Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HS LỚP 5A3 TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ PHƯỚC A PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG NGHĨA TỪ NHIỀU NGHĨA TỪ ĐỒNG ÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.66 KB, 24 trang )

TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HS LỚP 5A
3
TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ PHƯỚC
A PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG NGHĨA - TỪ NHIỀU NGHĨA - TỪ ĐỒNG ÂM
PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1-Cơ sở lí luận :
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức
của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt có
vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của mỗi con
người. Mục tiêu của chương trình Tiếng việt tiểu học mới ngoài việc cung cấp kiến
thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt còn phải giúp học sinh giao tiếp tốt
trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng, nắm rõ nghĩa
của từ có ý nghĩa quan trong trong giao tiếp, giúp học sinh tự tin tham gia vào hoạt
động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn
sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Muốn làm được điều này học sinh phải có kiến thức vững chắc về Tiếng Việt.
Đó không chỉ là kiến thức về ngữ pháp, về vốn từ mà còn phải nắm vững kiến thức
về nghĩa cuả từ. Trong chương trình Tiếng Việt 5 học sinh được học kiến thức về
nghĩa của từ: các hiện tượng trái nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa và nhiều nghĩa. Trong
các hiện tượng đó thì kiến thức về từ nhiều nghĩa là phức tạp nhất. Là một giáo viên
lớp 5, qua nhieàu năm kinh nghiệm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh còn rất nhiều
lúng túng, khó khăn, khi học nội dung kiến thức này dẫn tới các tiết học nặng nề,
không hứng thú, không lôi cuốn được các em. Nguyên nhân nào dẫn tới những khó
khăn đó? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa? Đó là lý
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 1
do tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A
3
trường tiểu học Mỹ
Phước A phân biệt từ đồng âm – từ đồng nghĩa - từ nhiều nghĩa”.


2-Cơ sở thực tiễn
Thực tế ở đây đã cho thấy có nhiều GV không ngừng say sưa tìm tòi sáng tạo
trong giảng dạy, đưa chất lượng ngày càng đi lên về mọi mặt, đáp ứng được với nhu
cầu đòi hỏi của xã hội trong thời kì đổi mới; nhưng cũng thật đáng buồn vì còn có
một số ít GV còn coi nhẹ vấn đề này. Mặt khác chương trình các môn học ở trường
tiểu học hiện nay đã được sắp xếp một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh
tiểu học là bậc học nền tảng. Đến trường là là một bước ngoặt lớn của các em, trong
đó họat động học là họat động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội
chưa được bao nhiêu, vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư
tưởng, tỉnh cảm của mình còn quá ít. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa - từ
đồng nghĩa - từ đồng âm. Hơn thế nữa các em chưa ý thức được vai trò xã hội của
ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động
chức năng của nó. Mặt khác HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng
mình mà cho người khác ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng đúng đắn và dễ hiểu, tránh
làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt .
Qua thực tế giảng dạy dự giờ đồng nghiệp ở trường, tôi nhận thấy việc dạy và
học về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm còn có một số tồn tại sau :
+ GV truyền kiến thức về khái niệm từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng
âm còn máy móc, rập khuôn và sơ sài, lấy ví dụ mà chưa hiểu được bản chất của
nó .Chỉ bó hẹp trong phạm vi SGK. Khi thoát khỏi phạm vi này thì HS hầu hết đều
luống cuống và nhầm lẫn .
+ Khi thể hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá,
giỏi , còn lại đa số HS khác thụ động ngồi nghe rồi một số em khác có muốn nêu
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 2
cách hiểu của mình về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cũng sợ sai lệch,
từ đó tạo nên không khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt , thiếu hứng thú
không tạo được hiệu quả trong giờ học .
+Trong những bài dạy về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm hầu
như GV ít đọc tài liệu tham khảo, ít học hỏi và trao đổi với đồng nghiệp
Phải chăng những tồn tại đó còn tiềm ẩn trong mỗi tiết dạy để rồi GV tự dấu đi

những kiến thức tài năng sẵn có và những gì đã được học tập, lĩnh hội ở nhà trường
sư phạm rồi dần dần đánh mất. Đứng trước thực trạng như vậy và rút kinh nghiệm
qua nhiều năm dạy-học lớp 5, năm nay tôi có : “Một số kinh nghiệm giúp HS lớp
5A
3
phân bịêt từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa, từ đồng âm”. Nhằm giúp học sinh tháo
gỡ những lầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm tạo nền tảng
để các em học tốt môn Tiếng Vịêt. Tuy là bước đầu nhưng tôi mạnh dạn nêu lên và
mong được sự ủng hộ quan tâm, đóng góp của các bạn đồng nghiệp để tôi được hòan
thiện hơn về kinh nghiệm này .
II-MỤC ĐÍCH , ĐỐI TƯỢNG VÀ PHUONG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài này nghiên cứu với mục đích :
- Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng
nghĩa - từ đồng âm. Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho HS.
- Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tác được ý nghĩa từ
vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ .
- Giúp HS có năng lực sử dụng từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm
trong sinh sản văn bản bằng hình thức nói họăc viết, để từ đó các em sử dụng được
Tiếng Việt văn hóa làm công cụ giao tiếp tư duy.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 3
2-Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này, vấn đề tơi nghiên cứu ở đậy: Một số kinh nghiệm giúp HS
phân bịêt về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm” và chỉ nghiên cứu trên
những học sinh lớp 5A
3
trường tiểu học Mỹ Phước A mà tơi đã chủ nhiệm có những
khó khăn phân biệt từ. Nhằm tìm ra những phương pháp hạn chế tối đa tình trạng
nhằm lẩn các từ nêu trên.
3. Phương pháp nghiên cứu:

3. 1. Phương pháp quan sát và đàm thoại : Từ những giờ dạy cụ thể trên lớp
tơi đã quan sát, ghi nhận những biểu hiện về kĩ năng đọc của các em. Bên cạnh đó tơi
còn trực tiếp phỏng vấn, nói chuyện với một các em học sinh trong những giờ sinh
hoạt lớp hay sinh hoạt ngồi giờ lên lớp. Qua đó nắm bắt thêm những biểu hiện – kĩ
năng của các em .
3.2 . Phương pháp điều tra : Tơi dùng một số câu hỏi để hỏi trực tiếp, các em
trả lời miệng những câu hỏi tơi đã nêu. Từ đó tơi thu thập, ghi nhận những gì đã tìm
hiểu được .
3.3 . Phương pháp thu thập tài liệu, phân tích tổng hợp:
- Cho các em phân biệt nghĩa một số từ ngữ ( 3 loại từ) để theo dõi nhận xét,
đánh giá và kết luận .
3.4. Phương pháp thống kê: Thống kê là phương pháp giúp chúng ta nắm được
khả năng phân biệt nghĩa của từ, trong chương trình thơng quan các bài tập học. Từ
đó có kế hoạch bồi dưỡng và có phương pháp hướng dẫn thích hợp cho từng đối
tượng học sinh .
3. 5 . Phương pháp đọc sách và tài liệu .
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 4
- Đọc sách để tìm cơ sở lí luận cho cách làm của mình, để nắm được yếu tố
tâm lý, xu hướng của học sinh
- Đọc sách và tài liệu nhằm giúp bản thân trau dồi thêm kiến thức và kinh
nghiệm cho bản thân.
- Đối với học sinh các em thường xun đọc và tham khảo để các em có khả
năng đọc nhuần nhuyễn và xác định được phù hợp hơn về nghĩa của các loại từ.
3.6. Phương pháp trò chuyện: Phương pháp trò chuyện đem lại nhiều thơng tin
bổ ích như tìm hiểu hồn cảnh gia đình của học sinh, trao đổi việc học tập của các
em qua tiếp xúc với phụ huynh học sinh. Trò chuyện với các em để biết những khó
khăn của học sinh đối với tiết Tập đọc. Từ đó tơi sẽ rút kinh nghiệm và tìm ra những
phương pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng mơn luyện từ và câu cho học sinh
lớp tơi.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI :

Phạm vi tơi nghiên cứu và áp dung sáng kiến này ở lớp 5A
3
trường tiểu học
Mỹ Phước A trong năm học 2012 – 2013.
Mơn: Luyện từ và câu
Phần: Giúp học sinh phân biệt các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng
âm.
IV. CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU:
Nếu học sinh lớp 5A
3
trang bị tốt kĩ năng phân biệt được nghĩa của từ. Đó cũng
là một tiền đề cho các em học tốt các mơn học còn lại. Bởi vì khơng chỉ có mơn
luyện từ và câu học sinh mới cần nắm được nghĩa của từ mà hầu như tất cả các
mơn. . Thơng qua việc phân biệt nghĩa của các loại từ giúp cho các em hiểu được
vận dụng rất nhiều trong thực tế.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 5
Nếu các lớp áp dụng đồng bộ các kinh nghiệm mà đề tài đã nêu ra thì kĩ năng
phân biệt của học sinh sẽ đạt được kết cao trong các Luyện từ và câu tới.
V. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
Tháng 9/201: Đăng kí sáng kiến, sưu tầm tài liệu.
Tháng 10/2012: Điều tra thực trạng, thu thập và xử lí các số liệu .
Thaùng 11 / 2012: Lập đề cương.
Thaùng 12/ 2012 – 01/2013: Viết sáng kiến và báo cáo sơ bộ.
Thaùng 2 - 3/ 2013: Chỉnh sửa sáng kiến kinh nghiệm.
Thaùng 04/ 2013: Hoàn thiện đề tài và nộp về trường.
PHẦN II- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I-THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU
Qua những năm tôi được ban giám hiệu phân công giảng dạy trực tiếp lớp 5.
Với môn Luyện từ và câu qua phần “từ nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa – từ đồng âm”.
Tôi nhận thấy học sinh của mình còn vướng mắc một số thực trạng sau :

Sau khi học sinh học về từ đồng nghĩa học sinh nắm được “ Từ đồng nghĩa là
những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa. Rất nhiều học sinh nêu được
định nghĩa này, thậm chí là thuộc lòng và đã biết vận dụng vào việc xác định được từ
đồng âm, mặc dù chưa được chính xác, vẫn có những học sinh lúng túng. Nhưng sau
tiết củng cố, luyện tập, học sinh dần dần nắm được và vận dụng được từ đồng âm.
Đến khi xuất hiện từ nhiều nghĩa thì học sinh thực sự lúng túng. Lúng túng phân vân
giữa việc xác định, phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa. Rất nhiều học sinh thậm chí
chỉ biết đoán mò kết quả. Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ, giải
nghĩa từ học sinh còn làm sai nhiều. Đặt câu có sử dụng từ từ nhiều nghĩa – từ đồng
nghĩa – từ đồng âm: chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 6
Một phần học sinh chưa có ý thức học tập còn ỉ lại dựa dẫm vào giáo viên. Bên
cạnh đó đại đa số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em
mình mà phán trắng cho giáo viên.
Kết quả khảo sát đầu năm:
Sỉ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL Tỷ lệ % SL Tỷ Lệ % SL Tỷ Lệ % SL Tỷ lệ %
22/11 3 13,63 5 22,73 5 22,730 9 40,91
II . CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khắc phuc tình trạng này quả là khó vì từ đồng âm - nhiều nghĩa – từ đồng
nghĩa là hai nội dung khá khó, khó phân biệt và không phải là không được. Quan
trọng là phải tìm hiểu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa nhung không phải trên lý thuyết
mà phải bắt đầu từ các ví dụ. Học sinh phải biết làm quen với nhiều với việc phân
tích ví dụ để hiểu rõ hơn về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để từ đó học sinh hiểu rõ hơn
được bản chất của vấn đề nhằm nhận biết, phân biệt và vận dụng chúng một cách
linh hoạt. Để có được điều đó thì chỉ có vận dụng trong các giờ luyện tập, đặc biệt
việc củng cố kiến thức không chỉ ngày một, ngày hai mà phải cả quá trình, mọi lúc,
mọi nơi có thể. Song sau tiết học về đồng am - nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa thì cần
thiết phải có tiết củng cố kiến thức này, củng cố một cách tổng hợp về từ đồng âm -
từ nhiều nghĩat - từ đồng nghĩa . Nói là củng cố kiền thức chung nhưng cũng phải bắt

đầu từ các ví dụ cụ thể. Qua đó để thấy được chỗ “hổng” của học sinh để kịp thời
củng cố, khắc sâu.
Xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của từ đồng am - nhiều nghĩa – từ đồng
nghĩa, xuất phát từ những khó khăn mà học sinh còn gặp phải khi học các tiết học về
từ đồng am - nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa và nguyên nhân của những khó khăn đó,
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 7
để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa trong chương trình Tiếng Việt
lớp 5, qua nghiên cứu và thử nghiệm tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
1. Từ đồng nghĩa :
Định nghĩa : *Từ đồng nghĩa là các từ khác nhau về mặt ngữ âm nhưng giống
nhau về mặt ý nghĩa, chúng cùng biểu thị các sắc thái khác nhau của cùng một khái
niệm.( Tài liệu của Trường đại học Vinh )
Ví dụ: Cùng nói đến khái niệm ăn có xơi, nhậu nhẹt
*Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau .
Ví dụ: siêng năng , chăm chỉ,cần cù,
*Có những từ đồng nghĩa hoàn toàn , có thế thay thế cho nhau trong lời nói. Ví
dụ : hổ, cọp, hùm,
*Có những từ đồng nghĩa không hoàn toàn .Khi dùng những từ này ,ta phải
cân nhắc để lựa chọn cho đúng .Ví dụ :
+ăn, xơi, chén, (biểu thị thái độ, tình cảm khác nhau đối với người đối thoại
hoặc điều được nói đến).
+mang, khiêng, vác, ( biểu thị những cách thức hành động khác nhau )
(Sách Tiếng Việt 5 tập 1)
2. Từ nhiều nghĩa :
Định nghĩa :*Là từ dùng một hình thức âm thanh biểu thị nhiều ý nghĩa (biểu
thị nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau ), các ý nghĩa có quan hệ với nhau, chúng lập
thành một trật tự,một cơ cấu nghĩa nhất định .
Ví dụ : đầu : (1)bộ phận trên hết của người, bộ phận trước hết của người của
vật
(2)trí tuệ thông minh : anh ấy là người có cái đầu.

(3)Vị trí danh dự : anh ấy luôn đứng đầu lớp về mọi mặt.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 8
(4)Vị trí tận cùng của sự vật : Anh ở đầu sông em cuối sông
(Tài liệu của trường đại học Vinh –Chu Thị Thủy An)
*Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các
nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau
Ví dụ: - Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người mọc ở trên
mặt)
- Quả na mở mắt ( quả na bắt đầu chín , có những vết nứt rộng ra
giống hình con mắt) ( Sách Tiếng Việt 5 Tập 1)
3.Từ đồng âm
a) Định nghĩa: *Là những từ giống nhau về ngữ âm nhưng khác nhau về ý
nghĩa.
Ví dụ: Cổ: bộ phận cơ thể con người và cổ :xưa, lạc hậu
bác: anh, chị của bố mẹ và bác là chưng cất, bác là phủ định, bác là
bố( Bác mẹ em nghèo) ( Tài liệu của trường Đại học Vinh –Chu Thị Thủy An)
b) Ngôn ngữ có tính tiết kiệm co nên tất yếu dẫn đến hiện tượng đồng âm
.Tuy nhiên đồng âm trong Tiếng Việt có đặc điểm riêng :
- Thường xẩy ra ở những từ có cấu trúc đơn giản ( các từ đơn tiết) .
- Các từ đồng âm trong Tiếng Việt chỉ xẩy ra trong ngữ cảnh vì Tiếng Việt là
ngôn ngữ không biến hình
*Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa
Ví dụ : a) Ông ngồi câu cá (Câu là họat động bắt cá, tôm bằng móc sắt
nhỏ (thường có mồi) buộc ở đầu một sợi dây )
b) Đoạn văn này có 5 câu( câu là đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn
vẹn , trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu
ngắt câu ) (Sách Tiếng Việt 5 tập 1)
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 9
4-Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm
4.1- Từ đồng nghĩa

* Bản chất của từ đồng nghĩa: Thực tế học sinh thường nhầm lẫn giữa từ
đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm. Không nắm được nghĩa của chúng bởi vì
định nghĩa về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa chính xác dẫn đến sự
khó khăn cho HS trong vịêc nhận diện. Phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ
đồng âm chỉ dựa vào định nghĩa là chưa đủ. Đứng trước thực tế đó nên tôi đã mở
rộng thêm cho HS một số kiến thức sau:
- Từ đồng nghĩa: Bản chất của từ đồng nghĩa ( tính ở mức độ của từ đồng
nghĩa )
Khả năng họat động tác động đến sự di chuyển của các sự vật có các từ: ném,
lao, phóng, quăng, vứt, xán xô, đẩy liệng, tống đạp, đá, nhấn, dìm, kéo, dật, rút,
gieo, rắc, vãi, trút, xoay, quay, gồng,, gánh
Căn cứ vào chiều di chuyển để chia ra các nhóm đồng nghĩa .
- Di chuyển ra xa chủ thể: ném, phóng, lao
- Di chuyển gần lại : lôi, kéo, co, giật, rút
- Di chuyển quay xung quanh chủ thể: gánh,xoay, quay
- Di chuyển cùng chủ thể : Gồng, gánh, bưng, đội, cõng
Các từ trong từng nhóm có mức độ đồng nghĩa cao hơn so với các từ trong các
nhóm khác .
a) Bản chất của từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa nhưng
có tính mức độ.Tính mức độ này là do các từ ngoài sự đồng nhất thì có sự khác biệt
nhất định về sắc thái nghĩa .
Ví dụ : Về trạng thái chấm dứt sự sống: chết, hi sinh, tử, mất
Về hiện tượng hấp thụ thức ăn: Tống, hốc, tọng, ăn
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 10
Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và khác
nhau. Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái.
Ví dụ 1: Quả, trái
Giống nhau: Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định (quả
mít/ trái mít)
Khác nhau: Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát ra sắc thái

tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương, ( quả tim/ trái tim; quả trứng/trái
trứng*)
Ví dụ 2 : Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một cái
gì đó (Giữ quần áo; bảo vệ quần áo)
Tuy nhiên hai từ này điểm khác nhau :
+ Bảo vệ phù hợp với đối tượng lớn trừu tượng ; Giữ gìn phù hợp với đối tượng
nhỏ, quý (Giữ gìn đòan kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, Bảo vệ
đất nước )
+ Bảo vệ có nét nghĩa ngăn ngừa, phòng chống, ngăn chặn sự tác động của
bên ngoài; giữ gìn có tính chất thụ động giữ cái đã có, không có sắc thái chống lại
thế lực bên ngoài. (Bảo vệ luận văn khác Giữ gìn luận văn).
Ví dụ 3: Không phận, vùng trời có nét nghĩa chung là chỉ biên giới phía trên
của một quốc gia .( Địch xâm phạm vùng trời Việt Nam; Địch xâm phạm không phận
Việt Nam ). Sự khác nhau là: Vùng trời có khả năng chỉ một khoảng không cụ thể
Còn Không phận thì không có khả năng này. ( Vùng trời quê tôi thật yên là ả .)
Ví dụ 4: Chọn,lựa, tuyển, kén có nghĩa chung là tìm ra cái gì đó cùng loại với
nó. Khác nhau ở điểm: Chọn thiên về cái tốt, số lượng đối tượng nhiều, từ cái mình
có mà ra; lựa thiên về loại bỏ cái xấu, số lượng đối tượng ít, xuất phát từ đối tượng
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 11
mà tìm; Tuyển là số lượng đã biết trước; Kén dùng cho người có tính chất khắt khe cá
nhân.
Ví dụ 5: Nhanh, mau, chóng ( Hiệp thợ này nhanh vì họ làm mau nên chóng
xong). Nhanh chỉ tính chất chung, mau chỉ thao tác, chóng chỉ thời gian.
b) Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm
Ví dụ 1: Cho, biếu, tặng: Cho có sắc thái trung hòa, Biếu có sắc thái kính
trọng , tặng có sắc thái thân mật .
c) Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng
các từ đồng nghĩa khác nhau. Hay nói cách khác, các từ đồng nghĩa không phải bao
giờ cũng thay thế cho nhau được, chúng đồng nghĩa với nhau vì chúng vừa giống
nhau vừa khác nhau .

Ví dụ: Hoài sơn/ củ mài; trần bì/ vỏ quýt: Các từ Hán Việt dùng trong khoa
học, các từ thuần Việt dùng trong đời sống .
d) Hiện tượng đồng nghĩa không tách rời hiện tượng đa nghĩa, đó là nguyên
nhân của tính mức độ. Các từ đồng nghĩa với nhau không phải đồng nghĩa về tòan bộ
dung lượng nghiã của nó mà chỉ đồng nghĩa ở một một nghĩa nào đó mà thôi.
Ví dụ : Trông có ba nghĩa : - Hướng mắt quan sát
- Giữ, chăm sóc
- Nương vào, nhờ vào
Dựa có ba nghĩa : - Theo , căn cứ theo
- Tựa vào, nhờ vào
- Nương vào, nhờ vào
Trông và dựa đồng nghĩa với nhau ở nghĩa thứ ba.
*Một từ nếu là từ đa nghĩa, với các nghĩa gốc khác của nó, nó có thể đồng nghĩa với
nhiều từ khác nhau
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 12
Ví dụ: Ăn - Thắng (Đội tớ ăn rồi, đội cậu thua )
- Hợp (ăn cánh, ăn ảnh, ăn hình )
- Hưởng, nhận ( tàu ăn than
- Hao, tốn ( xe ăn xăng)
*Phân loại từ đồng nghĩa:
Từ đồng nghĩa xẩy ra ở nhiều cấp độ :
- Hình vị với hình vị : xanh- thanh - lam-bích- lục
Đánh- chiến – kích -đấu
- Từ với từ: Thiên- trời ; sơn –núi
- Từ Hán Việt với từ thuần Việt : Huynh đệ-Anh em; phụ nữ - đàn bà
- Từ thuần Vịêt với từ Thuần Việt: ăn-xơi
- Cụm từ với cụm từ :
*- Nguồn gốc của từ đồng nghĩa
a) Đồng nghĩa do cấu tạo từ, đồng nghĩa sẵn có giữa các yếu tố thuần Việt .
Ví dụ: Từ các từ Nhanh, mau, chóng có thể cấu tạo ra hàng lọat từ:

Nhanh : nhanh chóng, nhanh nhanh, nhanh nhẹn, nhanh nhạy
Mau: mau chóng, mau lẹ
Chóng chóng vánh, nhanh chóng
b) Đồng nghĩa do vay mượn: Đó là hiện tượng đã có từ A vay mượn B và cả
hai cùng chi X
- Đồng ở nghĩa cấp độ yếu tố cấu tạo ( hình vị): xa-xe ; bích , thanh-xanh
- Đồng nghĩa giữa từ với từ: bằng hữu - bạn bè
- Đồng nghĩa giữa các từ vay mượn với nhau
điện thoại – Telephon Bụt ( bụt đà)- phật
cân – ki-lô- gám (Môn khơme)-(Hán)
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 13
(Hán) - (Pháp)
c) Từ đồng nghĩa do từ tòan dân và từ địa phương
Ví dụ: Bắp/ ngô/ sạo/xà lì; bát/đọi-chén; heo/ lợn; đu đủ/moọng coong/; hành
tăm/thun
d) Từ đồng nghĩa do sự phảt triển của từ đa nghĩa
Ví dụ: Trông: (1) nhín
(2)chăm sóc
(3)căn cứ theo
Do sự phát triển nghĩa như trên mà hai từ trông, dựa, có quan hệ đồng nghĩa
với nhau: (3) của trông đồng nghĩa với ha của dựa
4.2-Từ nhiều nghĩa
* Cơ cấu của từ đa nghĩa
Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa, trải quan thời gian có thêm
nhiều nghĩa mới ( nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ nghĩa cơ sớ (nghĩa
gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định.
Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của sự
vật được phản ánh trong ngôn ngữ trong nghĩa gốc của từ dưới dạng các nét nghĩa trở
thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới. Nhờ vào quan hệ liên tưởnhg tương
đồng (ẩn dụ) và tương cận ( hoán dụ )người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia

trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vẩt
ấy.Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự
vật, tính chất, hành động khác nghĩa ( nghĩa2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ
đó
Ví dụ: Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển
cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 14
(2) Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến
sự phát triển cao nhất .( Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín)
(3) Sự thay đổi màu sắc nước da. ( ngượng chín cả mặt )
(4) Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm. (cam chín).
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải, miêu tả
thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa. Nghĩa
của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở :
+ Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau :
- Dạng: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các
sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.
Ví dụ: Mũi
1
( mũi người) và Mũi
2
( mũi thuyền) :Miệng
1
( miệng xinh) và
miệng
2
( miệng bát)
Dạng 2: Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng,
của các sự vật, đối tượng .
Ví dụ : cắt

1
( cắt cỏ) với cắt
2
( cắt quan hệ )
Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các
sự vật đối với con người.
Ví dụ: đau
1
(đau vết mổ ) và đau
2
(đau lòng )
+ Theo cơ chế hoán dụ có tác dụng.
- Dạng
1
: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
Ví dụ: Chân
1
, Tay
1
, mặt
1
là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ
cái toàn thể ( anh ấy có chân
2
trong đội bóng Tay
2
bảo vệ của nhà máy số ba có Mặt
2
trong hội nghị)
Dạng

2
: nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.
Ví dụ: Nhà
1
Là công trình xâu dựng (Anh trai tôi đang làm nhà)
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 15
Nhà
2
là gia đình ( Cả nhà có mặt)
Ví dụ 2: Thúng
1
: Đồ vật dùng để đựng đan bằng tre hoặc nứa( Cái thúng này
đan khéo quá)
Thúng
2
: Chỉ đơn vị ( Hai thúng lúa)
Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển dựa trên nguyên liệu hay công cụ với sản
phẩm được làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu
hay công cụ đó .
Ví dụ: Muối
1
: Nguyên liệu ( Một kg muối); muối
2
: hành động làm cho thức ăn
chín hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa ngon lắm)
4.3 Từ đồng âm :
a) Văn cảnh ( ngữ cảnh) là tập hợp những từ đi kèm một từ nào đó tạo cho từ
tính xác định về nghĩa .
b) Họat động của từ đồng âm :
- Tạo ra những văn cảnh trong đó có nhiều từ đồng âm xuất hiện:

Con ngựa đá con ngựa đá con ngựa đá không đá con ngựa.
- Tạo ra những ngữ cảnh đan xen nhau trong đó có một yếu tố nào đó được
hiểu gấp đôi.
Bà già đi chợ cầu đông,
Bói xem một qủalấy chồng lợi chăng.
Thầy bói gieo quả nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn .
- Tạo ra những ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện nhưng
nó lại được đi kèm với yếu tố khác, có tác dụng nhắc gợi nhau.
Con công đi qua chùa kênh,Có nghe tiếng cồng nó kềnh cổ ra .
Con cóc leo cây võng cách , nó rơi phải cọc nó cạch đến già .
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 16
- Tạo ra ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện được trong
quan hệ với các yếu tố đồng nghĩa.
1 - Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
2 - Cuốc xuống ao uống nước, Gà vào vườn ăn kê
3 - Chuồng gà kê áp chuồng vịt
4 - Trời mưa đất thịt trơn như mỡ
Dò đến hàng nem chả muốn ăn
5 - Một chiếc cùi lim chân có đế
Ba vòng xịch sắt bước còn vương
c) Nguyên nhân có hiện tượng đồng âm
- Sẵn có
- Vay mượn
- Từ đa nghĩa phát triển đến mức tối đa .
Sau khi mở rộng cho HS một số khái niệm cơ bản cần thiết về từ đồng nghĩa,
từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn HS so sánh sự giống nhau và khác nhau
giữa chúng .
*Khác nhau :

Từ đồng
nghĩa
Từ nhiều nghĩa Từ đồng âm
Là những từ
có nghĩa
giống nhau
hoặc gần
giống nhau .
Ví dụ : Siêng
Nghĩa của từ được phát triển dựa trên hai cơ
sở :
- Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có
hai dạng sau :
+ D
1
:Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống
nhau về hình thức giữa các sự vật hiện tượng
Cơ sở tạo ra từ đồng
âm là do tính chất
tiết kiệm
-Thường xẩy ra ở
những từ có cấu trúc
đơn giản
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 17
năng, chăm
chỉ, cần cù ,
hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương
quan về hình dáng Ví dụ : Mũi
1
( mũi người),

mũi
2
(mũi thuyền)
+ D
2
: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ
về cách thức hay chức năng của các sự vật,
đối tượng .Ví dụ: Cắt
1
( cắt cỏ), cắt
2
(cắt quan
hệ)
D
3
:Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ
kết quả do tác động của các sự vật đối với con
người Ví dụ: đau
1
(đau vết mổ), đau
2
(đau
lòng)
- Theo cơ chế hóan dụ có các dạng:
+ D
1
:Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan
hệ giữa bộ phận và tòan thể Ví dụ : Chân
1
,

tay
1
,mặt
1
là những tên gọi chỉ bộ phận được
chuyển sang chỉ cái toàn thể (Anh ấy có
Chân
2
trong đội bóng ; Tay
2
bảo vệ của nhà
máy số ba có mặt
2
trong hội nghị )
+ D
2
: Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ
giữa vật chứa với cái được chứa.Ví
dụ :Nhà
1
là công trình xây dựng (Tôi đang
làm nhà),Nhà
2
là gia đình(Cả nhà ăn cơm )
D
3
:Nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ
nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm làm ra
từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành
-Các từ đồng âm

trong Tiếng Việt chỉ
xẩy ra trong ngữ
cảnh vì Tiếng Việt là
ngôn ngữ không biến
hình
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 18
động dùng nguyên liệu hay công cụ đó .Ví
dụ: Muối
1
nguyên liệu( một kg
muối);muối
2
hành động làm cho thức ăn chín
hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa rất ngon)
*Giống nhau :
Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau
Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thường dễ nhầm lẫn :
Ví dụ: ba: ba: (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
(2) số từ: Số ba là con số không may mắn .
Học sinh có thể nhầm lẫn từ“ba” là từ nhiều nghĩa vì có hình thức âm thanh
giống nhau. Khi gặp trường hợp này tôi đã phân biệt để HS thấy được giữa các nét
nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau còn ở đây các nét nghĩa
không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa
Trường hợp ví dụ trên là từ đồng âm.
Để giúp HS có thể phân biệt được là từ nhiều nghĩa hay là từ đồng âm cần giúp
HS xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối với từ nhiều nghĩa ) , nêu loại
trừ được có quan hệ về các nét thì đó là từ đồng âm còn ngược lại nếu đồng âm
nhưng có quan hệ về các nét nghĩa nữa thì đó là từ nhiều nghĩa
III- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kết quả

Năm học 2012-2013 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A
3
có 22 em học sinh
.Tôi lần lượt sử dụng các giải pháp trên bằng cách lựa chọn và phân bố hợp lí theo
từng nội dung của bài, lấy nhiều ví dụ minh họa để học sinh nắm được đặc điểm cơ
bản của các loại từ trên từ đó có thể phân biệt và nhận dạng dễ dàng hơn trong khi
làm bài tập .Tôi đã thu được kết quả sau:
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 19
Thời điểm dạy và học Học kì I Giữa học kì II
Số học sinh phân biệt được từ đồng nghĩa,
từ nhiều nghĩa, từ đồng âm 54,55% 90,90%
Số học sinh đạt điểm khá, giỏi . 31,81% 50%
Qua kết quả khảo sát trên và qua thực tế lớp, tơi nhận thấy trong các giờ Luyện
từ và câu học sinh rất say mê học tập làm cho khơng khí lớp trở nên sơi nổi, kĩ năng
phân biệt từ của học sinh được nâng lên rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học chưa biết
nhưng đến gần cuối năm đã tuến bộ rõ ràng,, nhiều em đạt điểm khá tốt.
2. Phạm vi, vi mô áp dụng :
Sau khi được tổ khối 5 và BGH trường thống nhất với các giải pháp mà
tôi đã đưa ra trong đề tài. Vì vậy đề tài của tôi đã được áp dụng cho khối lớp 5 ở
trường tiểu học Mỹ Phước A. Nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều
nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm.
PHẦN III. KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CƠNG TÁC DẠY VÀ HỌC :
Qua q trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp đã nghiên cứu vào thực
tiễn cho thấy: kết quả dạy và học có chuyển biến rõ rệt. Bước đầu đã đem lại nhiều
cái hay, cái đúng. Cái hay ở đây là cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học, học sinh thật sự là trung tâm trong q trình dạy học, các em đã có động cơ
thích thú khi học Luyện từ và câu, các em đã tự mình tìm tòi học hỏi, đã có một thái
độ học tập chăm chỉ. Với qúa trình thực hiện như thế các em học sinh đã có tâm lý
sẵn sàng đến lớp học và có hứng thú nhiều trong việc Luyện từ và câu. Ngòai ra, các

em đã có động cơ học tập đúng đắn, giúp các em nhận ra được phương thức học
đúng, để thực hiện những hành động cần thiết. Còn cái đúng là học sinh đã hiểu bài
một cách chắc chắn ngay tại lớp, nắm được bài một cách nhanh nhẹn cơ bản. Có
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 20
được kỹ năng xác định chính xác về từ nhiều nghĩa, kiến thức học luôn được ghi nhớ
bền lâu. Thật đáng mừng vì sau mấy tháng áp dụng biện pháp nghiên cứu này đã
giúp cho chất lượng học tập của các em đã vươn lên rõ rệt, trình độ được nâng dần
lên và khá đồng đều. Vai trò của người giáo viên lúc này thật sự là người tổ chức,
hướng dẫn, kiểm tra trong suốt hoạt động học tập của học sinh, còn học sinh mới là
chủ thể trong quá trình khai thác tiếp thu kiến thức.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
Từ thực tiễn giảng dạy và những kết quả đạt được, tôi tự rút ra cho mình
những bài học nhỏ trong việc dạy về từ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. trong
phân môn Luyện từ và câu như sau :
- Lên kế hoạch điều tra đầu năm, theo dõi để nắm được năng lực học tập của
từng em .
- Chuẩn bị chu đáo cho giờ học, dự tính các tình huống xảy ra trên lớp.
- Tìm biện pháp khắc phục, tức là biết áp dụng các phương pháp dạy khoa học,
phù hợp với những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi học phần từ nhiều
nghĩa. Củng cố khái niệm, qui tắc: so sánh, nhận biết nghĩa của từ. Tăng cường luyện
tập tạo thành kĩ năng trong xác định nghĩa cho học sinh, nhất là những học sinh yếu
kém luyện từ và câu.
- Rèn cho học sinh xác định , phân biệt xác khi làm bài cần nhớ lâu , nắm vững
kiến thức , nắm bài có khoa học tránh trường hợp học vẹt , bằng phuơng pháp học
nhóm ở nhà và ở lớp .
- Liên hệ gia đình tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh học yếu và nghỉ học
nhiều , động viên phụ huynh tạo điều kiện cho các em có thời gian học ở nhà và kèm
cặp thêm .
- Khen thưởng kịp thời đối với HS yếu học có tiến bộ.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 21

- Ngoài ra tôi học thêm ở các bạn đồng nghiệp bằng nhiều hình thức , và tự
học, tự nghiên cứu qua sách vở, báo đài .
- Người giáo viên phải tận tụy với nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề.
III. ĐỀ XUẤT
Dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học là một vấn đề rất khó và phức tạp. Việc nắm
vững các kiến thức về từ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. góp phần quan trọng
nâng cao kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh để từ đó học sinh có thể giao tiếp
tôt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Thực tế hiện nay chất lượng các tiết học về
từ nhiều nghĩa chưa cao, học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong những
tiết học. Giáo viên chưa lôi cuốn thu hút được học sinh vào hoạt động học tập tích
cực. Nguyên nhân của vấn đề này có từ hai phía: giáo viên và học sinh. Qua nghiên
cứu tôi cũng nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy học giáo viên sử dụng khéo léo
các phương pháp dạy học, các hình thức dạy học khác nhau có thể phát huy được
tính tích cực của học sinh và kích thích, lôi kéo các em vào quá trình học tập, từ đó
nâng cao hiệu quả dạy học.
Qua những năm nghiên cứu thử nghiệm tôi nhận thấy để dạy các tiết học về
ttừ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. có kết quả cao, hạn chế được những khó
khăn của học sinh khi học đồng thời kích thích hứng thú học tập, nâng cao chất
lượng học tập của học sinh, tôi xin đề xuất một số biện pháp sau:
1.Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ SGK, tài liệu tham khảo về hiện tượng từ nhiều
nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. của từ để từ đó nắm vững, giải nghĩa từ một cách
chính xác.
2. Giáo viên cần phải nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, xác định những
khó khăn mà học sinh lớp mình gặp phải để từ đó có biện pháp khắc phục, nâng cao
hiệu quả các tiết học.
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 22
3. Với mỗi tiết học giáo viên cần phải phân loại các dạng bài tập, lựa chọn các
phương pháp dạy học khác nhau để kích thích hứng thú học tập của học sinh.
4. Sau mỗi bài học giáo viên nên đưa ra một số dạng bài tập khác nhau để củng
cố, mở rộng kiến thức cho học sinh

Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm bản thân chưa nhiều, thời gian và điều kiện
nghiên cứu hạn chế nên đề tài chắc chắn còn có nhiều thiếu sót. Rất mong các bạn
đồng nghiệp đọc và góp ý để đề tài hoàn thiện hơn.
5. Mở lớp chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối với “ Từ
đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm”.
6. Cung cấp thêm cho các trường tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học phù hợp.
• Tài liệu tham khảo:
- Sách giáo khoa lớp 5 Tập 1.
- Sách giáo viên lớp 5 tập 1.
- Từ điển tiếng việt.
- Sách phương pháp dạy học Tiếng việt.
- Một số loại tạp chí giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn!
Mỹ Phước,ngày 15/04/2013
Người viết

Hồ Minh Tâm
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 23
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
Người thực hiện : Hồ Minh Tâm 24

×