có thể
trở thành thánh nhân.
Tác giả viện dẫn quan niệm về Hiếu của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử.
Đến Đổng Trọng Thư thì quan niệm về Hiếu không còn giữ nguyên ý nghĩa
tốt đẹp ban đầu, mà thay vào đó là một hệ thống lý luận chặt chẽ, giáo điều,
gắn với những nghi thức rườm rà, những đòi hỏi vô lý buộc con người phải
tuân theo một cách gò bó, hình thức và an phận dưới chế độ phong kiến nhiều
bất công. Nó khiến cho mọi người vì chữ Hiếu mà không ai dám chống lại trật
tự xã hội đã được an bài theo mệnh trời, theo lệnh vua và ý trời.
Do giới hạn của đề tài luận án, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc phân tích
các mối quan hệ trong xã hội, chứ không chủ tâm phân tích về các phạm trù
đạo đức cơ bản của Nho giáo.
- Luận án tiến sĩ của Hoàng Trung với đề tài: “Đạo đức cách mạng trong
tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà người sử dụng” [142]. Tác giả
nêu về khái niệm đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh đã sử dụng và đi sâu
phân tích nội dung đạo đức cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Tác
giả chỉ rõ: Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh thì đối với con người, sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn

thành nhiệm vụ cách mạng.
Tác giả có đề cập đến việc Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc các phạm
trù của đạo đức Nho giáo như: Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu . Sự vận dụng
này của Hồ Chí Minh nhằm xây dựng nên nền đạo đức cách mạng phục vụ
cho cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu phân tích quan niệm
của Nho giáo về các phạm trù đó một cách có hệ thống.
20
- “Nâng cao đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân” của Nguyễn
Khánh Bật (chủ nhiệm), Hoàng Trang, Trần Minh Trưởng [6]. Nhóm tác giả
chỉ rõ: sau gần 30 năm đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào, trong những năm đổi mới đã
xuất hiện một thực tế là sự suy thoái về đạo đức, lối sống và chủ nghĩa cá
nhân , phát triển trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên giữ cương
vị lãnh đạo, kể cả một số cán bộ cấp cao.
Đề tài cũng kết luận: việc học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để
khắc phục hàng loạt các hiện tượng tiêu cực của xã hội hôm nay cũng như
ngày mai là một nhiệm vụ cần thiết. Mặc dù điều kiện xã hội hôm nay và
ngày mai có những đặc điểm khác nhau, nhưng tính biện chứng, tính cách
mạng và khoa học của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sẽ làm cho nhận thức
và hành động của con người có khả năng thích nghi với những biến đổi nhất
thời để giữ lấy cái bất biến, cái bản chất trường tồn của nó.
Tuy nhiên, đề tài chỉ đi sâu khai thác về thực trạng đạo đức trong thời kỳ
kinh tế thị trường và đề xuất nhóm giải pháp khắc phục. Nêu được tính cần
thiết phải học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chứ chưa đề cập đến
nguồn gốc, quá trình, sự cần thiết để hình thành nền đạo đức cách mạng, trong
đó có sự ảnh hưởng không nhỏ của đạo đức Nho giáo.
-“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, của Ban Tư tưởng Văn hóa
Trung ương [3]. Cuốn sách này là tập hợp những bài nghiên cứu về tư tưởng

Hồ Chí Minh, một số ý kiến của Hồ Chí Minh về đạo đức, những câu chuyện
chân thật, sinh động về tấm gương đạo đức của Người. Tiêu biểu là những
bài: “Giá trị tư tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” của Đào Duy
Tùng; “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của Nguyễn Bá Linh; “Hồ Chí Minh
và đạo đức” của Phạm Văn Đồng…
21
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Mai “Ảnh hưởng của đạo đức
Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay” [74]. Tác giả trình bày được những vấn đề cơ bản sau: Nội dung chủ yếu
của đạo đức Nho giáo và nét riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam; Phân tích
thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ lãnh đạo,
quản lý hiện nay ở nước ta; Đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát huy
những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc
xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
- “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh”, của Hội đồng Trung ương chỉ
đạo biên soạn [49]. Đây là một công trình công phu của nhóm biên soạn do
GS. Đặng Xuân Kỳ chủ biên. Công trình này đã giới thiệu được tương đối
toàn diện và có hệ thống những những tư tưởng lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh
về cách mạng Việt Nam. Phản ánh được những thành tựu mới nhất trong
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh từ sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII đến nay. Trình bày được những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh kết hợp
với việc đề xuất vận dụng, quán triệt tư tưởng ấy trong công cuộc đổi mới.
Đặc biệt, công trình giành hẳn một chương trình bày về tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức và khẳng định đạo đức là một trong những vấn đề quan
tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Đồng thời chỉ rõ,
những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương
con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong
sáng. Bên cạnh đó cũng chỉ ra những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức;

xây đi đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời và ý nghĩa của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
-“Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua tác phẩm đạo
đức cách mạng” của Phạm Ngọc Anh [2]. Đây là tập hợp các chuyên đề khoa
học của nhóm tác giả lớp cao học Hồ Chí Minh khóa 19. Trong đó có các
22
chuyên đề mang ý nghĩa thực tiễn cao khi nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh như: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức
cách mạng và năng lực, trình độ của cán bộ, đảng viên” của Hoàng Bắc Lĩnh,
“Quan điểm của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình để giúp nhau tiến
bộ trong cán bộ, đảng viên” của Bùi Thị Trà Ly
Ngoài ra còn có các đề tài luận án tiến sĩ nghiên cứu đến một số khía
cạnh của Nho giáo về con người và đạo đức, sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam
như: “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ”của Nguyễn Tài Thư; “Ảnh
hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống”của
Trần Thị Hồng Thúy; “Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người và ý
nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Thị Nga
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra được một cách
tương đối hệ thống về nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh; chỉ ra được phần nào sự tác động, ảnh hưởng của một số phạm trù
đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; chỉ ra được Hồ Chí
Minh đã kế thừa, phát triển những phạm trù đạo đức Nho giáo đó ở mức độ
nào. Song, những công trình trên mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu ban
đầu, chưa phân tích được một cách toàn diện sự kế thừa những phạm trù cơ
bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chưa nêu
được điểm tương đồng, chưa nêu được sự khác biệt căn bản về chất giữa tư
tưởng đạo đức Nho giáo và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Tiểu kết chương 1
Tổng quan những công trình khoa học có liên quan đến nội dung đề tài

luận án để thấy rõ, các công trình trên đã nghiên cứu và giải quyết được ở
mức độ khác nhau những vấn đề:
- Nguồn gốc, đặc điểm của Nho giáo và đạo đức đức Nho giáo;
- Mức độ ảnh hưởng của Nho giáo và đạo đức Nho giáo trong xã hội
Việt Nam từ phong kiến đến ngày nay;

×