Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

ý nghĩa đạo đức và lòng từ của phật giáo trong xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.71 KB, 38 trang )


Ý NGHĨA ĐẠO ĐỨC VÀ LÒNG TỪ CỦA PHẬT GIÁO
TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Thích Nhuận Đức

A. DẪN NHẬP
Người đi qua cuộc đời với muôn ngàn lẽ sống, mỗi phương diện của cuộc đời
người thể hiện bằng những hành động, cách sống và suy nghĩ khác nhau. Mỗi quốc
độ, mỗi lãnh thổ, người hòa mình vào dòng trôi của lịch sử thế nhân, lần trôi trong
luân chuyển của kiếp người. Cuộc sống luôn đầy đủ cả hạnh phúc và khổ đau. Trước
đó là tiếng cười nhưng sau lại là những giọt nước mắt đã ẩn dưới làn mi xanh. Người
mơ ước lắm, mong mỏi lắm cái vĩnh hằng của hạnh phúc, những chốn bình ổn và
người với người chung nhau trong tiếng cười đểụ cuộc sống như một khúc hoan ca.
Người ta đến với cuộc đời, tuy mong mỏi như vậy nhưng nếu không có một sự nỗ lực
trau dồi đạo đức và tạo lập tình thương mà dừng lại ở chỗ đó thì phi thựỉc tế và khổ
đau còn đầy trong tâm khảm. Đêm qua, giây phút giao thoa của vũ trụ rền lên tiếng nổ
của những cuộc bạo động gây nên thảm khốc bi thương. Tội nghiệp thay những ánh
mắt trẻ thơ vô tư phủ mờ màn lệ bởi những người thân lìa trần. Ôi! Họ nào có tội tình
chi và nỗi đau của cuộc đời cứ thế nhân lên và kéo dài đến vô tận và khát vọng chỉ
vẫn còn ấp ủ của một kiếp người.
Trong thuở hồng hoang của nhân loại, Đạo Phật đã ra đời mang lại tiếng nói
yêu thương và một chủ trương giáo lý diệt khổ. Với chủ trương ấy, hai mươi lăm thế
kỷ tồn tại, Phật giáo mang đến cho nhân loại những sự thật của nhân bản. Đạo đức,
lòng thương bao la và tiếng nói tĩnh thức nhân tâm mà con người thường lãng quên
trong lợi danh của kiếp người. Có thể nói Phật giáo là một trường phái Triết Học, một
Tôn Giáo Học, một Nghệ Thuật Học, một môn Nhân Bản Học… Vẫn không thiếu
không thừa, Phật giáo đến với cuộc đời đầy đủ trong mọi phương diện phục vụ cho
mọi đối tượng và đặc biệt là đưa con người vượt thoát khổ đau, tự mình hoàn thiện
đạo đức cá nhân mà vẫn không tách rời khỏi cuộc sống hiện tại. Người viết cũng như
mọi người cũng cộng sinh trong môi trường và sống chung cùng thời đại, dĩ nhiên
những gì tiền nhân mong mỏi, đời hiện tại trông mong thì điều đó cũng tồn tại trong


lòng của mỗi cá nhân. Hướng về cái đẹp, xây dựng cái đẹp hay nói cách khác là xây
dựng Chân, Thiện, Mỹ, bất cứ quốc gia nào cũng muốn, lãnh thổ nào cũng tôn trọng
bởi con người không ai muốn nhận mình là kẻ xấu xa, người hèn mọn. Xây dựng
được những điều đó do đâu? Thưa chỉ có duy nhất là Từ Bi và Đạo Đức giáo lý của
Phật giáo. Cho nên tự mình cũng muốn tìm hiểu, tự mình vốn mang trọng trách của
Kẻ Sĩ Xuất Gia, người viết rất muốn thể hiện một khoảng rất nhỏ trong sâu thẳm
nhiệm mầu của Giáo Lý và chuyển tải đến mọi người tiếng nói tri âm.
1. Lý Do Chọn Đề Tài Và Mục Đích Nghiên Cứu:
1.1. Lý do:
Đạo Đức và Lòng Từ Bi là hai lĩnh vực rất quan trọng. Muốn hoàn thiện bản
thân, nếu không lấy Đạo Đức làm tiêu chuẩn, Từ Bi làm cách xử thế thì chỉ là đáy
nước tìm trăng. Cổ nhân dạy rằng:
“Tôn mạc tôn hồ đạo, mỹ mạc mỹ hồà đức. Đạo đức chi sở tồn, tuy thất phu,
phi cùng giả. Đạo đức chi sở bất tồn, tuy vương thiên hạ phi thông giả”.[15,159]
Tạm dịch:
“Tôn quý không gì hơn đạo, tốt đẹp không gì tốt đẹp hơn đạo đức. Đạo đức
còn, dù kẻ thất phu chăng nữa cũng chẳng màng. Đạo đức chẳng còn, làm vua chúa
cũng chẳng phải người thông”.
Chứng tỏ rằng cổ đức đã đánh giá rất cao về đạo đức, lấy đạo đức làm chuẩn
mực cho cái đẹp của cuộc đời. Bên cạnh đó, đạo Phật đem lòng thương bao la đến cho
vạn loại như một tôn chỉ truyền đạo, đây cũng là then chốt và điều tâm đắc của người
viết trong quá trình học.
1.2. Mục đích:
Là Tu Sĩ, phạm trù Đạo Đức và Từ Bi sẽ được người viết dùng nhãn quan Phật
học để quan sát. Căn cứ trên đời sống con người và thực trạng khổ đau mà kiếp nhân
sinh đang lần trôi làm đối tượng để nghiên cứu.
Chân Thiện Mỹ ngàn năm vẫn tồn tại, tình thương vô biên từ xưa đến nay vẫn
được tôn thờ, ca tụng. Nhưng xã hội ngày một biến đổi thì chúng ta phải biết ôn cố tri
tân, dùng những cái mà người xưa để lại một cách uyển chuyển làm tinh thần giáo dục
giải thoát tối hậu mà Chư Phật và Tổ Sư đã dày công truyền bá. Qua đó xây dựng một

nhìn nhận xác thực hơn, sâu xa hơn về chính mình và mọi người để cùng nhau quay
về với giải thoát cao đẹp.
Đạo đức Phật giáo là một nếp sống an lạc, không đi đôi với khổ. Với ý nghĩa
ấy, tập luận văn này sẽ khảo cứu nhằm làm rõ Đạo Đức của Phật giáo trong cuộc sống
tu tập giải thoát. Bên cạnh đó triển khai những chức năng của đạo đức là “Xây dựng
một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và làm cho môi trường sống vừa lành vừa đẹp”.
[2,19]
2. Phạm Vi Và Đối Tượng Nghiên Cứu:
2.1. Phạm vi nghiên cứu:
Đây chỉ là mộỉt Luận Văn Cấp Cử Nhân Phật Học, số lượng trang có giới hạn
nên đối với một Đề Tài rộng lớn như Đạo Đức và Lòng Từ Bi của Phật giáo thì không
thể khai triển hết được. Trong điều kiện cho phép, Luận Văn này chỉ trình bày khái
quát ý nghĩa và nêu ra một số tính chất, ứng dụng cơ bản của Đạo Đức và Lòng từ
trong đời sống nhân sinh, giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội rộng
lớn, giữa con người và vạn loại cỏ cây (môi sinh). Tuy người viết có nỗ lực trình bày
với các chương mục như dàn bài đã nêu chắc cũng chỉ là những nét chấm phá nhỏ
giữa bức tranh toàn cảnh to lớn của Tôn Giáo và Tam Tạng Thánh Điển của Phật giáo.
Tuy nhiên, nhân nơi đây người viết cố gắng tìm kiếm những cái mới mẻ, bổ ích trong
khi trình bày, nhân đó làm cơ sở để phát triển hướng nghiên cứu sau này.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
Tôn giáo có mặt để phục vụ cho lợi ích của con người. Bất kỳ tôn giáo hay trào
lưu tư tưởng nào cũng lấy con người làm đối tượng truyền giáo. Đức Phật cũng đã
khẳng định mục đích ra đời độ sanh của Ngài trong Kinh Pháp Hoa “Ta ra đời vì
muốn khai ngộ cho chúng sanh cái thấy biết của chư Phật”. Tiền nhân đã vậy, người
viết cũng học hỏi và làm theo.
Đối tượng nghiên cứu ở đây chính là Đạo Đức và Lòng Thương của con người
đang sống trong xã hội ngày nay. Ở hai lĩnh vực Tôn Giáo và Xã Hội, điểm chính là
tìm ra những ý nghĩa cần thiết nhằm giúp cho những đối tượng được đề cập tìm thấy
sự quan trọng để phát huy hơn nữa cái cao quý vốn có của Đạo Đức và Lòng Từ Bi
Phật giáo. Sự tương quan cuộc sống của con người có Đạo Đức với những người xung

quanh và sự đóng góp của họ vào đời sống thế nhân và xã hội, đưa con người đến với
những giá trị đích thực, bảo vệ quyền lợi sống và vun bồi môi trường sống. Nâng cao
sự giáo dục cá nhân và đường hướng cho đời sống cộng đồng.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : Ý NGHĨA ĐẠO ĐỨC
1. Khái niệm về Đạo Đức:
1.1. Định nghĩa:
Đạo đức là một danh từ chỉ về nhân cách của con người. Rất thường gặp và dễ
dàng hiểu tùy theo trình độ.
Đạo đức tiếng Anh gọi là Ethic có nghĩa:
Moral principles that control or influence a person ‘s behaviour
A system of moral principles or rules of behavioul. [24, 125]
“Những nguyên lý đạo đức chế ngự và ảnh hưởng đến hành vi của con người.
Hệ thống những nguyên lý đạo đức hay nguyên tắc đạo đức của hành vi”.
Từ điển Đào Duy Anh giải thích: Nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào lòng
người là đức. Cái pháp lý người ta nên noi theo. [1, 251]
Từ điển Thiều Chửu định nghĩa: Đạo Đức là cái đạo để lập thân .[10, 177]
Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó
tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người chung quanh ta được
chuyển hóa, an vui, lợi ích. [17, 5]
1.2. Thích nghĩa:
Đạo đức là một danh từ có nghĩa rất rộng. Ý nghĩa đặc biệt của danh từ này
không đơn giản là ngữ nghĩa mà hàm nghĩa chỉ về một phạm trù mang đầy đủ tính
cách, phẩm chất và cả đời sống của một con người. Nó vượt ra ngoài danh lợi, địa vị
và giai cấp. Đạo đức được giải thích ngắn gọn ở phần trên, ở phần nội dung xin được
tìm hiểu những khái niệm về Đạo Đức của các nền văn hóa Đông - Tây kim cổ.
1.3. Quan điểm Đạo Đức về triết học Đông - Tây:
1.3.1. Quan điểm đạo đức về triết học Phương Tây:
Đến khoảng thế kỷ 16-17, sau các cuộc cách mạng khoa học thì người Tây
Phương cũng có những chuyển biến mạnh mẽ trong trào lưu tư tưởng. Khi vật chất đã

đầy đủ, họ quay về với triết lý nhân sinh quan… Sự khai sinh ra xã hội học và các
khoa học khác làm phong phú thêm đời sống nhân văn. Đạo đức Tây Phương quan
niệm như một môn học và cũng có đối tượng nghiên cứu. Từ điển Gran Hill Book
định nghĩa: “Đạo đức là môn học đánh giá các hành vi thiện ác của con người, biểu
hiện qua phần lời và ý và được thực hiện bởi ý chí, tình cảm và lý trí”.[25,145]
Đó là định nghĩa tiêu biểu mà ta thường thấy những học giả Tây Phương lấy
làm chuẩn mực. Cơ sở lập luận chính ở đây chính là con người và những biểu hiện
của con người trong cuộc sống cá nhân và đối với người xung quanh. Tuy có khác
nhau về nền văn hóa, tập tục, mỗi một Tôn Giáo hay trường phái Triết Học có cách
giải thích riêng. Thường những giải thích ấy phù hợp với thời đại họ đang sống và
cũng lấy con người làm chuẩn mực để đánh giá và giải thích. Aristore là một tiêu biểu
: “Mục đích trực tiếp của con người không phải là cái hay cái đẹp mà chính là hạnh
phúc. Hạnh phúc là sự phát triển các đức tính thật tốt của một con người… Hạnh phúc
ấy đồng nghĩa với đạo đức”[25,137]. Aristore là một triết gia nổi tiếng của Phương
Tây. Quan điểm về đạo đức của ông được biểu hiện quá rõ ràng qua lời phát biểu đã
nêu. Ở đó ta tìm thấy được giá trị đích thực và mục đích của cuộc sống. Con người
phải hoàn thiện những đức tính tốt mới có được hạnh phúc. Hạnh phúc ấy là đạo đức.
Lúc đó họ cảm thấy mình hạnh phúc hơn và yêu cuộc sống này hơn. Socrates cũng
cho ta thấy đạo đức là một trật tự ổn định của xã hội, không có màu sắc phân biệt, đố
kỵ tín ngưỡng. Ông nhận định “Một nền đạo đức không thể căn cứ vào một giáo lý
mơ hồ. Chúng ta phải tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn không lệ thuộc thần học
hoàn toàn phù hợp với người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo thì xã hội mới
ổn định”.[25,193]
Như vậy theo Socrates, một quy luật chung cho toàn xã hội và đạo đức đóng
vai trò lành mạnh hóa xã hội. Liên hệ đến hiện tại, nếu ý kiến này của Soccrate được
ứng dụng thì không có các cuộc chiến tranh sắc tộc và kỳ thị Tôn Giáo gây bao nỗi
kinh hoàng cho nhân loại. Tính cao quý của đạo đức đã được Soccrate đánh giá đúng
bởi chỉ có nó con người mới có thể tiến đến xa hơn và không đè bẹp nhau bằng súng
ống quân sự.
1.3.2. Quan điểm đạo đức về triết học Phương Đông:

Người Đông Phương lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín làm cách đối nhân xử thế.
Bên cạnh những tập tục thuộc văn hóa vật chất, thuần phong mỹ tục, Đông Phương
còn có một nền triết học mang đậm nét tâm linh. Nhưng tôn giáo vốn như Phật giáo,
Ấn Độ giáo, Khổng giáo, Lão giáo… là những nền triết học vừa mang tính cách xã
hội , vừa mang đậm nét tâm linh. Đạo đức là một điểm rất được chú ý trong các nền
triết học này nhưng chung quy là vẫn muốn hoàn thiện nhân cách con người, hướng
họ về an ổn mà không phương hại đến đời sống cá nhân của họ. Từ điển Từụ Nguyên
giải thích:
Đạo đức: Lễ Khúc Lễ viết: “Đạo đức nhân nghĩa phi lễ bất thành”, Sở Chú
Châu Lễ: “Đạo đa tài nghệ, đức năng cung hành, kim vị đạo đức nhi ngôn chi, tắc bao
la vạn sự liễu chi, ngôn tắc nhân chi tài nghệ, thiện hạnh vô nhân đại tiểu tu lễ hành
chi. Thị lễ vi đạo đức chi cụ. Cố vân phi lễ bất thành, nhân chi tài nghệ thiện hạnh,
đắc vi đạo đức dĩ thân hữu tài nghệ sự đắc khai thông. Thân hữu mỹ thiện, ư lý vi đắc
cố xưng đạo đức dã”, Lão Tử: “Đạo sanh chi, đức xuất chi, thị dĩ vạn vật mạc bất tôn
đạo nhi quý đức. Đạo chi tôn đức chi quý phù mạc chi mạng nhi thường tự nhiên
vương”, Nặc Chú: “Đạo giả vật chi sở do, đức giả vật chi sở đắc giả, kim thân sinh
chúng nhơn sở công tôn tuân chi lý pháp cập hành vi chi hiệp ư lý pháp giả, vi đạo
đức”. [11,523]
Tạm dịch: Đạo đức: Lễ Khúc Lễ nói : “Đạo đức nhân nghĩa không lễ không
thành” , Trịnh Chú Châu Lễ giải thích rằng: “Đạo nhiều tài nghệ, đức có thể vâng làm.
Nay nói về đạo đức, nếu nói rộng thì bao trùm cả vạn sự, nếu nói tâm là tài nghệ và
thiện hạnh của con người. Không luận rộng hay hẹp đều phải dùng lễ mà thực hành, lễ
này là công cụ tạo nên đạo đức cho nên nói không lễ không thành tài nghệ thiện hạnh
của con người. Người được coi có đạo đức là nhờ bản thân được khai thông. Bản thân
có sự tốt đẹp với đạo lý cho nên gọi là đạo đức”, Lão Tử dạy rằng: “Đạo sanh vạn vật,
đức nuôi lớn, vì vậy không có vật gì là không tôn đạo và quý đức. Sự tôn trọng đạo và
quý đức không ai dạy mà có một cách tự nhiên”, Vương Nặc giải thích rằng : “Đạo là
lý do của vật. Đức là chỗ dựa của vật, nay gọi chung là lý pháp mà mọi người đều
phải tuân theo và lý pháp mà mọi người phải làm là đạo đức vậy”.
Giải thích như vậy quả là tiêu biểu cho một nền văn hóa và Triết Học của

Trung Quốc. Cách quan niệm về đạo đức rõ ràng hai đức tính tân quý và quan trọng.
Trong phần giải thích tổng quát này có sự đóng góp của Lão Tử, một triết gia lớn của
Trung Hoa. Lão Tử nhấn mạnh sức sống của đạo đức trong đời thường và hiểu rộng là
sự cấu sinh vạn vật. Bao quát và hơi trừu tượng song hành với triết lý của Lão Tử.
Triết học Khổng Phi Tử hay còn gọi là Đạo Khổng cũng góp phần vào nền triết học Á
Đông. Ở đây ta chỉ chú trọng tìm hiểu ở khía cạnh đạo đức để tìm ra sự phong phú
của nó. Một học giả Việt Nam nhận xét về quan niệm đạo đức của Khổng Tử:
“Triết học nhân sinh của Khổng Tử còn một điểm cuối cùng nữa là không
những chú trọng về động cơ mà còn chú trọng vào sự dưỡng thành phẩm hạnh đạo
đức hơn. Khổng Tử luận về hành vi phân ra ba tầng, một là động cơ, hai là phương
pháp, ba là phẩm hạnh. Động cơ với phẩm hạnh thuộc về nội dung của hành vi. Khi
chúng ta luận về đạo đức thì đại khái có hai phương diện là nội dung và ngoại biểu.
Chúng ta làm một việc gì hoặc sợ hình phạt hay ham lợi ích mà làm, đấy là đạo đức
của ngoại biểu, nếu vì lương tâm của chúng ta thúc đẩy chúng ta làm thì đấy thuộc về
nội dung của đạo đức”.[21, 248]
Nội dung của đạo đức lại chia ra làm hai dạng. Một trọng về động cơ về thiên
lý, hay là mệnh lệnh của đạo đức, có một thế lực về hạnh phúc đẩy ta làm điều thiện,
tránh điều ác. Một hạng lại chú trọng vào phẩm hạnh tập quán của đạo đức. Tập quán
trở nên phẩm hạnh, có người vì tập quán đạo đức thấy điều thiện thì tự nhiên làm,
thấy điều ác thì tự nhiên bỏ.
Triết học nhân sinh quan của Khổng Tư ũchú trọng về đạo đức tập quán, cho
nên mới chủ trương “tính tương cận dã, tập tương viễn dã”, “tính người ta vốn gần vì
tập quán mà xa mãi nhau”. Khổng Tử đã lợi dụng tập quán để gây nên phẩm hạnh đạo
đức đến chỗ “Tòng tâm, sở dục bất dũ củ”. Theo cái gì mà lòng muốn của mình không
vươn ra ngoài quy củ của trời đất. Đây là chỗ tuyệt điểm trong môn giáo hóa nhân
cách của Khổng Tử vậy. [21, 249]
Qua sự nhận định về đạo đức, các triết gia tiêu biểu Đông Tây cho ta thấy được
điểm tương đồng và dị biệt của hai nền văn hóa có chiều hướng phát triển khác nhau.
1.4. Quan điểm đạo đức của người Việt Nam:
Dân tộc Việt nam có một truyền thống đạo đức được xây dựng từ thời lập quốc

cho đến bây giờ. Bao thăng trầm của lịch sử cũng chẳng làm phai mờ đi truyền thống
đó. Đạo đức của người Việt rất đơn giản như câu nói miệng của nhân dân “Có Đức
mặc sức mà ăn”. “Có Đức” tức là có đạo đức tạo cho con người có phẩm chất cao
quý, “mặc sức mà ăn” nghĩa là người nhận được những hạnh phúc từ cội đức của
mình mà có. Nếu trình bày về quan điểm đạo đức của người Việt Nam thôi thì khó mà
phản ánh được văn hóa Việt. Văn hóa Việt Nam bao gồm cả thảy 54 nền văn hóa nhỏ
hợp thành nên rất đa dạng và phong phú trong mọi khía cạnh. Người viết đành chọn
một định nghĩa đạo đức được sách đánh giá khi nói về truyền thống đạo đức của cha
ông:“Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hột thừa nhận, quy
định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, nói tổng quát
phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng đạo đức mà có” [16, 136] . Con người
sống trong cuộc đời có rất nhiều sự tương quan với nhau nên tiêu chuẩn đạo đức phải
đặt lên trên hết. Nguyễn Trải trong bài Bình Ngô Đại Cáo cũng có những lời lẽ mang
tính đạo đức tiêu biểu, nói lên quan điểm của người Việt Nam, thậm chí đối với kẻ
thù.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. [22, 268]
Cái văn: Nhân nghĩa chi cử, yêu tại an dân. Điếu phạt chi sử mạc tiên khử bạo.
Hay: Chí nhược thần vũ bất sát
Đại đức hiếu sinh
Niệm quốc gia trường cầu chi kế
Phóng thập vạn khắc hàn binh. [22, 312]
Dịch: Đến như: Thần võ chẳng giết
Đức lớn hiếu sinh
Nghĩ đến kế lâu dài đất nước
Thả cho về lo vạn hàng binh.
Hoặc dân gian lưu hành:

Một đường đạo đức gắng noi gương
Đường ấy từ bi với thiện lương
Bác ái tha nhân không biệt chủng
Thế gian đổi lại cõi thiên đường.
1.5. Quan điểm đạo đức của Phật Giáo:
Phật giáo là một Tôn Giáo xuất hiện sớm trong lịch sử của nhân loại. Một Tôn
Giáo khai sáng bằng Tu Chứng và Trí Tuệ, có tôn chỉ mới mẻ với thời bây giờ, oằn
mình trong nỗi đau phân biệt đẳng cấp, kì thị của con người phong kiến, họ giẫm lên
nhau trong từng hoàn cảnh sống nên thế gian này đã khổ còn khổ hơn. Vì vậy khi tìm
ra con đường giải thoát Đức Phật nói lên tiếng nói của giải thoát khổ đau. Trước hết
“Chúng ta có thể nói những lời dạy của Đức Phật đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ
đến vấn đề đạo đức và chúng ta cần phải định nghĩa đạo đức Phật giáo như thế nào?
trước hết cho phù hợp với dụng ý thuyết pháp độ sinh của Ngài, sau đó ứng dụng nền
đạo đức ấy vào thế giới loài người của chúng ta, đặc biệt là con người hiện đại của
chúng ta”.[2,24] Toàn bộ hệ thống giáo lý mà Đức Phật giảng thuyết suốt 49 năm đều
chung vào một mục đích nói khổ và con đường diệt khổ. Nhưng giáo lý ấy nếu ta cứ
mãi nhìn bằng nhãn quan phán xét hay bình phẩm thì nó chỉ dừng lại ở góc độ bàng
quan, nếu muốn hiểu và cảm nhận hết không gì hơn phải sống và hòa đồng trong giáo
lý, thực thi giáo lý. Phật dạy: “Abtention from all evil, doing of good parification of
one’s thought. This is the doctrine of Buddhas”. [23, 36]
Dịch: Không làm các điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Giữ tâm lý trong sạch
Chính lời chư Phật dạy. PC: 183
Điểm nổi bật của Đạo Đức Phật giáo là có một trong các lãnh vực của cuộc
sống. Một nghĩa khác của đạo đức Phật giáo là lối sống trong sạch tránh xa những trú
xứ phương hại đến bản thân.
“It is not right to serve friends. Who are evil, men who are base, but let a men
serve friends who are right out, let him keep company with the best of
men”[23,76].

Dịch:
Chớ thân với bạn ác
Chớ thân kẻ tiểu nhân
Hãy thân người bạn lành
Hãy thân bậc thiện nhân. PC: 78
Đạo đức Phật giáo đề cao một nếp sống giải thoát những bám víu của thế gian,
hoàn thiện một nhân cách sống hoàn toàn mới mà vẫn không xa rời thực tế.
Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ Kheo, những Sa Môn, Bà La Môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các
dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly và sự xuất
ly như vậy. Những vị này sẽ như thật tuệ tri các dục của chúng. Chúng có thể đặt
người khác trong địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có
thể xảy ra”. [4, I, 87C]
Đạo đức Phật giáo là một nếp sống hài hòa với muôn loài, hữu tình hay vô tình
chúng sanh, không tranh đấu tạo sự chia lìa hay ly gián mà gần gũi sẻ chia. Ngài nói:
“Này các Tỳ Kheo, ta không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với ta. Này các
Tỳ Kheo, người nói pháp không tranh chấp với bất cứ một ai ở đời”. [5,III, 165]
Phật giáo với quan niệm vạn vật đều không có một tự ngã vĩnh hằng, yếu tố
duyên sinh là đặc tánh của vạn pháp. Sở dĩ có đau khổ là do ta không quán triệt được
lý tánh uyên áo của giáo lý Phật đà nên ta luôn ở vào vị trí bị động trước sự vô thường
của vạn pháp. Ta thường hỏi rằng, Ta là ai? Ta sẽ đi về đâu? Câu hỏi đó là một câu
hỏi lớn mà ta thường mắc phải, càng cố công tìm kiếm câu trả lời càng đi vào vòng
lẩn quẩn của luân lý đời thường. Phật dạy: “Ai khởi lên ý nghĩ cái gì chắc chắn của ta,
cái gì chắc chắn đã là của ta, nay chắc chắn không còn là của ta, cái gì chắc chắn có
thể là của ta, chắc chắn ta không được cái ấy, suy nghĩ như vậy, nó sầu muộn than
van khóc lóc đập ngực đi đến bất tỉnh”. [5, I, 136A] . Nhân đó Ngài cũng khẳng định
“Này các Tỳ Kheo, bất cứ sắc nào…cảm thọ nào…tưởng nào…hành nào…thức nào
quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả
thức là cái này không phải là tôi, không phải tự ngã của tôi”. [5,I,138A]
Cho nên:

Thắng trận sinh thù oán
Bại trận vẫn khổ đau
Ai không thấy kẻ bại
Tịch tịnh hưởng an lạc. [5,I,102]
Đạo đức Phật giáo là từ tâm xả bỏ vô biên, phải tiếp xúc với tất cả mọi người
mình mới hiểu được đa dạng của cuộc sống. Tấm lòng mình rộng mở đón nhận tất cả
vạn loài không oán thù, không ganh tỵ, hiềm khích thì mới thấy an lạc thật sự. Đây là
một điểm đặc biệt của Phật giáo áp dụng được cho mọi thời đại. Nếu con người
thương yêu nhau, xóa bỏ cho nhau những hiềm khích, đố kỵ, những tranh chấp không
đáng có. Những tánh tham lam ích kỷ thì thế giới tiếng súng sẽ im và mọi người nhận
ra nhau bằng tình thương chân thật. Phật dạy:
Với hận diệt hận thù
Đời này không có được
Không hận diệt hận thù
Là định luật thiên thu. PC: 5
Hay: “Vị ấy an trú biến mãn một phương với lòng từ…lòng bi… lòng hỉ…lòng
xã cũng vậy, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ
tư. Như vậy cũng khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp
vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không
hận, không sân”.[4, I, 38]
Hoặc:
Bằng thắng hay thua ta
Như vậy đấu tranh khởi
Cả ba không dao động
Bằng thắng không khởi lên. [5, I, 15]
Đạo đức Phật giáo tức là tuân thủ những nguyên tắc sống (giới luật). Bằng
những giới luật Phật chế, hành giả dù tại gia hay xuất gia đều được yên ổn trong đời
sống hiện tại. Đạo đức bắt đầu từ sự chấm dứt các tà hạnh trong các dục mà “Giới”
chính là năng lực tiêu biểu cho sự chấm dứt ấy. Khi tâm hành giả có thể chưa ở yên
nhưng nhờ thân có giữ giới luật, tạm thời hành giả không vi phạm những nguyên tắc

đạo đức mà xã hội qui ước và đảm bảo được đời sống của chính mình trong cộng
đồng Tăng. Có giới mới có đức, chấm dứt ác pháp thì thiện pháp tỏa sáng, nguyên lý
này luôn có mặt và bổ trợ cho nhau, duyên với nhau. Phật luôn khiển trách những
người phạm giới bởi đó chính tà hạnh không đạo đức, người ấy đã vi phạm những
nguyên tắc tối thiểu của một thành viên dù trong bất cứ môi trường xã hội nào. Vì vậy
mạng mạch của Tăng đoàn chính là sự giữ giới. Phật dạy: “Giới luật là mạng mạch
của Phật pháp, giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp diệt”. Tuyên
ngôn như vậy tức là nhấn mạnh đến đạo đức cá nhân của từng thành viên Tăng. Phật
pháp được truyền bá trước phải có những con người đầy đủ đức tính này mới mang lại
hiệu quả và xứng đáng với tầm vóc gọi là Thầy của Trời Người, còn ngược lại Phật
Pháp băng hoại khi giới mất, tức tư cách đạo đức của thành viên Tăng bị hoen ố.
Đạo đức Phật giáo qua các lời dạy của Ngài tựu trung vẫn để khẳng định giá trị
của một con người đặt con người vào đúng chổ. Nguyên lý này rất sống động và có
mặt cùng khắp những khía cạnh của cuộc sống. Trên cơ sở đó đạo đức Phật giáo giúp
con người phát huy hết những đặc tính ưu việt, giảm thiểu những điều đưa đến bất lợi
cho chính bản thân, gia đình và xã hội. Chỉ có giải thoát khổ đau mới chính là hạnh
phúc chân thật, khích lệ tình thương, tha thứ và đề cao giá trị của từ bi. Đạo đức Phật
giáo đã thực sự nở hoa trong mỗi cá nhân, cộng đồng và xã hội nếu biết tín nhiệm và
làm theo. Cái hay cái đẹp không ở ngoài con người, cái xấu cố hữu cũng từ đó mà ra.
Nỗ lực để hoàn thiện, tự mình đứng lên, không cầu cạnh hay chịu áp lực với bất cứ
một thế lực nào khi bản thân mình là chủ nhân của chính mình một cách thực sự. Bởi
đánh mất giá trị làm chủ bản thân nên con người dễ dàng bị cám dỗ trước những cạm
bẫy của đạo đức bị suy thoái. Như vậy, công năng đạo đức nói chung là chữa lành
được những bệnh khổ cho những tâm trạng đang mắc bệnh trầm kha, hơn nữa đạo đức
luôn đem đến sự an lạc từ thể chất đến tinh thần cho mình và mọi người xung quanh.
CHƯƠNG 2 : LÒNG TỪ CỦA PHẬT GIÁO
2.1. ĐỊNH NGHĨA:
Lòng từ hay từ bi là một thuật ngữ rất thường được sử dụng trong giáo điển của
Phật giáo.
Tiếng Pàli gọi là Mettà, tiếng Sankrit là Maitri.

Tâm từ hay lòng từ nghĩa là cái gì làm cho lòng ta êm dịu, là tâm trạng của một
người bạn tốt, là lòng mong ước thành thật cho tất cả đều được sống an lành vui vẻ.
[12, 595]
Tiếng Anh gọi là Boundless love (immeasurable, unlimitted, endless love)
nghĩa là tình thương vô hạn lượng, từ tâm vô hạn lượng. [28, 46]
Thương yêu chúng sanh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ,
đồng cảm nỗi khổ và làm cho chúng sanh bớt khổ là Bi. Vậy Từ Bi là tình thương rất
chân thật không có hạn lượng, không phân biệt”. [12, 563]
2.2. GIẢI THÍCH Ý NGHĨA LÒNG TỪ:
Từ bi là tình thương vượt ra ngoài những diễn tả của ngôn ngữ, sức sống tiềm
tàn mãnh liệt trong mỗi con người. Lòng từ có nghĩa như tình thương cha mẹ dành
cho con cái, Phật dành cho chúng sanh. Ta không thể nào kể hết công ơn của cha mẹ,
có chăng chỉ thể hiện bằng những giọt nước mắt ngậm ngùi khi chia ly. Phải giải bỏ
hết những quan niệm thân sơ, đối đãi phân biệt ta mới có thể hiểu được phần nào đó ý
nghĩa của lòng từ, nếu không như vậy ta chỉ dừng lại ở mức độ cảm thông, lắm khi
còn toan tính vụ lợi.
Phật giáo có một chữ Từ Bi tuyệt vời. Lòng từ Phật giáo bao trùm cả vạn hữu.
Không phải là sự luyến ái riêng tư giữa con người với con người, giữa con người với
xã hội, với con vật cưng, càng không phải là tình đồng chí đồng hương hay đồng đạo
mà vượt thoát tất cả. Lòng từ Phật giáo bắt nguồn từ sự cảm thông chân thật, tha thiết
trước nỗi khổ của mọi người, ban phát đến tất cả vạn loài. Hay nói một cách khác,
không những không làm hại mà còn nâng niu từng sự sống, chăm sóc từng nỗi đau,
rộng rãi và bao la như ánh trăng tươi mát soi tận cùng những nẻo tối tăm đem lại cho
nhân loại những điều ích lợi. Nếu muốn thấu hiểu lòng từ, cảm nhận lòng từ thì ta hãy
bỏ qua chủng tộc, tính cách, lãnh thổ giai cấp mà chỉ có một tình thương duy nhất ban
phát không mệt mỏi. Khi nào xóa sạch được nỗi đau, lòng từ không bác bỏ, chà đạp
lên mà làm sống lại những tâm hồn vẩn đục, những bước chân lầm lỗi trở về với thực
tại sự sống. Lòng từ không cho riêng bất kỳ ai mà cho cả thảy.
Kinh dạy:
Loài được thấy không thấy

Loài sống xa, không xa
Các loài hiện đang sống
Các loài sẽ được sanh
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc an lạc. [7, I, 29-30]
2.3. TÍNH CHẤT CỦA LÒNG TỪ:
2.3.1. Lòng Từ Là Gốc Lành:
Lòng từ là một trong Bốn Vô Lượng Tâm, một công hạnh nhập thế của các vị
Bồ tát và cũng là nơi trưởng dưỡng các pháp lành. Phật dạy: “Này Thiện Nam Tư,ũ tất
cả Thanh Văn, Duyên giác, Bồ tát, Chư Phật, chỗ có căn lành, lòng từ là cội gốc. Nếu
có người hỏi gì là căn bản của pháp lành nên đáp đó chính là tâm từ. Bởi tâm từ là đạo
vô thượng, là cảnh giới vô song, chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Tâm từ là thường,
lạc, ngã, tịnh, là Cam lồ, là Phật tánh, là Pháp, là Tăng. Tâm từ chính là Như Lai. Do
vì nghĩa đó nên biết tâm từ là chân thật, chẳng phải hư vọng. Nếu Bồ Tát tu tập tâm từ
có thể sanh vô lượng căn lành. Như vậy tâm từ là cội gốc”.[19, II, 159] Các thiện
pháp đều thành tựu do tâm từ, là cảnh giới chư Phật và các đại Bồ Tát. Bởi chỉ có
như vậy mới lắng yên một cách chân thật, nhận diện được sự quan yếu cho tính cách
bình đẳng và không buông thả, đem lại lợi ích cho chính mình và giải thoát chúng
sanh. Ta có thể thấy rằng toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật giáo xây dựng trên ý nghĩa
không phân biệt mà cho tất cả vạn loài tu tập. Hiểu cách khác là một phương tiện cực
kỳ thù thắng để cho các bậc thượng nhân nhập thế độ sanh. Tất cả nếu không có lòng
từ thì mình không thể thương chính mình, không thể tự mình làm cho mình yên ổn thì
làm sao cảm thông trước nỗi đau của người khác. Qua lời dạy của Đức Thế Tôn, ta
thấy được tầm quan trọng của lòng từ. Nó làm nên hạnh nguyện của chư Phật, Bồ tát
và diệu dụng chính là: “Thường, lạc, ngã, tịnh là Phật tánh, là Pháp, là Tăng”. Một khi
người ta rời bỏ tâm từ thì chắc chắn sẽ mất hết cội rễ của căn lành. Một khi không có
căn lành và từ tâm thì thay vào đó chắc chắn là bất thiện pháp. Bởi tính huân thâm và
tập quán lâu ngày trong chủng tử của chúng sanh. Kinh Ưu Bà Tắc Giới Đức Phật
dạy: “Từ tâm là nhân duyên của tất cả sự an vui, rời bỏ từ bi thôi chẳng còn pháp
lành”. Đó chính là kinh nghiệm mà trải qua vô lượng kiếp Đức Phật đã nhập thế độ

sanh và thành tựu viên mãn.
2.3.2. Lòng Từ Là Sự Có Mặt Của Trí Tuệ:
Lòng từ, tình thương rộng rãi bao dung, những tình thương ấy phải do trí tuệ
rọi sáng và dưỡng nuôi mới thành tựu. Nếu tình thương còn trong vòng lẩn quẩn của
ái dục và chấp thủ, thiếu hiểu biết thì chẳng khác nào ta đem thêm vật cho kẻ đã gánh
nặng quằn vai. Nhưng nếu nhìn nhận ở góc độ đó thì ta chưa thấm nhuần triết lý của
lòng từ Phật giáo, cội rễ của thiện pháp. Nên các Thánh giả bước lên Thánh vị khi
lòng từ thành tựu.
Phật dạy:
Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng rực đời này
Như trăng thoát mây che. PC: 173
Hạnh lành là từ bi, dùng tâm từ để chuyển đổi nghiệp thì chính tâm từ là trí tuệ.
Chỉ có trí tuệ chiếu sáng mới thoát khỏi những sự u tối của vô minh. Người đời
thường ăn thua đủ kiểu “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” để xử sự. Ởũ đây, tâm từ
được thành tựu bởi trí tuệ chuyển đổi vô minh thoát ra khỏi ba cõi. Phật
dạy:
Vi thiện xảo mục đích
Cần phải làm như sau
Con đường an tịnh ấy
Có khả năng thực tánh
Thực sự khéo chân thực
Để nói và nhu hòa
Không có gì cao mạn. [5, I, 264]
Con đường an tịnh là con đường của từ bi và trí tuệ vốn dĩ đã có sớm trong mỗi
chúng sanh nhưng phải trưởng dưỡng mới thành tựu. Sử dụng tâm từ biến thành một
phương tiện nhu nhuyến thiện xảo. Thông suốt một vấn đề duy chỉ có trí tuệ mà thôi.
Ta thường nhìn vạn pháp bằng đôi mắt thiếu khách quan và cũng chủ quan đưa ra kết
luận. Cái này phải như thế này, cái kia phải như thế kia. Bó buộc như vậy nên một khi

có sự đổi thay sinh ra buồn khổ. Nhưng khi trí tuệ có mặt thì mọi dãy phân cách được
tháo bỏ và lòng từ cũng thành tựu như vậy.
2.3.3. Lòng Từ Triết Lý Thực Dụng Cho Sự Sống:
Không thương nhau nên lường gạt nhau, giẫm lên nhau. Con người là tác giả
của khổ đau và cũng chính là nạn nhân của khổ đau, nhưng họ chưa dừng lại khi tình
thương không có mặt, đổi lại đó là thù ghét, ganh tỵ. Rồi một khi họ nhận lại món quà
không như ý, họ tặng cho người khác lại trở thành oán than. Từ bi Phật giáo dạy con
người ta tránh xa hai thái cực là con đường đi đến tạo nghiệp khổ, và mối an ổn. Phật
dạy: “Mọi hành động gì có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, bị người
chỉ trích, nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đem lại tâm khổ, tâm ưu. Hành động như vậy
gọi là bất thiện và chúng ta loại bỏ hành động ấy. Hành động gì không có hại cho
mình, không có hại cho người, không hại cho cả hai, được người trí tán thán. Nếu
chấp nhận và thực hiện sẽ đem đến tâm lạc, tâm hỷ, hành động như vậy gọi là thiện vô
chí ta phải thực hành”.[4,II,256] Vì sao có những hành động bất thiện gây đau khổ
cho mình và người? Đó chính là thiếu trí tuệ trong cuộc sống. Xét ở nỗi đau của mình
thì hiểu hơn ai hết. Còn nếu ta không có lòng thương yêu chính bản thân mình, hằn
học thói ganh ghét thì việc ta làm cho thân nhân chắc sẽ là khổ đau.
“Làm cho người hay vật khác đau khổ để bạn được hạnh phúc là chuyện không
đúng. Mọi người hay vật đều muốn giữ mạng sống như bạn muốn. Do vậy nếu bạn
cúng tế súc vật là ích kỷ. Như ta đã dạy ích kỷ không tìm được gì ngoài nỗi bất hạnh
trong cuộc sống. Một vị thần nào đói máu của một con thú trước khi giúp bạn thì đó
không phải là một vị thần tốt, vị ấy không được ai tôn thờ. Nhưng nếu bạn hành động
từ bi, nhân ái đối với mọi loài người hay vật cũng như nhau, thì chính thần linh cũng
thờ bạn”.[26, 69]
Triết lý hành động là tu tập và thực hành lòng từ ngay trong góc độ của cuộc
sống đời thường, tâm linh và tất cả. Ta không thể kêu gọi lòng thương bao la của kẻ
khác khi mình chìm trong ích kỷ và những suy tính thiệt hơn, chấp nhận lối suy nghĩ
nhỏ nhen chính là bạn đã bị vo tròn mình trong chiếc kén khổ đau. Còn hành động
theo lòng từ thì chính bạn đã trải lòng mình ra và đón nhận mọi ý nghĩa của cuộc đời
bằng chính một tâm hồn trong sáng rộng rãi và một cuộc sống thăng hoa.

2.4. TU TẬP LÒNG TỪ:
2.4.1. Nếp Sống Lòng Từ Đối Với Người Xuất Gia:
Thời Đức Phật còn tại thế. Ngài đã thân hành giáo hóa chúng sanh suốt 49
năm. Đến đâu Ngài cũng đem giáo lý Từ Bi Bình Đẳng ban bố cho chúng sanh. Bước
chân của Ngài đã cùng khắp Ấn Độ. Từ những thôn xóm hẻo lánh đến đô thị sầm uất.
Ngài nói lên tiếng nói yêu thương, khuyến hóa chúng sanh. Phật dạy: “Chánh pháp
của ta là chánh pháp tự lợi và lợi tha. Ai có khả năng tiếp nhận sự hóa độ thì ta cũng
tạo yếu tố hóa độ cho họ”[5,III,273]. Nên Ngài không quên khuyếân hóa thánh
chúng. Hãy vì tình thương chúng sanh mà du hành hóa độ. Đem ánh sáng từ bi, trí tuệ
ban bố cho chúng sanh. “Hãy ra đi, các Tỳ Kheo đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người,
đem lại hạnh phúc cho nhiều người. Hãy đem lại sự tốt đẹp lợi ích vì hạnh phúc cho
chư thiên và loài người. Mỗi người hãy đi một ngã. Này hỡi các Tỳ Kheo. Hãy hoằng
dương chánh pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở giữa, toàn hảo ở đoạn cuối, toàn
hảo cả hai tinh thần và văn tự. Hãy công bố đời sống thiêng liêng cao thượng vừa toàn
thiện vừa trong sạch. Có những chúng sanh vướng ít nhiều cát bụi trong mắt nếu
không nghe giáo pháp sẽ sa đọa. Cũng có những người am hiểu giáo pháp. Chính Như
Lai cũng ra đi. Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Sananigama để hoằng dương chánh
pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hãy
mang lại sự tốt đẹp cho người khác. Được như vậy các con đã hoàn tất nhiệm vụ”[6, I,
126]. Lợi lạc chúng sanh ở quốc độ kham nhẫn này không gì hơn từ bi. Khổ đau đã có
mặt khi chúng sanh tái sinh ở cõi ác nên bản tính thường can cường và ít cảm thông
cho nhau. Vì thế, truyền bá giáo lý từ bi là sứ mạng của người xuất gia. Để thực hiện
nhiệm vụ ấy Đức Thế Tôn dạy cho các Tỳ Kheo hộ trì và tu tập ngay bản thân mình,
tìm một đường sống tốt đẹp, không gây đau khổ cho thế nhân. Phật dạy: “Này các Tỳ
Kheo, người nói Pháp không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với ta. Này các
Tỳ Kheo, người nói Pháp không tranh chấp với một ai ở đời”[5,III,165]. Hoàn cảnh
sống không tranh chấp ấy, tâm hành giả sẽ được an tịnh, từ đó mới không phân biệt
giáo hóa chúng sanh. Đời sống luôn là yếu tố chi phối rất nhiều đến con đường tu tập
của hành giả. Đức Phật chỉ bày rất rõ ràng. Trong kinh thường đề cập đến trú xứ và
thân cận xứ. Để thực tập tốt hơn tâm hạnh từ bi hành giả phải chọn một lối sống thích

hợp. Phật dạy: “Sống giữa chúng sanh, hãy dẹp lại một bên gươm đao và các loại khí
giới, không gây tổn thương cho bất luận ai, không làm cho ai phải xót đau vì một đứa
con hay một người bạn, nhưng hãy mạnh dạn tiến bước như Chúa sơn lâm”[12, 606].
Tiến xa hơn một bước, người xuất gia chọn tâm từ như một phương pháp thực tập an
trú trong tất cả mọi hoàn cảnh và tâm từ như một sức sống làm an tịnh tâm thức hành
giả, từ đó hướng về chúng sanh, hướng về cuộc đời bằng tất cả diệu dụng từ bi.
Khi thức không lo âu
Khi ngủ chẳng sợ hãi
Ngày đêm không khởi lên
Phiền não bận lòng ta
Ta không thấy tai hại
Một khổ não trên đời
Do vậy ta nằm ngủ
Tâm từ thương chúng sanh.[5, I, 136]
Tâm từ của người xuất gia phải rộng rãi, đương nhiên sống trong xã hội thì áp
dụng cho loài người. Nhưng từ bi của Phật giáo không có giới hạn, trùm khắp cả vạn
loài. Vẫn biết thân người là tối thắng nhưng vạn loại hữu tình đều có tánh giác. Nên
người xuất gia phải trải tâm từ đến khắp chúng sanh, dù đó là một loài nhỏ bé hiền
lành hay một con mãnh thú hung tợn cũng đem tâm từ ra mà thuần chúng. Cho nên
khi độc cư trong rừng rậm đức Phật vẫn an ổn vì muôn thú luôn xem Ngài là bạn thân.
Phật dạy: “Ta sống trên một ngọn núi, giữa đám sài lang hổ báo và để tự bảo vệ không
gì khác hơn tâm từ của ta. Chung quanh ta là sư tử, cọp, beo, nai, hươu, các thư,ù
ngoài ra là rừng rậm cỏ hoang. Không con vật nào sợ ta và ta cũng không sợ con vật
nào, chính oai lực của tâm từ nâng đỡ, bảo vệ và giúp ta sống yên ổn”[12, 605]. Được
như vậy hành giả mới tự tại trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời và qua đó ta thấy rằng.
Chỉ có an trú trong từ tâm mới chuyển hóa được vạn loại. Nếp sống của người xuất
gia thường là nơi vắng vẻ độc cư, không bị ràng buộc với các đòi hỏi hẹp hòi, nên tâm
từ phải luôn luôn an trú và chứng đắc.
Trong tất cả thế giới
Hãy tu tập tâm ý

Không hạn lượng rộng lớn
Khi đi hay khi đứng
Khi ngồi hay khi nằm
Lâu cho đến khi nào
Khi đang còn tỉnh thức
Hãy an trú niệm này
Nếp sống này như vậy
Được đời đề cập đến
Là nếp sống tối thượng. [4,II,213]
Và khi hành giả thực hành lòng từ và tu tập lòng từ thành thục đạt đến cảnh
giới tối cao. Không chỉ làm phương tiện cứu giúp cho đời cho sự nghiệp hoằng pháp
mà có giải thoát tối hậu.
Đi tu tập từ tâm
Vô lượng thường ức niệm
Các kiết sử yếu dần
Thấy được sanh y diệt
Với tâm không ác độc
Từ mẫn gọi chúng sanh
Do vậy vị ấy thành
Bậc thuần nhất chí thiện
Với tâm ý từ mẫn
Đối với mọi chúng sanh
Bậc thánh khéo thực hiện
Nhiều công đức tốt lành. [8, I, 143]
Như vậy tâm từ đối với người xuất gia vừa là phương tiện lãnh đạo. Sự bảo vệ
thâm tâm, con đường chính đạo và rốt ráo công đức. Phật khẳng định: “Với tâm từ
giải thoát, này các Tỳ Kheo được sử dụng, được tu tập, được làm sung mãn, được làm
như cổ xe, được làm như căn cứ địa, được thường trú, được tích tập, được khéo tác
thành, sự chờ đợi là 8 lợi ích”. Thế nào là 8 lợi ích?
1. Người tu tập lòng từ ngủ trong an lạc, thức trong an lạc.

2. Không chim bao, ác mộng.
3. Được người khác yêu mến.
4. Được phi nhân và chư thiên hộ trì.
5. Lửa, khí giới và chất độc không làm hại được.
6. Tâm dễ an tịnh, nét mặt thanh thoát.
7. Khi chết tâm không rối loạn
8. Nếu không được chứng thánh quả thì ít nhất cũng tái sinh về cảnh giới phạm
thiên. [8, I, 236]
2.4.2. NẾP SỐNG LÒNG TỪ ĐỐI VỚI CƯ SĨ:
2.4.2.1. Ý Thức Về Lòng Từ:
Lòng từ Phậât dạy được tu tập trong mọi lĩnh vực không phân biệt đối đãi. Sở
dĩ nói có xuất gia tại gia là do hoàn cảnh sống mà nói. Người tại gia quanh năm tảo
tần với cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội. Bản chất cuộc đời thì tranh đua danh lợi,
địa vị xã hội nên lòng từ ít có cơ hội thực tập hơn người xuất gia. Với tính chất như
vậy, đời sống Phật tử tại gia nếu lòng từ có mặt sẽ tạo lập được một cuộc sống an ổn
và hạnh phúc trước mọi biến động của cuộc đời. Người cư sĩ học giáo lý Phật và lòng
thương sẵn có nên phát huy hết khả năng làm cho lòng từ ngày càng trở nên lớn hơn.
Trước hết, lòng từ thể hiện qua cách sống của hàng Bạch Y trong tình thương yêu và
giúp đỡ đồng loại.
Đó là cách thể hiện lòng từ đối với người có địa vị thấp hơn mình. Cuộc sống
của chúng ta luôn có những bất đồng trên nghiệp lực và thọ báo, với người nhân
duyên thù thắng được gieo từ quá khứ đến đời này hưởng quả và cũng có những kẻ
nghiệp cũ sâu dày nên kiếp này chịu thấp kém. Người có từ tâm không những không
ghét họ mà còn tạo cơ hội giúp đỡ cho họ có những nhân duyên tốt trong cuộc sống.
2.4.2.2. Tôn Trọng Mọi Loài:
Chúng sinh có quyền bình đẳng để sống. Cách thể hiện là luôn tôn trọng chứ
không lấy mạnh thắng yếu mà phải bảo bọc bao dung. Phật dạy: “Tất cả chúng sinh
đều có Phật tánh”. Đó là một sự thật mà Ngài muốn dạy cho chúng ta, ta phải biết tôn
trọng giác tính cũng như mạng sống của chúng sanh. Ngài dạy: “All tremble before
the rod, to all life is clear; putting oneself in the place of another, one should neither

spike not slay”. [23, 37]
Mọi người sợ hình phạt
Mọi người sợ tử vong
Lấy mình làm thí dụ
Không giết, không bảo giết. PC: 129
Đặt mình trong nỗi khổ mới thấu hiểu nỗi khổ, từ đó thương tất cả mới tránh
những nỗi khổ cho họ. Mình tham sống, tất cả chúng sanh cũng vậy.
Tâm ta đi khắp cùng
Tất cả mọi phương trời
Cũng không tìm thấy được
Ai thân hơn tự ngã
Tự ngã đối mọi người
Quá thân ái như vậy
Vậy ai yêu tự ngã
Chớ hại tự ngã người. [5, I, 174-175]
Hiểu được như vậy người luôn tôn trọng nhau trên mọi bình diện của cuộc
sống. Đó là cách duy nhất người ta đến với nhau mà không làm tổn thương nhau.
Nhưng hiển nhiên trong cuộc sống ta thấy ít có ai làm, bởi sự ích kỷ người ta quên đi
người bên cạnh.
2.4.2.3. Luôn Hoan Hỷ Và Tha Thứ:
Tâm chúng sinh luôn tranh đua và ganh tỵ thắng được thì vui mừng, thua thì
thù oán. Đó là lý do mà người ta có thể thành thù oán bất hòa. Đôi khi dù đó là người
thân của mình. Để tránh những thảm cảnh như vậy ta nên tha thứ và hoan hỉ theo lòng
từ. Trước mắt chúng ta còn lắm những câu nói khó nghe và những hành động ngang
trái nhưng phải lấy lòng từ mà cư xử. Đặt dịu dàng trên bao nhiêu hờn ghét, tất cả đi
vào an lạc tươi vui. Phật dạy: “Let a man guard himself the horshness of the mind let
him be well. Controlled in mind (and) having renounced the evils of the mind, let him
the dwell inpurity there in”[23,75]
Lấy không giận thắng giận
Lấy thiện thắng không thiện

Lấy trí thắng gian tham
Lấy chân thắng hư ngụy. PC: 223
Sự tranh chấp và giận dữ luôn mang lại những kết quả không tốt, tạo sự nhẫn
nhịn để cùng vui. Khỏi hại mình hại người đó là cách sẻ chia hay nhất trong cuộc
sống.
2.4.2.4. Tạo Lập Nếp Sống Trong Sạch:
Kinh Trường A Hàm Phật dạy: “Có bốn hạng người đáng thân vì thường đem
lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn hạng người? Một là ngăn làm việc quấy, hai là
thương yêu, ba là giúùp đỡ, bốn là đồng sự, đó là bốn hạng người đáng thân cận”.
Thân cận xứ và quyến thuộc là những người có ảnh hưởng lớn trong cuộc sống
chúng ta. Họ chính là môi trường nên trong cách cư xử, đối đãi ta phải có sự gần gũi
bằng tình cảm tôn trọng và chân thật. Không phải ở xa ta mới thực tập. Khi ta không
lừa dối ai điều gì mà luôn ban bố những điều thánh thiện, đó cũng là một cách thực
hiện nếp sống lòng từ. Bên cạnh đó mỗi cá nhân cũng phải tạo dựng cho mình một lối
sống thật thà trong nghề nghiệp. Phật dạy: “Trước hết phải học nghề nghiệp để gom
góp của cải, sau khi có nên chia làm bốn phần, một phần tiêu dùng, hai phần để làm
ăn, một phần cất đi để giúp đỡ mình và người khi nghèo thiếu”[5,II,211]. Đó là
phương cách sống đúng cho chính mình và giúp đỡ mọi người. Bên cạnh đó phải luôn
luôn gần gũi các bậc Thiện Tri Thức để hiểu thêm về đạo lý và tu tập hoàn thiện chính
mình.
2.4.2.5. Luôn Giúp Đỡ Mọi Người:
Phật tán thán công đức bố thí rất lớn. Bởi bố thí dù Tài thí, Pháp thí hay Vô úy
thí đều là cách phát triển từ tâm nhanh nhất và hành giả sớm thành tựu được công đức.
Bố thí là hiện thân của lòng từ, không gì thiết thực hơn khi gặp người đói cho ăn, gặp
người nghèo giúp đỡ, nhất là trong thời đại mà cả thế giới đang đối đầu với thiên tai
dịch bệnh như ngày nay. Người con Phật có lòng từ thực hành trong mọi lĩnh vực
nhằm ban vui cứu khổ cho chúng sanh với tấm lòng chân thật. Kinh ghi: “Trong cõi
Nam Diêm Phù Đề có các vị quốc vương, hàng Tể phụ quan chức lớn, hàng Đại
Trưởng Giả, hàng Đại Sát Đế Lợi, hàng Đại Bà La Môn v.v…Nếu gặp kẻ hết sức
nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những

hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế. Lúc các vị quốc vương đó v.v…
muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình
đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời
dịu dàng an ủi. Các vị Quốc vương, Đại thần đó v.v… đặng phước lợi bằng phước lợi
công đức cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư Phật vậy”[18,136-137]. Công đức
bố thí lớn như vậy, hay nói rõ hơn là diệu dụng của phát khởi tâm từ được khai mở và
trở thành phương tiện, điều cần làm và rất nên làm. Ta thật sự hạnh phúc khi sống
trong cộng đồng mà ông cha ta ngày xưa đã truyền lại những bài học về lòng từ thể
hiện qua các câu ca dao, dân ca mộc mạc, ví dụ như: “Thương người như thể thương
thân”. Phải chăng sức sống của lòng từ Phật giáo từ khi du nhập đã cộng hưởng với tư
tưởng thương yêu vốn có của con nguời Việt Nam, làm thành những mỹ tục rất nhân
bản trong:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Tình thân không phân biệỉt trong cách đối xử với nhau. Mỗi người mỗi hoàn
cảnh, mỗi người mỗi tính cách nhưng gắn kết trong tương thân, tương ái. Với tư tưởng
này ta thấy tính từ bi của Phật giáo và tình thương yêu lẫn nhau của dân tộc Việt Nam
càng thêm gắn bó keo sơn.
Không thể dùng một ý tưởng, một lời văn mà diễn tả hết được nền văn hóa của
một dân tộc, đặc biệt dân tộc ấy văn hóa đã đượm chất từ bi. Vì thế Từ bi vẫn là
nguồn sống cho mọi người dù ở hiện tại hay trong tương lai xa hơn.

CHƯƠNG 3 : TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
3.1. Đôi Nét Khái Quát Về Xã Hội Hiện Đại:
Sau cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu thế kỷ 19 đã đưa nhân loại tiến xa
hơn một bậc về phương tiện vật chất cũng như kỹ thuật công nghệ. Ngày nay thế giới
đã trở nên gần gũi với chúng ta, chỉ cần cái gõ lên bàn phím và cái nhấp chuột, thế
giới sẽ hiện ra trước mắt. Người thời nay đã qua rồi những run sợ trước các thế lực
thiên nhiên, mà họ đã trở lại chiếm hữu và ngự trị trái đất. Nói chung con người đã
chinh phục thế giới bằng những phát minh khoa học và đi sâu quan sát thế giới cũng

bằng những thành tựu này. Nhìn lại lịch sử quả là con người đã viết thêm một trang
hoàn toàn mới. Kỹ thuật công nghệ là tiền đề cho các ngành khoa học lịch sử đạt đến
đỉnh điểm, các nhà nghiên cứu ghi nhận: “Lịch sử của nhân loại bắt đầu từ thời săn
bắn tiến đến thời đại tân tiến ngày nay, với biết bao nỗ lực của các nhà kĩ sư chuyên
nghiệp và các khoa học gia đã góp phần nâng cao mức sống con người kể từ hơn 150
năm qua. Những phát minh khoa học cũng đồng thời nâng cao kĩ thuật quân sự vì mọi
quốc gia đã không ngừng tân tiến hóa mọi loại vũ khí quốc phòng của họ và do vậy,
nhân loại đang đối diện với nhiều nguy cơ khốc liệt.
Các phát minh khoa học cũng đồng lúc ấy mang đến rất nhiều ô nhiễm và đang
tàn phá môi sinh. Sự tàn phá môi sinh như vậy đã thực sự gây nguy hại cho sức khỏe
của hàng triệu người và đã đưa đến sự tranh đua dữ dội để sinh tồn, đủ khiến cho xã
hội văn minh ngày nay đã mắc phải rất nhiều căn bệnh tâm lý. Những vấn nạn như
vậy nếu không sớm được giải quyết sẽ gia tăng con số trên bảng tử vong, gióng
chuông cáo phó cho toàn thể nhân loại và để lại cho con cháu chúng ta không gì khác
hơn là những cơ ngơi hoang tàn, hư hại”. [13,92]
Nhận định như vậy không phải bi quan trước tiến triển của nhân loại. Đó là cái
nhìn thực và khách quan đối với thực trạng xã hội ngày nay. Chúng ta đang sống trong
xã hội được coi là hiện đại. Máy móc, phương tiện và cả khối lượng vật chất khổng lồ
đang ngự trị, nhưng không vì vậy mà ta cho là hạnh phúc, mà quả thực dù trong hòa
bình nhưng ta cũng phập phồng lo âu, bởi vì:
3.1.1. Nạn Khủng Bố:
Tòa tháp đôi của Hoa Kỳ đổ xuống lấy đi hàng ngàn sinh mạng và vô số của cải
vật chất, cảnh báo rằng nhân loại đang đối mặt với môỉt sự bất an và thảm cảnh ấy có
thể xảy ra cho bất kì quốc gia nào. Sự kiện ấy để lại trong lịch sử nhân loại con số 11-
09-2001, biểu tượng cho một sự kiện đau thương. Thỉnh thoảng chúng ta nghe nay
chổ này đánh bom liều chết, mai chổ kia dùng súng bắn vào đám đông, còn tệ hại hơn
nữa là họ đánh bom ngay những nơi được xem như là cơ quan quyền lực cao nhất của
một quốc gia hay một nơi tôn thờ của một Tôn giáo để thách thức và hiềm khích lẫn
nhau, đáng buồn hơn là họ đánh bom vào những trường học làm biết bao học sinh vô
tội phải gánh chịu. Chưa dừng lại ở đó con người đối xử với nhau bằng bom nguyên

tử, nói chung bom vẫn nổ, đạn vẫn bay trong lúc thế giới đang kêu gọi hòa bình. Ta
vẫn chứng kiến những người vô tội bị ảnh hưởng bởi các cuộc đấu tranh vì quyền lợi
phe phái, lãnh thổ, tôn giáo,… mặc cho các tổ chức hòa bình của Liên Hiệp Quốc và
tiếng kêu gọi yên ổn của toàn nhân loại luôn vang lên.
3.1.2. Vấn Đề Môi Sinh:
Chúng ta đang hủy hoại chính mình, có hay không khi hàng ngày chúng ta góp
phần làm cho trái đất nóng lên và nguyên nhân này kích hoạt cho các trận động đất,
núi lửa… Thảm họa động đất sóng thần ở các nước Nam Á và Đông Nam Á ngày 26-
12-2004 là tiếng chuông cảnh báo cho toàn nhân loại biết rằng trái đất đã quá tải do sự
tác động của con người. Trong nỗi đau cùng cực đó con người đành thúc thủ chịu thua
mặc dù các thiết bị tối tân hiện đại không thiếu. Tầng Ozone ngày càng bị thủng to
hơn, nên nhiệt độ trái đất tăng dần lên, những tản băng ở Bắc cực tan nhanh gây ra
những trận lũ lụt thật đáng sợ, điều nguy hiểm là những tia cực tím tác động trực tiếp
lên trái đất đã gây nên bệnh ung thư da ở con người, và vì nhiệt độ trái đất quá nóng
nên xãy ra những trận cháy rừng không kiểm soát được, loài vật cũng không chịu nổi
sự nóng bức nên có những loài đã bị biến mất, tuyết rơi dầy đặc hay những trận bão
tuyết cũng thường xãy ra làm thiệt hại về người và vật chất rất nhiều, hiệu ứng nhà
kính sinh ra những trận bão tử kinh hoàng, và thời tiết diễn biến rất phức tạp gây ra
những thiên tai mà con người không lường trước được.
3.1.3. Những Tệ Nạn Thời Đại:
Khoa học đem lại một đời sống vật chất sung túc nhưng mặt trái của nó bị các
phần tử xấu lợi dụng làm nên nỗi kinh hoàng cho nhân loại. Chúng ta đang phải đối
diện với những khó khăn rất lớn, các tệ nạn xã hội như một thứ đại dịch đang lây lan
làm băng hoại cuộc sống tốt đẹp của bao người. Ngày nay không riêng gì Việt Nam
mà các nước trên thế giới đều lên tiếng báo động về tệ nạn bạo hành ở trẻ em, nghiện
hút Heroin, chích Ma túy, Mại dâm, làm băng hoại nhiều thế hệ nhất là giới trẻ ngày
nay nhiễm phải căn bệnh thế kỷ (HIV). Đó chính là hậu quả của một sự hưởng thụ
thiếu giáo dục và buông mình theo những sự vui thích thiếu lành mạnh. Đôi khi để
thỏa mãn những nhu cầu ấy con người trở nên hung hăng bạo tàn, mất hết nhân tính
và chính họ trở thành những ung nhọt của xã hội. “ Ở trong hoàn cảnh tranh đua kinh

tế, rất nhiều người vì theo đuổi theo tài sắc danh lợi mà lạc mất chính mình. Tương lai
rất có thể càng có nhiều người cho rằng chỉ cần có tiền thì mọi vấn đề có thể giải
quyết, nguyện vọng nào cũng đều đạt thành. Thế là quan niệm sai lầm.“ Kim tiền vạn
năng và cấp công cộng lợi” sẽ càng in sâu vào trí não mà tạo nên càng nhiều vấn nạn
xã hội. Đối với sự tham đắm vào chủ nghĩa hiện thực khiến con người lạc mất ý nghĩa
nhân sinh”. [13,121]
Viện dẫn như vậy không phải ta kết tội cho khoa học, lên án khoa học mà chỉ
bàn luận đến những giải pháp cho việc sử dụng những thành tựu khoa học. Khoa học
là một sản phẩm mang đẳng cấp cao của nhân loại, bản thân nó cũng do con người tạo
ra, con người có đủ khả năng để kiểm soát chúng. Nhìn lại khi khoa học mang đến
một sức sống mới thì mọi vấn đề xã hội được khai mở. Tiếc thay, con người đã lạm
dụng nó quá nhiều cho nên nó có dịp phát huy hết cái tốt lẫn cái xấu. Sự lạm dụng này
đã đưa đến những chứng bệnh nan y mà chính tầng lớp kế thừa chúng ta lãnh chịu.
3.2. Đạo Đức Phật Giáo Với Các Vấn Đề Cá Nhân Và Xã Hội:
3.2.1. Con Người Phật Giáo:
3.2.1.1. Sự Cấu Thành:
Dưới cái nhìn duyên khởi, con người cũng là một tập hợp duyên được cấu
thành gồm có năm yếu tố Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức được hiểu là: “Sắc uẩn
được hiểu là cá thể vật lý của một người, cơ thể của những người khác và thế giới vật
lý. Thọ uẩn gồm có cảm thọ khổ, cảm thọ hạnh phúc và cảm thọ không khổ đau,
không hạnh phúc. Đây là cảm thọ khởi lên từ sự tiếp xúc của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và của ý. Tưởng uẩn gồm có tưởng về sắc, về thanh, về hương, về vị, về xúc và về
pháp (hay về thế giới hiện tượng). Hành uẩn là tất cả những hành động về thân, về lời
và về ý; nó cũng được hiểu là các hành động có tác ý do sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp gây ra. Thức uẩn bao gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý
thức. Con người là thế! Là do các duyên thuộc thế giới vật lý và tâm lý này mà sinh.
bao giờ tự nó có thể hiện hữu, do đó con người là vô ngã vô thường”.[20,113]
3.2.1.2. Nguyên Nhân Cấu Thành:
Nguyên nhân chính là sự tác hợp của duyên, song duyên ấy phải cần có những
năng lực cần thiết để tạo thành hiện tượng. Dù liệt hay thắng, thô hay tế, các duyên

đều phải có sự tương tác mới thành được. Năng lực ấy chính là khát ái và nghiệp lực.
Phật dạy: “Ta là kết quả của nghiệp, ta là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng,
nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nền tảng, bất cứ nghiệp nào ta làm, thiện hay ác ta sẽ
là kẻ nhận chịu kết quả. Điều này các Thiện nam Tín nữ, các gia chủ cần phải suy
ngẫm”. [4, III, 474]
3.2.1.3. Năng Lực Con Người:
Phật giáo không chấp nhận con người ở trong một trạng thái thụ động, bị sai sử
trong mọi vấn đề mà khẳng định rằng con người có một vị trí vô cùng quan trọng và
làm chủ được mình. Biết rõ tính chất và nguyên nhân cấu thành của một vật chắc chắn
là người có tầm nhìn chính xác. Phật giáo khẳng định vị trí có thể quyết định mọi chi
phối cho đời sống vật chất và tinh thần trong cuộc sống chính mình mà không phải lệ
thuộc bởi bất kì một thế lực nào. Phật khẳng định: “Self is the Lord of self. What
higher lord could there be? When a man subdues well his self, he would have found a
Lord very difficult to find” [23,75]
Tự mình làm chủ tể của mình, không ai khác có thể làm chủ tể? Với sự tự điều
phục, con người tìm thấy đấng chủ tể khó có. PC: 160
Không lệ thuộc, không bị bắt buộc, vị trí con người được khẳng định. Nhờ vậy
con người có đầy đủ những năng lực, chịu trách nhiệm về hành vi của mình cũng như
tự mình làm chủ được mình, giải thoát hay khổ đau tự mình quyết định, không ai
quyết định thế mình được.
3.3. Đạo Đức Phật Giáo Với Giáo Dục Cá Nhân:
3.3.1. Hoàn Thiện Tự Thân:
Con người có vị trí tối thắng trong tất cả các loài hữu tình chúng sanh. Đạo
Phật đánh giá rất cao vị trí con người trong vấn đề đảm nhận và thực hành giáo lý.
Xây dựng một con người có nhân cách hoàn hảo, biết sống vì mọi người, trở thành
một thành viên tốt cho gia đình và xã hội là một điều hết sức cần thiết.
3.3.2. Xây Dựng Một Nhân Cách Trong Sáng:
Con người là thừa tự của nghiệp, khi sanh ra đời đã có sẳn mầm mống của
nghiệp trong tâm thức. Hiểu như vậy, ta luôn ở thế chủ động để phòng bị các phát tác
ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện nhân cách. Con người hiện đại cần yếu tố này hơn

hết bởi trong bối cảnh chúng ta đang sống có rất nhiều sự khắc nghiệt, nếu lỡ sa vào
thì rất nguy hiểm. Để có đời sống trong sáng con người cần có:
3.3.2.1. Tinh Thần Tự Tin:
Lòng tin vào cuộc sống, vào chính mình là một thứ không thể dùng bạc tiền hay
địa vị xã hội để đánh đổi, là một thứ tinh hoa cho cuộc sống hạnh phúc. Mất lòng tin,
con người xã hội như một ảo ảnh bàng quang, cá nhân ấy đắm chìm trong lo âu và xét
nét thậm chí cả người thân của mình. Họ không tin ngay cả bản thân, đặt mình trong
trạng thái suy nhược cả tinh thần lẫn thể xác. Thấy rõ điểu này, Đức Phật khuyến giáo
cho các đệ tử: “Này Kàlàmas, đừng để bị dẫn dắt sai lạc bởi báo cáo hay tryền thống,
hay nghe người ta nói, đừng để bị dẫn dắt sai lạc bởi sự truyền tụng trong Kinh tạng,
cũng đừng bị dẫn dắt sai lạc bởi thấy hợp lý, cũng đừng bị dẫn dắt sai lạc sau khi tư
duy và chấp nhận lý thuyết, cũng đừng để bị dẫn dắt sai lạc do vì hợp với định kiến,
cũng đừng bị dẫn dắt sai lạc do vì sự kính trọng vị Sa Môn. Nhưng, này các Kàlàmas,
khi các người tự mình biết rằng: các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các
pháp này bị người trí chỉ trích, các pháp này nếu được thực thi, thực hiện thì sẽ dẫn

×