Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn phát huy vai trò chỉ đạo của ban cán sự trong tiết học thể dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.93 KB, 14 trang )

Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Ngày 27.03.1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập
luyện TDTT. Từ đó phong trào TDTT ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Từ năm 1992 Đảng và Nhà nước ta đã thấy được tầm quan trọng của
TDTT trong chiến lược phát triển con người nên đã đưa vào kế hoạch phát triển
giáo dục trong các trường học: “… công tác giáo dục thể chất trong các trường
học các cấp nhằm góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng con người mới, phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng
về đạo đức, sẵn sàng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc …”
Ngày nay, trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới
phương háp dạy học, cùng với các môn khoa học khác giáo dục thể chất cũng
được quan tâm đổi mới. Với chương trình đổi mới đòi hỏi phải có sự đổi mới về
phương pháp giáo dục: giảm lý thuyết tăng thực hành, phát huy khả năng của
học sinh trong đó có sự tự quản lý chỉ đạo và tự đánh giá nhận xét của các em.
Qua quan sát thực tế tôi thấy việc phát huy hết vai trò chỉ đạo của Ban cán
sự lớp trong tiết học thể dục còn ít nên giáo viên thường mệt mỏi đông thời tao
tâm lý căng thẳng cho học sinh, ít gây hứng thú học tập nên chất lượng đổi mới
chưa cao.
Với khả năng hiện có của mình và những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn
sáng kiến kinh nghiệm: “ Phát huy vai trò chỉ đạo của Ban cán sự trong tiết học
thể dục”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu vai trò chỉ đạo của Ban cán sự trong việc chỉ đạo lớp ở tiết học thể
dục và biện pháp thúc đẩy vai trò đó.
- Áp dụng vào giảng dạy tiết thể dục.
III. NHIỆM VỤ CHÍNH
- Xác định vai trò chỉ đạo của Ban cán sự lớp và biện pháp phát huy vai trò này.
- Áp dụng vào thực tế giảng dạy ở bậc THCS.
Phần II: NỘI DUNG
a. Giải quyết nhiệm vụ 1:


“Xác định vai trò chỉ đạo của Ban cán sự lớp và biện pháp phát huy vai trò đó”
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THCS:
Học sinh THCS thuộc lứa tuổi từ 12 đến 15 là tuổi thiếu niên, chuyển tiếp
từ thời thơ ấu lên trưởng thành, vẫn mang tính trẻ con nhưng lai muốn làm
người lớn. Đây chính là thời kỳ phát rriển mạnh mẽ đến mức thiếu cân đối cả về
cơ thể, thể chất, tâm lý lẫn trí tuệ. Do đó việc đổi mới phương pháp dạy – học ở
THCS theo hướng phát huy tích cực chủ động cần chú ý đến những điểm sau:
a. Động cơ học tập:
Hoạt động học tập dần đựoc các em xem như để thoả mãn nhu cầu về
nhận thức. Tuy nhiên động cơ học tập rất đa dạng và chưa bền vững, biểu hiện ở
những thái độ nhiều khi mâu thuẫn từ rất tích cực đến thờ ơ lười biếng, từ nỗ lực
học tập độc lập đến thụ động hoc tập.
Để các em có động cơ, thái độ đúng đắn thì giáo viên phải biết gời ý cho
học sinh nhu cầu tìm hiểu, giúp các em có phương pháp học tập phù hợp để
tránh bị thất bại gây tâm lý chán nản.
b. Về chú ý:
Chú ý có chủ định, bền vững được hình thành dần dần. Mặt khác chú ý dễ
bị phân tán, không bền vững. Biện pháp tốt để thu hút sự chú ý của các em là tổ
chức các hoạt động học tập cho hợp lý, không có nhiều thời gian nhàn rỗi để chú
ý bị phân tán. Tạo ra các hoạt động học tập hào hứng mới thu hút sự chú ý của
các em.
c. Về ghi nhớ:
Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ có chủ định dựa
trên sự so sánh, phân loại, hệ thống hoá. Tốc độ và khối lượng cần ghi nhớ tăng
lên đã có khuynh hướng muốn tái hiện lại kiến thức đã học theo cách diễn đạt
của mình.
Giáo viên cần dạy cho học sinh kỹ năng ghi nhớ lôgic, biết tìm ra điểm
tựa để nhớ, kỹ năng ghi ghi nhớ bằng hành động.
d. Về tư duy:

Tư duy có trừu tượng hoá, khái quát hoá càng phát triển giúp cho việc lĩnh
hội bản chất các khái niệm khoa học trong chương trình. Tuy nhiên tư duy hình
tượng cụ thể vẫn giữ vai trò quan trọng.
e. Quan hệ giao tiếp:
Ở độ tuổi này nảy sinh cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu thừa nhận
đã là người lớn. Các em mong muốn được người lớn tôn trọng nhân cách, tin
tưởng và mở rộng tính độc lập của mình. Nếu người lớn không thừa nhận nhu
cầu này để thay đổi quan hệ giao tiếp thì sẽ gây ra những phản ứng bất lợi như
bướng bỉnh, không vâng lời, xa lánh…
Học sinh THCS có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè, khao khát được
hành động chung với nhau, muốn đựoc bạn bè tôn trọng, công nhận năng lực
của mình.
Chính vì vậy giáo viên phải nắm chắc đặc điểm này thì mới có tác dụng
tốt đến giáo dục, tạo cho học sinh phát triển tốt quan hệ giao tiếp hợp tác với
nhau trong hoạt động tập thể và uốn nắn hướng dẫn các em hoạt động theo
hướng phục vụ các mục tiêu giáo dục.
Nói tóm lại, đặc diểm tâm lý của học sinh THCs có những yếu tố thuận
lợi cho phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên khai thác nhưng cũng có yếu
tố bất lợi mà giáo viên cần nắm vững để chủ động phòng tránh.
2. so sánh phương pháp dạy học giáo viên làm trung tâm và học sinh làm trung tâm:
GIÁO VIÊN LÀM TRUNG TÂM HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM
a) Mục tiêu:
- Quan tâm trước hết đến lợi ích của
giáo viên.
- Giáo viên chăm lo đến truyền đạt hết
nội dung chương trình, chuẩn bị tốt
cho học sinh dự các kỳ thi.
b) Nội dung:
- Chú ý hệ thống kiến thức lý thuyết,
sự phát triển tuần tự của các khái niệm,

định luật, thuyết khoa học.
- Tôn trọng lợi ích, nhu cầu và tiềm
năng của học sinh.
- Chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng
thích ứng với đời sống xã hội, hoà
nhập và phát triển cộng đồng.
- Không chỉ quan tâm đến kiến thức lý
thuyết mà còn chú trọng các kỹ năng
thực hành vận dụng kiến thức năng lực,
phát hiện và giải quyết các vấn đề thực
tiễn.
c) Phương pháp:
- Chủ yếu thuyết trình giải thích minh
hoạ.
- Giáo viên lo trình bày cặn kẽ nội
dung bài học, tranh thủ truyền thụ vốn
hiểu biết và kinh nghiệm của mình.
- Học sinh tiếp thu thụ động cố hiểu
những điều giáo viên đã giảng.
- Giáo án đựoc thiết kiết theo đường
thẳng, chung cho cả lớp. Giáo viên dự
kiến chủ yếu là những hoạt động của
chính mình, có hình dung đôi chút về
những hưởng ứng của học sinh.
- Trên lớp giáo viên chủ động thực
hiện theo giáo án đã chuẩn bị.
d) Phương tiện:
- Thiết bị dạy học chủ yếu thực hiện
như phương tiện minh họa cho lời
trình bày của giáo viên, tạo thuận lợi

cho sự tiếp thu của học sinh.
e) Tổ chức:
Các tiết học tiến hành chủ yếu dưới sự
chủ động chỉ đạo của giáo viên. Người
giáo viên trở thành trung tâm thu hút
sự chú ý của học sinh.
- Giáo viên tổ chức hoạt động theo
nhóm nhỏ, qua đó học sinh tự nắm các
tri thức mới đồng thời ren luyện đựoc
phương pháp tự học, tập dựơt tìm tòi
nghiên cứu.
- Giáo án dược thiết kế theo kiểu phân
nhánh. Những dự kiến của giáo viên
chủ yếu tập trung vào hoạt động của
học sinh, các thức tổ chức hoạt động
đó cùng với những khả năng diễn biến
để khi lên lớp có thể linh hoạt điều
chỉnh thực hiện giờ học, phân hoá trình
độ năng lực của học sinh tạo điều kiện
cho sự bộc lộ và phát triển tiềm năng
của mỗi em.
- Thiết bị dạy học đựoc sử dụng như
nguồn thông tin dẫn học sinh đến tri
thức mới, quan tâm vận dụng phương
tiện dạy học hiện đại để học sinh hoàn
thành nhiệm vụ học tập theo tiến độ
phù hợp với sức mình.
Hình thức tổ chức lớp học dễ dàng thay
đổi linh hoạt phù hợp với dạy học cá
thể, phân chia nhóm nhỏ, thực hiện

theo nhóm học sinh dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Ban cán sự lớp, giáo viên
là người thiết kế, tổ chức, cố vấn, trọng
tài trong các hoạt động học tập của học
f) Đánh giá:
- Giáo viên là người độc quyền đánh
giá kết quả học tập của học sinh.
- Chú ý đến khả năng tái hiện, ghi nhớ
các kiến thức do giáo viên cung cấp.
sinh.
- Học sinh tự đánh giá và chịu trách
nhiệm về kết quả học tập của mình,
được tham gia đánh giá và đánh giá lẫn
nhau về mức độ đạt mục tiêu từng
phần trong chương trình học tập.
- Giáo viên quan tâm hướng dẫn cho
học sinh phát triển năng lực đánh giá
để tự điều chỉnh cách học, khuyến
khích cách học thông minh sáng tạo
biết giải quyết các vấn đề nảy sinh
trong tình huống thực tế.
3. Các dấu hiệu đặc trưng phương pháp tích cực:
a) Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh:
Nhân cách trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động chủ
động, thông qua các hoạt động có ý thức. Trí tuệ của trẻ nhờ sự “ đối thoại” giữa
chủ thể với đối tượng và môi trường. Mối quan hệ giữa học và làm đã được
nhiều tác giả lớn đề cập: “ Suy nghĩ tức là hành động” (J.Piaget). “ Cách tốt nhất
để hiểu là làm” (Kant). “ Học để hành, học và hành phải đi đôi. Học mà không
hành thì vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy” (Hồ Chí Minh).
Trong phương pháp tích cực, ngưòi học – chủ thể của hoạt động học được

cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông
qua đó tự lực khám phá những điều mà mình chưa biết chứ không phải tiếp thu
một cách thụ động những tri thức đã được sắp đặt sẵn. Được đặt vào những tình
huống đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn
đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức mới, kỹ năng
mới vừa nắm được phương pháp “ làm ra” những kiến thức, kỹ năng đó. Qua đó
được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
b) Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học:
Đã từ lâu các nhà khoa học đã nhận thức đựoc ý nghĩa của việc dạy
phương pháp học. Đây là cách hữu hiệu chuẩn bị cho lớp kế tục thích ứng với xã
hội học tập trong đó mỗi người phải có năng lực học tập liên tục suốt đời.
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen tự học thì sẽ tạo ra lòng
ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của mỗi người thì dễ dẫn đến sự thành
công.
c) Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác:
Phương pháp tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi
học sinh trong quá trình tự lực giành lấy kiến thức mới. ý trí và năng lực của học
sinh trong một lớp không đồng đều do đó phải chấp nhận sự phân hoá về cường
độ và tiến trình hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế
thành một chuỗi công tác độc lập, được gia cho từng cá nhân thực hiện.
Trong kiểu dạy thông báo đồng loạt, thông tin đi từ thày đến trò, quan hệ
giao tiếp chủ yếu là thầy – trò. Trong phương pháp học tập hợp tác vẫn có thể
giao tiếp thày – trò nhưng nổi lên là mối quan hệ giao tiếp trò – trò.
Trong giáo dục việc học tập được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường
nhưng được sử dụng phổ biến nhất trong dạy học là hợp tác nhóm nhỏ từ 4 đến 6
người.
d) Kết hợp đánh giá của thầy và trò:
Trong dạy học việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng học tập để điều chỉnh hoạt động học tập của học trò mà còn tạo

điều kiện nhận định thực trạng dạy để điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây, giáo viên giữ độc quyền đánh giá, học sinh là đối tượng được đánh
giá.
Ngày nay, trong phương pháp tích cực để chuẩn bị cho học sinh khả năng
học tập liên tục suốt đời thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển năng
lực đánh giá để điều chỉnh cách học.
4. Điều kiện áp dụng phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp tích cực có mầm mống từ xa xưa. Ngày nay do những yêu
cầu đổi mới giáo dục phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
CNH-HĐH, phương pháp tích cực cần được phát triển nhanh chóng trở thành
phổ biến trong nhà trường của chúng ta.
Tuy nhiên, nó không thể loại trừ, không thể thay thế hoàn toàn các
phương pháp dạy học truyền thống, không phải mọi kiến thức đều có thể do học
sinh chiếm lĩnh bằng hoạt động tự lực dù có đủ phương tiện học tập. Không phải
mọi học sinh đều tự nguyện, tự giác tham gia các hoạt động tích cực.
Phương pháp tích cực đòi hỏi một số điều kiện, trong đó quan trọng nhất
là người giáo viên:
Phương pháp tích cực không hạ thấp hay giảm nhẹ vai trò của người giáo
viên. Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với nhiệm vụ đa dạng.
Từ dạy học thông báo, giải thích, minh hoạ sang dạy học tích cực, giáo viên
không còn là người đơn thuần truyền đạt kiến thức mà giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập học theo nhóm để học sinh
chiếm lĩnh kiến thức mới, hình thành kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương
trình. Trên lớp học sinh hoạt động là chính nhưng trước đó, khi soạn bài giáo
viên phải đầu tư nhiều công sức và thời gian mới có thể thực hiện bài lên lớp với
vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động
tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có tri thức bộ
môn sâu rộng, vừa có trình độ sư phạm lành nghề, biết xử lý tinh tế, biết sử dụng
các thiết bị dạy học hiện đại, có thể định hướng sự phát triển của học sinh nhưng
cũng đảm bảo sự tự do của học sinh trong hoạt động học tập.

Đưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những
phẩm chất, năng lực, thói quen thích ứng với các phương pháp tích cực như giác
ngộ mục đích học tập, tự nguyện tham gia các hoạt động học tập, có ý thức trách
nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và
tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, có kỹ năng cần thiết của các
loại hình như: tư duy biện chứng, lôgic, hình tượng, thuật toán, tư duy kỹ thuật,
tư duy kinh tế.
Hình thức tổ chức lớp học phải dễ dàng thay đổi linh hoạt, phù hợp với
dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
Việc kiểm tra thi cử đánh giá học sinh phải có những chuyển biến mạnh
mẽ về nội dung, hình thức, tổ chức theo hướng phát huy trí thông minh sáng tạo
của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học
vào tình huống thực tế, làm bộc lộ những thái độ cảm xúc của học sinh trước
những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào
việc kiểm tra đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động, sách vở, thì
chưa phát triển học tập tích cực.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua hội thảo chuyên đề, quan sát một số tiết dạy của các đồng nghiệp tôi thấy:
Giáo viên phát huy 70% chỉ đạo của ban cán sự lớp: 7/10 tiết
Giáo viên chủ động chỉ đạo lớp, ít phát huy vai trò của ban cán sự lớp: 3/10 tiết
Sau tiết học giáo viên có biểu hiện giảm sút khả năng hoạt động: 6/10 GV
Qua phỏng vấn trực tiếp:
GV phát biểu là mệt: 6/10
GV hơi mệt : 2/10
GV bình thường : 2/10
Qua phiếu phỏng vấn:
GV đổi mới phương pháp dạy học: 100%
GV đổi mới về phương pháp: giảm lý thuyết, tăng thực hành, trò chơi thi
đấu: 100%
GV đồng ý với việc phát huy vai trò của Ban cán sự lớp là một yếu tố đổi

mới: 100%
GV phát huy hết vai trò của Ban cán sự lớp: 90%
Cảm giác của giáo viên sau tiết học: Mệt : 70%
Hơi mệt : 20%
Bình thường: 10%
GV đồng ý biện pháp phát huy vai trò của Ban cán sự lớp:
- Lựa chọn và bồi dưỡng đội ngũ Ban cán sự lớp
- Xây dựng thói quen tập luyện của học sinh dưới sự chỉ đạo của Ban cán
sự lớp: 100%
- Đổi mới cách soạn giáo án: 100%
- Thay đổi cách nhận xét đánh giá: 100%
Qua phỏng vấn trực tiếp và phiếu phỏng vấn học sinh:
- Thầy chỉ đạo chủ yếu: 60%
- Ban cán sự chỉ đạo chủ yếu: 10%
- Kết hợp thầy và Ban cán sự lớp chỉ đạo: 30%
- Sau tiết học cảm giác của học sinh: Mệt: 20%
Hơi mệt: 20%
Bình thường: 60%
- Học sinh thích chỉ đạo lớp một mình: 10%
- Học sinh thích chỉ đạo lớp cùng Ban cán sự lớp: 90%
B. NHIỆM VỤ 2:
“ Áp dụng các biện pháp để phát huy hết vai trò của Ban cán sự lớp”
I. CÁC BIỆN PHÁP:
1. Lựa chọn và bồi dưỡng Ban cán sự lớp:
a) Lựa chọn:
Một trong những yếu tố thành công của người chỉ huy là khả năng chỉ
đạo, có sự thông minh, nhanh nhẹn, giọng nói, thái độ cử chỉ rõ ràng, nghiêm
túc, vui vẻ, hoà đồng.
Thông thường giáo viên thể dục lấy ngay Ban cán sự ở các tiết học trong
lớp. Song không hẳn đội ngũ đó đã có tác dụng lớn trong tiết học thể dục và đó

cũng chính là yếu tố làm giảm khả năng phát huy vai trò và tính tích cực trong
tiết học thể dục.
Chính vì vậy, người giáo viên dạy thể dục phải là người nhạy bén trong
việc lựa chọn đội ngũ cán sự thể dục. Giáo viên có thể giữ nguyên hay cũng có
thể thay đổi đội ngũ cán sự. Giáo viên quan sát, phân tích các yêu cầu cần đạt
được để lựa chọn các cán sự có năng lực chỉ đạo điều hành lớp trong tiết thể
dục.
Một số yếu tố để các thành viên khác trong lớp thực hiện tốt các hoạt động dưới
sự chỉ đạo của Ban cán sự lớp: Đó là sự tin tưởng, sự đồng ý vào khả năng chỉ
đạo của Ban cán sự … Chính vì vậy người giáo viên nên định hướng cho học
sinh bầu ra Ban cán sự để từ đó vai trò chỉ đạo của Ban cán sự có hiệu quả cao.
b) Bồi dưỡng thường xuyên:
Nếu ngay từ đầu năm học, trong các tiết học đầu tiên, người thầy chỉ đạo
là chủ yếu còn Ban cán sự là thứ yếu thì sẽ tạo ra sức ỳ, thói quen “ỷ lại” sự chỉ
đạo của thầy. Chính vì vậy ngay từ buổi đầu tiếp xúc với môn học, người giáo
viên phải xây dựng, hình thành và rèn luyện cho Ban cán sự kỹ năng chỉ đạo lớp
từ khâu tập trung, khởi động, các hoạt động tập luyện đến việc thả lỏng, nhận
xét đánh giá. Để đạt được điều này, giáo viên phải hướng dẫn các em tỉ mỉ, cụ
thể. Đồng thời giáo viên phải theo dõi uốn nắn, sửa chữa kịp thời cho Ban cán
sự trong các tiết tiếp theo. Trong một tiết học thể dục, giáo viên giao nhiệm vụ
cho lớp trưởng từ đó lớp trưởng giao nhiệm vụ cho các thành viên khác hoặc
giáo viên giao nhiệm vụ trực tiếp cho các thành viên trong lớp.
Ví dụ: Lớp trưởng chỉ đạo chung, quan sát đôn đốc các bạn.
Tổ trưởng tổ 1 chỉ đạo các bạn thực hiện phần khởi động.
Tổ trưởng tổ 1 chỉ đạo các bạn thực hiện phần ôn luyện …
Trong từng phần cơ bản sau khi giáo viên hướng dẫn chung xong thì cần
hướng dẫn thêm cho Ban cán sự theo hướng điều hành cần đạt theo mục tiêu bài
học đã đặt ra.
Không chỉ có vậy mà khả năng nhận xét đánh giá về kỹ thuật động tác,
thái độ tập luyện … cũng rất quan trọng. Nên giáo viên cần xây dựng mối quan

hệ đánh giá hai chiều và phải là người trọng tài trong việc đánh giá nhận xét.
2. Xây dựng thói quen luyện tập cho học sinh dưới sự chỉ đạo của ban cán sự:
Với học sinh THCS, nhu cầu trong giao tiếp với bạn bè lớn, khao khát
được hoạt động chung với nhau, muốn được bạn bè tôn trọng công nhận năng
lực của mình, rất sợ bạn bè xa lánh song các em luôn có cảm giác, thái độ
không thích bạn bè chỉ đạo mình nên nhiều khi không tuân theo. Do đó việc xây
dựng thói quen tập luyện của học sinh dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự là một
biện pháp để phát huy vai trò chỉ đạo của Ban cán sự.
Người giáo viên phải nhận rõ yếu tố này từ đó có biện pháp xây dựng thói
quen tập luyện. Thường xuyên nhắc nhở Ban cán sự có thái độ hoà hợp nhất,
đồng thời tỏ rõ khả năng chỉ đạo để các bạn thực hiện nghiêm túc theo sự chỉ
đạo của mình.
Giáo viên phải quan tâm động viên nhắc nhở các học sinh khác tập luyện
có ý thức.
Ngoài ra không chỉ có Ban cán sự chỉ đạo lớp hoạt động mà giáo viên cần
rèn luyện cho tất cả các học sinh trong lớp đều có thể tự điều khiển tập luyện.
3. Đổi mới soạn giáo án:
Theo sáng kiến kinh nghiệm của đồng chí Bùi Huy Vinh – giáo viên thể
dục trường THCS Cẩm Định và các tài liệu đổi mới phương pháp dạy học:
Để nâng cao chất lượng một tiết dạy học thì đòi hỏi giáo viên phải có sự
chuẩn bị tốt về: Bài soạn đúng mẫu, đủ bước, thời gian, phương pháp giảng dạy
hợp lý …
Theo phương pháp đổi mới sách giáo khoa thì giáo viên cần đổi mới toàn
diện về giáo án giảng dạy.
+ Về mục tiêu: Mục tiêu phải phân định rõ mức độ hoàn thành công việc của
học sinh làm căn cứ đánh giá hiệu quả. Giáo viên phải hình dung rõ học sinh có
thái độ gì? phải có kỹ năng như thế nào? ở mức độ như thế nào? Ben cạnh mục
tiêu chung cho cả lớp, thì cần phải tính đến mục tiêu riêng cho những nhóm học
sinh (đặc biệt là Ban cán sự)
Ví dụ: tiết 3 thể dục 6

- Học sinh ôn luyện một số động tác đội hình đội ngũ ở cấp 1: nghiêm, nghỉ, tập
hợp hàng ngang, dóng hàng, quay phải, quay trái, …
- Học sinh biết và bứoc đầu thực hiện các động tác: tập hợp hàng dọc, cách
chào, báo cáo, xin phép ra vào lớp, điểm số đội hình đội ngũ, động tác vươn thở,
động tác tay, động tác ngực của bài thể dục phát triển chung.
- Rèn luyện kỹ năng chỉ huy của học sinh.
- Giáo dục và rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, tính tổ chức kỷ luật, ý thức tập
luyện.
Một nét nổi bật dễ nhận thấy cốt lõi của giáo án là phần thiết kế các hoạt động
giúp học sinh lĩnh hội các yêu cầu cần đạt, thể hiện rõ các hoạt động của thầy –
trò.
Ví dụ: tiết 20 tuần 10 thể dục 6
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ:
Sau khi xác định một số biện pháp cơ bản để phát huy vai trò chỉ đạo của
Ban cán sự:
- Đổi mới cách soạn giáo án.
- Lựa chọn và bồi dưỡng Ban cán sự.
- Rèn luyện thói quen tập luyện dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự lớp.
- Đổi mới cách đánh giá.
Tôi tiến hành áp dụng vào thực tế giảng dạy để kiểm chứng: thời gian tiến hành
3 tuần (từ tuần 5 đến tuần 7) thực hiện trên 9 lớp (2 lớp 6, 3 lớp 7, 2 lớp 8, 2 lớp
9) với tổng số tiết là 38 tiết.
+ Tuần 1: Giáo viên chỉ đạo chủ yếu ở khối 8 + 9
+ Tuần 2: Lớp trưởng chỉ đạo chủ yếu ở khối 8 + 9
+ Tuần 3: Ban cán sự chỉ đạo chủ yếu ở khối 8+ 9
+ Tuần 4: Giáo viên dạy khối 8 + 9 thực hiện ở khối 6 + 7 (Ban cán sự chỉ đạo
chủ yếu)
Kết quả phỏng vấn trực tiếp như sau:
Tuần 1: 10/10 tiết GV mệt, BCS bình thường, HS không thoái mái, nản tập.
Tuần 2: 10/10 tiết GV bình thường, lớp trưởng mệt, HS không thoải mái, nản

tập.
Tuần 3: 10/10 tiết GV mệt, BCS lúng túng, HS không thoái mái, nản tập.
Tuần 4: 10/10 tiết GV bình thường, BCS bình thường, HS thoải mái, hăng say
luyện tập.
Như vậy với kết quả trên cho phép tôi rút ra kết luận:
Phần III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:
Qua qua trình nghiên cứu đề tài, tôi thấy việc phát huy vai trò chỉ đạo của
Ban cán sự là cần thiết phù hợp với chương trình đổi mới phương pháp giáo dục.
Để làm được điều này đòi hỏi người giáo viên phải tốn nhiều công sức trong
thời gian đầu năm học với các biện pháp sau:
1. Lựa chọn và bồi dưỡng thường xuyên Ban cán sự lớp.
2. Xây dựng thói quen tập luyện dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự lớp.
3. Đổi mới cách soạn giáo án.
4. Đổi mới cách nhận xét đánh giá.
Thì mới thu đựoc nhiều thắng lợi trong công tác giảng dạy bộ môn thể dục.
Với kết quả thu đựơc qua một số năm giảng dạy và qua đợt kiểm nghiệm
đã cho phép tôi khẳng định các biện pháp sau là đúng đắn có vai trò quyết định
trong việc phát huy sức mạnh của Ban cán sự lớp. Đồng thời khẳng định vai trò
của Ban cán sự lớp và sự cần thiết phải sử dụng Ban cán sự lớp.
II. ĐỀ XUẤT:
Với chương trình đổi mới hiện nay đòi hỏi phải có sự đổi mới phương
pháp giáo dục: Giảm lý thuyết, tăng thực hành, phát huy khả năng của học
sinh trong đó có sự tự quản lý chỉ đạo và tự đánh giá nhận xét của các em
học sinh. Tuy nhiên việc đổi mới vẫn còn chậm nhất là phát huy vai trò
của Ban cán sự lớp.
Đề tài này tôi nghiên cứu không chỉ áp dụng cho học sinh trường THCS
Cẩm Vũ mà còn có thể áp dụng cho tất cả các tiết học thể dục ở các cấp học.
Ngoài ra, phát huy vai trò của Ban cán sự lớp có tác dụng mạnh mẽ nhằm
đưa công tác giáo dục lên một tầm cao mới, do đó đề tài tôi nghiên cứu cũng có

thể áp dụng một phần vào các môn học khác.
Đề tài tôi nghiên cứu, áp dụng trong phạm vi nhất định, khả năng bản
thân, thời gian và điều kiện hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ sung cho đề tài này ngày
càng hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

×