Tải bản đầy đủ (.docx) (149 trang)

Thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của học sinh trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh_ Luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.98 KB, 149 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

NHẠC VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THANH HẢI

THỊ HIẾU THẨM MỸ ÂM NHẠC CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(Qua trường hợp của hai trường THPT
Tenlơman và Lê Minh xuân)

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Mã số

: 60 14 02 02

LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH KHOA HỌC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Trần Thế Bảo

1


2


TP.HỒ CHÍ MINH – Năm 2014

2


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu suốt hai năm qua, em đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của rất nhiều quý thầy cô, bạn bè, các cơ quan, trường học tại Tp.HCM,
để em hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Đầu tiên, em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Phó giáo sư –
tiến sĩ Trần Thế Bảo, người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong
suốt quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ này!
Em xin cảm ơn ban giám hiệu, phòng Sau đại học, các thầy cô giáo trường Nhạc
viện Tp.HCM đã đã đem lại cho em những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong
những năm học vừa qua. Đồng thời quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành khóa học!
Xin trân trọng cảm ơn ban giám hiệu, các cô chú, các thầy cô giáo và các em học
sinh tại hai trường THPT Lê Minh Xuân (Huyện Bình Chánh) và THPT Ernst
Thalmann (Quận 1) của Tp.HCM đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp tôi thực hiện các khảo
sát, thu thập tài liệu để hoàn thành tốt luận văn này!
Cuối cùng, xin gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè và tất cả những người thân yêu
đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện đề tài luận văn thạc sỹ của mình!
Tp.HCM, ngày 5 tháng 10 năm 2014
TRẦN THANH HẢI


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Mọi số liệu nêu
trong luận văn hồn tồn trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết luận

của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRẦN THANH HẢI


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU----------------------------------------------------------------------------------1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TÂM SINH LÝ VÀ THỊ HIẾU THẨM
MỸ ÂM NHẠC CỦA HỌC SINH THPT---------------------------------------------------7
1.1. Một số vấn đề về tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT-----------------------------7
1.1.1. Đặc điểm cơ thể của lứa tuổi học sinh THPT------------------------------------------8
1.1.2. Đặc điểm sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT------------------------------------8
1.1.3. Những đặc điểm nhân cách chủ yếu ---------------------------------------------------9
1.1.3.1. Sự phát triển của tự ý thức -------------------------------------------------------------9
1.1.3.2. Sự hình thành thế giới quan và nhân sinh quan------------------------------------11
1.1.3.3. Giao tiếp và đời sống tình cảm ------------------------------------------------------12
1.2. Một số vấn đề về thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc -------------------------------------------16
1.2.1. Khái quát chung về vấn đề thẩm mỹ âm nhạc---------------------------------------16
1.2.1.1. Khái niệm thẩm mỹ âm nhạc --------------------------------------------------------16
1.2.1.2. Những biểu hiện đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc theo quan điểm của Mỹ
học hiện đại---------------------------------------------------------------------------------------17
1.2.1.3. Mối quan hệ thẩm mỹ trong hoạt động thẩm mỹ âm nhạc --------------------23
1.2.2. Thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc--------------------------------------------------------------28
1.3. Vai trò của Âm nhạc trong đời sống con người -------------------------------------32
1.3.1. Chức năng của âm nhạc ---------------------------------------------------------------32
1.3.2. Tác động của âm nhạc đối với các quá trình tâm sinh lý của con người ---------36
1.3.2.1. Âm nhạc tác động lên mặt tâm lý của con người --------------------------------36
1.3.2.2. Âm nhạc tác động lên mặt sinh lý của con người --------------------------------39
TIỂU KẾT --------------------------------------------------------------------------------------44

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ÂM NHẠC VÀ THỊ HIẾU THẨM MỸ ÂM
NHẠC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY------------------------------------------------------45
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa – xã hội của Tp.HCM những
năm gần đây---------------------------------------------------------------------------------------45
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và quy hoạch của Tp.HCM--------------------------------------45
2.1.2. Điều kiện về phát triển nền kinh tế của TP-------------------------------------------46
2.1.3. Điều kiện về văn hóa – xã hội của TP-------------------------------------------------48
2.2. Khái quát về tình hình âm nhạc dành cho lứa tuổi HS THPT tại Tp.HCM giai đoạn
2000 đến nay--------------------------------------------------------------------------------------50
2.2.1. Đời sống âm nhạc trong giới trẻ hiện nay---------------------------------------------50
2.2.2. Một số hoạt động âm nhạc dành cho lứa tuổi THPT tại Tp. HCM ---------------55
2.2.3. Khái quát về tình hình sáng tác âm nhạc dành cho lứa tuổi học sinh THPT-----58
2.3. Khảo sát thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của học sinh THPT tại Tp. HCM giai đoạn
hiện nay ----------------------------------------------------------------------------------------62
2.3.1. Thể loại âm nhạc mà HS THPT của TP thích nghe và thường nghe nhất--------62
2.3.2. Sở thích âm nhạc của HS THPT theo từng khu vực, độ tuổi và giới tính--------67
2.3.2.1. Sở thích âm nhạc phân theo khu vực------------------------------------------------67
2.3.2.2. Sở thích âm nhạc phân theo giới tính------------------------------------------------69


2.3.2.3. Sở thích âm nhạc phân theo độ tuổi-------------------------------------------------70
2.3.3. Một số nhận định của HS THPT tại Tp.HCM về âm nhạc dành cho lứa tuổi----75
2.4. Đánh giá chung thực trạng về thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS THPT tại
Tp.HCM trong những năm qua, nguyên nhân và một số vấn đề cần giải quyết--------77
2.4.1. Đánh giá chung--------------------------------------------------------------------------77
2.4.2. Nguyên nhân-----------------------------------------------------------------------------78
2.4.3. Một số vấn đề cần giải quyết-----------------------------------------------------------81
TIỂU KẾT---------------------------------------------------------------------------------------83
CHƯƠNG 3: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ ÂM

NHẠC CHO GIỚI TRẺ – ĐẶC BIỆT LÀ HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THƠNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY-----------------------------85
3.1. Vai trò của giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ âm nhạc------------------------85
3.1.1. Giáo dục thẩm mỹ------------------------------------------------------------------------85
3.1.2. Giáo dục thẩm mỹ âm nhạc-------------------------------------------------------------88
3.2. Giáo dục âm nhạc cho HS THPT trong giai đoạn tiếp theo--------------------------93
3.2.1. Kinh nghiệm giáo dục âm nhạc của một số nước trên thế giới--------------------93
3.2.2. Mục tiêu nhiệm vụ của giáo dục âm nhạc cho học sinh THPT--------------------98
3.3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao và định hướng thị hiếu thẩm mỹ âm
nhạc cho HS THPT tại Tp.HCM trong giai đoạn tiếp theo-------------------------------101
3.3.1. Về công tác giáo dục và đào tạo------------------------------------------------------102
3.3.1.1. Ở trường chuyên nghiệp-------------------------------------------------------------102
3.3.1.2. Ở trường phổ thông-------------------------------------------------------------------104
3.3.2. Về công tác sáng tác, phê bình, tổ chức và quản lý của các hội, các cơ quan chức
năng
---------------------------------------------------------------------------------------108
3.3.2.1. Về công tác sáng tác------------------------------------------------------------------108
3.3.2.2. Về cơng tác phê bình âm nhạc trên các phương tiện thông tin, truyền thông đại
chúng
---------------------------------------------------------------------------------------111
3.3.2.3. Về công tác tổ chức, sản xuất-------------------------------------------------------111
3.3.2.4. Về cơng tác quản lý văn hóa trong lĩnh vực âm nhạc----------------------------115
3.3.3. Về phía gia đình-------------------------------------------------------------------------115
TIỂU KẾT--------------------------------------------------------------------------------------117
PHẦN KẾT LUẬN----------------------------------------------------------------------------119
PHỤ LỤC---------------------------------------------------------------------------------------122
TÀI LIỆU THAM KHẢO-------------------------------------------------------------------137


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TP
Tp.HCM
THPT
THCS

ĐH
FC
Kpop
US – UK
NS
TS
ThS
GS
PGS
HTV
VTV
ĐHSP
TW
Nxb
VH-TT&DL
GD&ĐT
NVH
TTVH

Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh
Trung học phổ thơng
Trung học cơ sở
Cao đẳng
Đại học

Fan club (câu lạc bộ người hâm mộ)
Korean pop (Nhạc đại chúng Hàn Quốc)
United States – United Kingdom (Nhạc Anh – Mỹ)
Nhạc sỹ
Tiến sỹ
Thạc sỹ
Giáo sư
Phó giáo sư
Hồ Chí Minh Television (đài truyền hình Tp.HCM)
Việt Nam Television (đài truyền hình Việt Nam)
Đại học sư phạm
Trung Ương
Nhà xuất bản
Văn hóa – Thể thao và Du lịch
Giáo dục và Đào tạo
Nhà văn hóa
Trung tâm văn hóa


DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
Hình 1: Chủ đề I, chương I, bản giao hưởng số 5 của Beethovent ----------------------18
Hình 2: Mối quan hệ của ba khâu trong hoạt động thẩm mỹ âm nhạc-------------------23
Hình 3: Mơ hình cấu trúc của chủ thể thẩm mỹ---------------------------------------------24
Hình 4: Sơ đồ cơ chế hình thành thị hiếu thẩm mỹ cá nhân-------------------------------29
Bảng 2.1: Tổng số liệu thống kê từ cuộc khảo sát về mức độ thưởng thức âm nhạc của
HS THPT tại Tp.HCM--------------------------------------------------------------------------62
Biểu đồ 2.1: Mức độ thưởng thức âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM ----------------63
Bảng 2.2: Số liệu mức độ thưởng thức âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM phân theo
khu vực ----------------------------------------------------------------------------------------67
Biểu đồ 2.2: so sánh mức độ thưởng thức âm nhạc của 2 trường THPT Lê Minh Xuân

và Ernst Thalmann ------------------------------------------------------------------------------68
Bảng 2.3: Số liệu về mức độ thưởng thức âm nhạc phân theo giới tính của HS THPT
tại Tp.HCM---------------------------------------------------------------------------------------69
Biểu đồ 2.3: Mức độ thưởng thức âm nhạc của HS nữ và HS nam ----------------------69
Bảng 2.4: Số liệu mức độ thưởng thức âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM phân theo
độ tuổi
----------------------------------------------------------------------------------------71
Biểu đồ 2.4.1: Mức độ thích nghe phân theo độ tuổi của HS THPT tại Tp.HCM -----72
Biểu đồ 2.4.2: Mức độ yêu thích nhạc trẻ qua 3 độ tuổi của HS THPT tại Tp.HCM- -73
Biểu đồ 2.4.3: Mức độ thường nghe phân theo độ tuổi của HS THPT tại Tp.HCM- - -73
Biểu đồ 2.4.4: Mức độ thường nghe nhạc trẻ qua 3 độ tuổi của HS THPT tại
Tp.HCM
74


9

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, trong thời đại của khoa học công nghệ và kỹ thuật số hóa, đặc biệt là sự
xuất hiện của mạng thơng tin toàn cầu (Internet), thế giới như bị thu nhỏ lại, ranh giới
giữa các quốc gia cũng ngày càng trở nên mỏng manh hơn, khơng một quốc gia nào có
thể phát triển trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài. Ngược lại, sự tùy thuộc lẫn nhau
ngày càng gia tăng và tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực và toàn thế
giới. Hiện tượng cộng sinh văn hóa là một tất yếu và là một đặc trưng mới của văn hóa
thế giới.
Internet đã tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết và xích lại gần nhau.
Sự giao thoa, tiếp biến văn hóa do đó đang diễn ra hết sức phức tạp và mạnh mẽ. Mỗi
dân tộc vừa được sống với bản sắc văn hóa của dân tộc mình, vừa được tiếp xúc, học
tập và tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác để làm phong phú

thêm cho nền văn hố của chính dân tộc mình. Trong sự giao lưu đó, nghệ thuật và
nghệ thuật âm nhạc có thể được coi là một trong những lĩnh vực cực kì năng động của
nền văn hóa. Nó được xem là lĩnh vực tiên phong trong việc giao lưu, giới thiệu và
phát triển văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia ra với thế giới.
Tuy nhiên có thể nói rằng, sự giao lưu văn hóa tồn cầu trong thời đại ngày nay
đang đặt ra cho mỗi quốc gia rất nhiều thách thức. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, việc
văn hóa mỗi quốc gia bị ảnh hưởng, xâm nhập là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, làm
thế nào để khơng bị lai căng và đồng hóa lại là điều tùy thuộc vào khả năng, năng lực,
cũng như những chính sách, đường lối quản lý và phát triển riêng của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc.
Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam không tránh khỏi những tác động mạnh của
nền công nghiệp kỹ thuật số và thơng tin tồn cầu (internet). Sự tiếp cận và giao lưu
văn hoá quốc tế rộng rãi tạo điều kiện cho giới trẻ Việt Nam trong việc thưởng thức cái
hay, cái đẹp của các nền văn hoá trên thế giới. Tuy nhiên, tác động của khuynh hướng
thương mại hoá trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, cùng với sự phát tán nhanh chóng
của truyền thơng, kĩ thuật số và internet, làm xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực cả
trong lĩnh vực thẩm mỹ nghệ thuật nói chung và thẩm mỹ âm nhạc nói riêng, cũng như
lối sống trong một bộ phận lớn giới trẻ hiện nay, nhất là ở các thành phố lớn.


10

Có thể nói, chưa bao giờ khơng gian nước ta lại vang lên đa dạng âm thanh của biết
bao dòng nhạc trên thế giới, từ kinh điển, bác học đến đại chúng, giải trí và cũng chưa
bao giờ Việt Nam lại có một nền âm nhạc lộn xộn và bế tắc như trong hơn một thập kỷ
qua. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, âm nhạc đã đóng góp vai trị khơng nhỏ trong việc nâng cao đời sống tinh thần
của nhân dân, làm cho cuộc sống không ngừng được cải thiện. Bên cạnh tính tích cực
vốn có của dịng âm nhạc chính thống, thì trong đời sống hiện nay, một số hoạt động
âm nhạc mang tính giải trí, thị trường cịn bộc lộ tính yếu kém, xa rời bản sắc, thuần

phong mỹ tục, làm cho cái đẹp trong âm nhạc, méo mó, biến dạng. Điều này gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của giới trẻ Việt Nam – Những
người luôn đi đầu trong việc tiếp cận với công nghệ thông tin, kĩ thuật số. Họ rất năng
động trong việc tìm tịi cái mới lạ để khẳng định bản thân nhưng thiếu kinh nghiệm và
sự định hướng cần thiết của xã hội.
Giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi HS THPT – lứa “tuổi hồng” – lứa tuổi cực kì nhạy cảm
về tâm sinh lý. Các em ở lứa tuổi này rất thích thể hiện bản thân, nhạy cảm với cái
mới. Đây là lứa tuổi có nhiều mơ mộng, khát khao sáng tạo, ưa thích cái mới lạ,
chuộng vẻ đẹp hình thức nên dễ bị cái đẹp bên ngồi lơi cuốn làm lung lay ý chí, có
mới nới cũ. Thêm vào đó, việc bắt đầu quan tâm nhiều tới việc tham gia các nhóm bạn,
coi tình bạn là mối quan hệ quan trọng nhất. Đó là một trong những điều kiện đặc
trưng khiến các em ở lứa tuổi này rất dễ bị ảnh hưởng bởi các “hiệu ứng đám đông”
hay tâm lý “bầy đàn” khi tham gia vào các hoạt động thưởng thức âm nhạc. Một số
lượng các em HS THPT tại Tp.HCM còn tham gia cả vào những FC hùng hậu của các
ca sỹ trẻ, nhóm nhạc trẻ ở trong và ngồi nước. Những hình ảnh fan cuồng Kpop ở
giới trẻ là những điểm nhức nhối nhất trong vài năm qua đối với nền âm nhạc Việt
Nam. Chính vì vậy, trong bối cảnh nền âm nhạc Việt Nam đang vấp phải sự khủng
hoảng, rối ren trong những năm qua, khiến một bộ phận lớn các em HS THPT đã chạy
theo những giá trị ảo, tầm thường của dòng nhạc thị trường nhiều màu sắc thị giác hơn
là giá trị thực của một tác phẩm nghệ thuật. Đặc biệt ở các TP lớn thì vấn nạn “văn hóa
thần tượng” trong giới trẻ đã trở thành đề tài đáng bàn hơn bao giờ hết.
Thành phố Hồ Chí Minh – một trung tâm kinh tế văn hóa của Việt Nam, xưa nay
vẫn được xem là mảnh đất lành của nền cơng nghiệp giải trí, với thị trường âm nhạc
cực kì sơi động trong hơn một thập kỷ qua. Việc tiếp cận và du nhập các dòng âm nhạc


11

trên thế giới đã tạo cho Việt Nam nói chung và Tp.HCM nói riêng phát triển thêm một
số dịng nhạc mới, tạo ra nhiều trào lưu âm nhạc cho giới trẻ. Tuy nhiên, điều đó cũng

đồng nghĩa với việc khiến họ phải đứng trước quá nhiều sự lựa chọn và họ đã lựa chọn
thứ dễ nghe một cách dễ dãi, lâu dần nó trở thành thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc lệch lạc
của một bộ phận lớn giới trẻ hiện nay ở Tp.HCM, nhất là lứa “tuổi hồng”.
Đứng trước thực tế đó, là một giáo viên giảng dạy âm nhạc và hoạt động trong lĩnh
vực âm nhạc nhiều năm qua tại Tp.HCM, chúng tơi vơ cùng trăn trở với tình hình
xuống dốc nghiêm trọng của nền âm nhạc Việt Nam cùng với thị hiếu thẩm mỹ âm
nhạc lệch lạc của các em HS, nhất là các em HS THPT trong những năm gần đây. Phải
làm thế nào để tìm cho ra căn nguyên, để từ đó có những giải pháp kịp thời, nhằm định
hướng thẩm mỹ âm nhạc cho giới trẻ, đặc biệt là ở lứa “tuổi hồng” – lứa tuổi HS
THPT tại Tp.HCM. Theo chúng tôi, vấn đề nghiên cứu này đang trở nên hết sức quan
trọng và cấp thiết trong thời đại mới. Bởi vì theo chúng tơi, đây là lứa tuổi đặc biệt
nhạy cảm về tâm sinh lý, là lứa tuổi kế tiếp làm chủ xã hội, rất cần sự định hướng của
xã hội.
Chính vì những lẽ đó, Tơi quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Thị hiếu thẩm mỹ âm
nhạc của HS THPT tại Tp.HCM (Qua trường hợp của hai trường THPT
Tenlơman và Lê Minh xuân)” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử của đề tài
“Thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc” là một đề tài năng động và hấp dẫn ở mọi quốc gia,
mọi thời đại. Vấn đề này luôn thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu,
phê bình âm nhạc và của toàn xã hội. Nhất là trong những năm gần đây, đề tài này đã
trở thành “đề tài nóng” trên các mặt báo, cũng như trong các cuộc hội thảo khoa học lý
luận phê bình âm nhạc, Hội Âm nhạc Việt Nam… Đã có một số cơng trình nghiên cứu
in thành sách đề cập đến vấn đề này như:
- “Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ Tp.HCM” của nhiều tác giả do TS. Nguyễn Thị
Hậu làm chủ biên, Viện nghiên cứu phát triển Tp.HCM, Nxb Văn hóa – Văn nghệ,
hồn thành q II năm 2013.
- “Tìm hiểu thị hiếu âm nhạc trong các đối tượng đang được cải giáo” của tác giả
Nguyễn Quang Khải, luận văn đại học lý luận, năm 1989.
- “Vai trò của thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật trong giáo dục con hiện nay”
của tác giả Nguyễn Quốc Hưng, luận văn cao học, năm 2002.



12

- “Ca khúc trong đời sống âm nhạc ở Tp.HCM từ 1975 đến nay” của tác giả
Nguyễn Thị Thư Nhường, luận văn cao học lý thuyết âm nhạc và lịch sử âm nhạc, năm
2008.
Một số bài tham luận tại các cuộc hội thảo khoa học diễn ra trong những năm gần
đây bàn về vấn đề thị hiếu âm nhạc như:
- “Thị hiếu của khán giả truyền hình Tp.HCM qua một số chương trình ca nhạc
trên sóng HTV” của tác giả Lê Đỗ Quỳnh Hương, tại Hội thảo Khoa học “Âm nhạc tại
Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và Giải pháp” được tổ chức tại Nhạc viện
Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 15/11/2011.
- “Vài nét về thị hiếu âm nhạc và biểu diễn ca nhạc hiện nay” của tác giả TS Phạm
Trọng Toàn, tại Hội thảo khoa học lí luận phê bình âm nhạc được tổ chức tại trường
ĐHSP Nghệ thuật TW, tháng 2 năm 2012.
Vấn đề “Thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của giới trẻ” nhận được rất nhiều sự quan tâm
đánh giá và bàn luận của các nhà chuyên môn, của báo giới và của xã hội. Tuy nhiên,
đề tài mới chỉ dừng lại ở sự bình luận chung chung trên một số trang báo và các cuộc
hội thảo mà chưa đi sâu phân tích thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc cụ thể ở lứa tuổi HS
THPT. Bên cạnh đó, có rất ít cơng trình nghiên cứu đã in thành sách trình bày về vấn
đề này một cách có hệ thống, cũng như chưa có được những số liệu đáng tin cậy cho
thấy sự phát triển thị hiếu âm nhạc ở lứa tuổi này ở Tp.HCM. Luận văn cao học “Ca
khúc trong đời sống âm nhạc ở Tp.HCM từ 1975 đến nay” của tác giả Nguyễn Thị Thư
Nhường, năm 2008 cũng đã khảo sát được thị hiếu của giới trẻ Tp.HCM. Tuy nhiên,
Tác giả mới chỉ đưa ra được số liệu về thị hiếu âm nhạc của thanh niên giới trẻ nói
chung chứ chưa khảo sát được thị hiếu âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM. Do vậy,
điều đó đã gây cho chúng tơi rất nhiều khó khăn trong việc thu thập tài liệu để nghiên
cứu đề tài.
Với mong muốn góp phần làm rõ hơn và cụ thể hơn thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của

giới trẻ hiện nay ở từng lứa tuổi. Trong luận văn này, tác giả tập trung phân tích thị
hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM hiện nay, để giúp người đọc có một
cái nhìn tổng quan, đầy đủ, sâu sắc và chi tiết hơn về tình hình hoạt động âm nhạc, tình
hình sáng tác ca khúc cho lứa “tuổi hồng”, cũng như khảo sát được thị hiếu thẩm mỹ
âm nhạc của lứa tuổi này ở Tp.HCM diễn ra như thế nào trong thời điểm hiện nay.
Đồng thời, đề ra được những giải pháp nhằm định hướng thẩm mỹ âm nhạc cho các
em trong giai đoạn tiếp theo.
3. Mục tiêu của đề tài


13

Luận văn nghiên cứu vấn đề trên nhằm đạt được những mục tiêu sau:
Thứ nhất, khái quát được thực trạng của nền âm nhạc Việt Nam và thị hiếu thẩm
mỹ âm nhạc ở lứa tuổi HS ở các trường THPT tại Tp.HCM trong những năm vừa qua.
(Tập trung nghiên cứu giai đoạn 2000 đến nay)
Thứ hai, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp về thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc
của HS ở các trường THPT tại Tp.HCM trong những năm qua. Từ đó rút ra bài học
cho việc phát triển nền âm nhạc của TP trong những năm tiếp theo.
Thứ ba, từ những nguyên nhân, những vấn đề tồn tại, những vấn đề đặt ra, tác giả
xin đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao và định hướng cho thị hiếu
thẩm mỹ âm nhạc cho HS ở các trường THPT tại Tp.HCM
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận cơ bản về tâm sinh lý, về thị hiếu thẩm mỹ âm
nhạc của HS THPT, cũng như những vai trò, chức năng, tác động của âm nhạc tới tâm
sinh lý của con người và những vấn đề về giáo dục thẩm mỹ âm nhạc làm cơ sở cho
nghiên cứu.
Thứ hai, tình hình phát triển của nền âm nhạc Việt Nam và thị hiếu thẩm mỹ âm

nhạc của HS ở các trường THPT tại Tp.HCM giai đoạn 2000 đến nay. Những nhân tố
khách quan, chủ quan có ảnh hưởng tới nền âm nhạc và thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của
HS THPT tại Tp. HCM trong thời đại công nghiệp kĩ thuật số, internet và hội nhập.
 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản, thực tiễn chủ yếu của nền âm
nhạc Việt Nam và thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS ở các trường THPT tại Tp. HCM
giai đoạn 2000 đến nay (không nghiên cứu lứa tuổi này hiện đang học ở Nhạc viện).
Trong đó, tác giả tập trung đi sâu phân tích những sản phẩm âm nhạc dành cho lứa tuổi
HS THPT trong những năm qua, tiến hành khảo sát, tìm hiểu thực tế các khuynh
hướng thẩm mỹ âm nhạc của một vài nhóm HS THPT tại hai trường THPT nội thành
và ngoại thành ở Tp.HCM giai đoạn hiện nay làm cơ sở cho nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của luận văn, tác giả sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp đi thực tế, lập phiếu thăm dò, khảo sát,
thống kê, so sánh, đối chiếu, sơ đồ hóa, bảng biểu, phỏng vấn, phân tích và tổng hợp,
logic và lịch sử cụ thể, quy nạp và diễn dịch… Trong q trình nghiên cứu, tác giả kế
thừa có chọn lọc những thơng tin của các cơng trình nghiên cứu trước đó, cập nhật


14

những thơng tin mới nhất có liên quan đến đề tài để làm rõ hơn những vấn đề nghiên
cứu của luận văn
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hồn thành sẽ khảo sát được tình hình thực tế về thị hiếu thẩm mỹ âm
nhạc của HS THPT tại Tp.HCM hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn cũng làm sáng tỏ được sự cần thiết phải tìm hiểu để định
hướng cho thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM trong những năm tiếp
theo.

Ngoài ra, luận văn cũng đề ra được một số giải pháp giúp nâng cao và định hướng
thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS THPT tại Tp.HCM.
Luận văn cũng sẽ cung cấp nhiều thông tin bổ ích, dùng làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm tìm hiểu đến vấn đề này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề tâm sinh lý và thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS
THPT.
Chương 2: Thực trạng về âm nhạc và thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của HS THPT tại
Tp.HCM giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Tầm quan trọng của vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho giới trẻ – Đặc biệt
lứa tuổi HS THPT tại Tp.HCM

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TÂM SINH LÝ VÀ THỊ HIẾU THẨM
MỸ ÂM NHẠC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số vấn đề về tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT
Học sinh THPT, lứa tuổi vị thành niên, về tâm sinh lý là lứa tuổi có nhiều biến
động rất mạnh, được xác định là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên trong xã hội.
Tuổi thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội. Xuất phát từ những trường phái khác
nhau nên có những quan niệm khác nhau về tuổi thanh niên và có những tiêu chí khác
nhau để xác định tuổi thanh niên.
Trường phái sinh vật học coi tiêu chí quan trọng nhất để xác định tuổi thanh niên là
sự phát triển của cơ thể, là các quá trình sinh vật học của sự trưởng thành. Các nhà
phân tâm học quan tâm nhiều nhất đến sự phát triển của tính dục, các nhà xã hội học
lại lấy mức độ xã hội hố của mỗi cá thể là tiêu chí để xác định. Còn các nhà tâm lý


15


học hiện đại cho rằng, cần nghiên cứu lứa tuổi thanh niên trong một mối tổng hoà các
yếu tố sinh học, tâm lý học, phân tâm học và xã hội học.
Theo các nhà tâm lý học, lứa tuổi thanh niên được định nghĩa là giai đoạn phát
triển bắt đầu từ lúc dậy thì cho đến khi bước vào tuổi trưởng thành. Như vậy theo định
nghĩa này, thời điểm bắt đầu của tuổi thanh niên lấy tiêu chí là sinh lý cịn thời điểm
kết thúc là tiêu chí xã hội. Theo định nghĩa đó tuổi thanh niên là thời kỳ từ 14, 15 đến
25 tuổi và được phân chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ 14, 15 đến 17, 18: giai đoạn đầu tuổi thanh niên (còn được
gọi là tuổi thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh). Lứa tuổi HS THPT (15 - 18) nằm
trong giai đoạn này.
Giai đoạn thứ hai từ 18, 19 đến 25: giai đoạn thứ hai của tuổi thanh niên (còn được
gọi là tuổi thanh niên sinh viên).
Sự phân chia giai đoạn cũng chỉ mang tính tương đối. Một số nhà nghiên cứu lại
phân chia tuổi thanh niên ra làm ba giai đoạn. Tuy nhiên, dù thế nào thì các nghiên cứu
vẫn ln xác định rằng: Lứa tuổi HS THPT là lứa tuổi thuộc giai đoạn đầu của tuổi
thanh niên.
“Tuổi thanh niên (từ 14,15 đến 18 tuổi) là “thế giới thứ 3” theo nghĩa đen của
từ này, tồn tại giữa tuổi trẻ em và tuổi người lớn” (I.X.Côn).
Thời điểm bắt đầu và kết thúc của tuổi thanh niên không bất biến, cứng nhắc mà
phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống và giáo dục.
1.1.1. Đặc điểm cơ thể của lứa tuổi học sinh THPT
Tuổi 15 - 18 là giai đoạn mà cơ thể con người đang dần hoàn chỉnh, bắt đầu thời kỳ
phát triển êm ả về mặt tâm sinh lý. Sự phát triển của hệ xương tiến tới thời kỳ hoàn
thiện. Tuy nhiên q trình cốt hố vẫn đang tiếp tục (quá trình này thường kết thúc vào
khoảng 24-25 tuổi). Khối lượng và sức mạnh cơ bắp tăng nhanh. Khối lượng cơ đạt 43
- 44% khối lượng toàn thân. Sự phát triển của tim và mạch máu đã đạt sự cân bằng.
Tần số nhịp tim và huyết áp đạt gần mức người lớn. Hoạt động của các tuyến nội tiết
trở nên bình thường. Khối lượng của não tăng khơng đáng kể (vì khối lượng của não
đã tăng rất nhanh từ những thời kỳ trước đó), nhưng cơ cấu bên trong của não trở nên
phức tạp hơn nhiều. Số sợi dây thần kinh liên kết các phần của não tăng lên nhiều, số

đường liên hệ thần kinh tạm thời cũng tăng lên, sự mất cân bằng giữa hai quá trình
thần kinh (hưng phấn và ức chế) đã giảm một cách đáng kể. Tất cả những điều đó tạo
điều kiện cho sự phức tạp các hoạt động phân tích tổng hợp của vỏ bán cầu đại não.
Bên cạnh đó, các hormone của tuyến sinh dục làm phát triển những dấu hiệu sinh
dục ở em nam như: mọc lông, mọc râu, giọng trầm; và ở em nữ như: nở to tuyến vú,


16

mọc lông ở mu và các biến đổi khác lúc dậy thì làm cho hình dáng của các em phát
triển như người lớn. Các hormone của tuyến yên và tuyến sinh dục phát triển khiến HS
THPT có nhiều khả năng sinh sản hơn so với lứa tuổi HS THCS.
1.1.2. Đặc điểm sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT
Trong giai đoạn này, khả năng nhận thức và trí tuệ của HS THPT tăng đáng kể. Có
thể nói tiềm năng về trí tuệ đạt mức cao nhất, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất
cả các quá trình nhận thức. Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ của
người lớn. Điều này làm cho khả năng cảm thụ âm nhạc và hội họa của các em được
nâng cao. Tri giác có mục đích phát triển ở mức rất cao. Tuy nhiên, sự tri giác của tuổi
này cũng vẫn rất cần sự hướng dẫn của giáo viên, vì họ vẫn dễ dàng kết luận sai hoặc
chưa đầy đủ khi chưa tích lũy đủ sự kiện.
Khả năng trí nhớ đạt đỉnh cao, trí nhớ chủ định, ghi nhớ ý nghĩa, lôgic phát triển
mạnh và chiếm ưu thế. Hoạt động tư duy của HS THPT phát triển mạnh. Các thao tác
tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá đều phát triển
khá mạnh giúp các em có khả năng tiếp thu tốt các khái niệm trừu tượng và phức tạp.
“Các phẩm chất tư duy phát triển mạnh như: tính độc lập, tính lập luận, tính phê
phán, tính linh hoạt, tính hệ thống, tính khái quát, tính sáng tạo” [50, 102]. Tư duy lý
luận tăng lên biểu hiện ở sự thích thú tranh luận về các vấn đề khác nhau. Thậm chí
các em thích suy nghĩ, lập luận, bàn bạc ngay cả trong các trường hợp các em không
đủ kiến thức để làm điều đó. Tư duy lơgic và tính phê phán của tư duy phát triển mạnh
hơn. Các em suy nghĩ chặt chẽ, nhất quán hơn. Chính sự phát triển mạnh mẽ của tư

duy đã góp phần thúc đẩy sự xuất hiện nét tâm lý mới ở lứa tuổi này đó là sự hồi nghi
khoa học.
Thiếu sót cơ bản của tư duy trong giai đoạn này là tính độc lập trong tư duy chưa
phát triển đến mức cần thiết. Trong nhiều trường hợp các em chưa cố gắng phát huy
khả năng độc lập suy nghĩ của bản thân, do đó kết luận vội vàng hoặc lặp lại ý tưởng,
cách chứng minh của người khác, nhất là của những người có uy tín (thần tượng) với
các em. Do đó, dạy học cần chú trọng việc phát triển khả năng nhận thức cho HS. Tuy
nhiên cũng cần nhận thức rõ, khả năng phát triển của tư duy ở mỗi em HS là khác
nhau. Do đó, q trình nhận thức của các em HS nói chung và các em HS THPT chia
ra làm ba cấp độ. Thứ nhất là loại khả năng nhận thức xuất sắc. Thứ hai là loại khả
năng nhận thức trung bình, khá. Thứ ba là loại thiểu năng trí tuệ. Như vậy, với mỗi loại
khả năng nhận thức khác nhau, các nhà giáo dục cũng phải tiến hành những phương


17

pháp giáo dục chung và cá biệt để đảm bảo q trình nhận thức của HS có kết quả như
mong muốn.
1.1.3. Những đặc điểm nhân cách chủ yếu
1.1.3.1. Sự phát triển của tự ý thức
Khả năng tự ý thức của con người bắt đầu xuất hiện từ những lứa tuổi trước và
hoàn thiện từng bước nhưng thực sự phát triển mạnh ở lứa tuổi này. Sự phát triển tự ý
thức của các em thể hiện ở một số mặt sau:
Thứ nhất, HS THPT rất quan tâm đến việc tự đánh giá về ngoại hình của cơ thể (về
vóc dáng, về những chi tiết trên khuôn mặt, cơ thể…). Tâm lý làm đẹp biểu hiện khá
rõ, (soi gương, chú ý nhiều đến ăn mặc, chạy theo mốt, tập luyện thể thao để hồn
thiện, cải tạo hình thể…). Tất nhiên là sự tự đánh giá về hình ảnh cơ thể của các em rõ
ràng mang màu sắc giới tính.
Thứ hai, HS THPT có nhu cầu mạnh mẽ về việc tìm hiểu và tự đánh giá những đặc
điểm tâm lý của bản thân theo các chuẩn mực đạo đức xã hội, theo quan điểm về mục

đích cuộc sống... Tuy nhiên, sự tự đánh giá của các em thường không khách quan,
thiếu kinh nghiệm sống nên cách đánh giá của các em thường có xu hướng cường điệu
với những thái cực khác nhau. Đa số các em đánh giá cao nhân cách của bản thân
(năng lực, tính cách) dẫn đến những biểu hiện tự cao, coi thường người khác.
Thứ ba, ý thức làm người lớn được thể hiện ở nhu cầu tự khẳng định mình. Các em
có nguyện vọng thể hiện cá tính của mình trước mọi người một cách độc đáo. Theo
các nhà giáo dục học: “đây là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, một số phẩm chất cơ
bản của nhân cách đã được định hình. Điều này thể hiện trước hết ở sự phát triển tính
độc lập và lịng khao khát tự khẳng định mình, tự chịu trách nhiệm về cái “tơi” của
mình bằng khả năng quan sát, phân tích, so sánh, tự đánh giá với hoạt động của bạn
bè và người lớn.” [41, 82]. Các em HS THPT tìm mọi cách để người khác quan tâm,
chú ý đến mình hoặc làm gì đó để mình nổi bật trong nhóm, đơi khi hành động đó
mang tính phơ trương, hình thức.
Thứ tư, HS THPT thường cố gắng tự biểu hiện bản thân. Điều này liên quan đến
tính tích cực sáng tạo ngày càng tăng mà đặc biệt rõ nét trong những hình thức hoạt
động khác nhau: sáng tác theo các đề tài tự do; ghi nhật ký; làm thơ; viết nhạc; tham
gia các cuộc thi tuyển; hội thi, hội diễn văn nghệ; thi đấu thể thao…. Mặt khác, theo
ThS tâm lý Huỳnh Lâm Anh Chương, khi thể hiện bản thân, HS THPT thường biểu
hiện theo hai hướng tích cực và tiêu cực: “Cách thể hiện tích cực có thể là: cố gắng
học giỏi một môn học, vượt qua mọi rào cản để thực hiện một hành động cao đẹp…


18

Cách thể hiện tiêu cực như là: tạo ra một kiểu thời trang cho bản thân một cách khác
người và không phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ xã hội, thực hiện những hành vi gây sự
chú ý của nhiều người nhưng lại không được chấp nhận, chạy theo một lối sống xa xỉ
và không phù hợp với tuổi thanh niên chưa tự lập về tài chính,…” [50, 111-112]. Cịn
với các nhà tâm thần học thì khẳng định: “Lứa tuổi từ 14 đến 18 là lứa tuổi khủng
hoảng đối với tâm thần học.” (A.E.Litrco – chuyên gia tâm thần học của Nga).

Thứ năm, HS THPT ưa thích cái mới lạ, rất nhạy cảm với cái mới, có thể nói lứa
tuổi thanh niên nói chung dễ dàng chấp nhận và ủng hộ cái mới nhất.
Đặc điểm ưa thích cái mới kết hợp với nhu cầu muốn biểu hiện bản thân, sự phán
xét đánh giá phân định đúng sai... chưa khách quan, thiếu chính xác đã đưa HS THPT
đến hai khả năng phát triển: Có thể rất tốt nếu những điều “mới lạ” đó là tích cực giúp
phát triển và hồn thiện nhân cách. Nhưng nếu cái “mới lạ” đó là những tiêu cực có
thể đưa các em đến những hành vi “lệch chuẩn”, tội lỗi thậm chí phạm pháp.
Nói về đặc điểm này, nhà giáo dục học Phạm Đình Chương viết: “Đây là giai đoạn
đầu của tuổi trưởng thành, các yếu tố của nhân cách định hình chưa thật vững bền,
chưa được trải nghiệm nhiều. Do đó, ở một số em có hiện tượng manh động, bột phát,
hiếu thắng, chủ quan… dễ dẫn đến những sai lầm trong nhận thức và hành vi văn hóa,
đạo đức.” [41, 83].
1.1.3.2. Sự hình thành thế giới quan và nhân sinh quan
Tuổi đầu thanh niên là tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan và nhân sinh
quan. Hay nói cách khác, tuổi thanh niên là giai đoạn định hình nhân cách.
Thế giới quan và nhân sinh quan là một hệ thống các quan điểm về thế giới tự
nhiên và xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc cư xử, về các chuẩn mực, định hướng
giá trị về đạo đức, văn hóa, về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong xã hội...Thực
ra, những cơ sở của thế giới quan, nhân sinh quan đã được hình thành từ những lứa
tuổi trước, ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng chỉ đến giai đoạn lứa tuổi này mới được xây
dựng thành một thế giới quan và nhân sinh quan tương đối hoàn chỉnh.
Để chuẩn bị bước vào đời, HS THPT thường trăn trở với các câu hỏi về ý nghĩa và
mục đích cuộc sống, về cách xây dựng một kế hoạch sống có hiệu quả, về việc lựa
chọn nghề nghiệp cho phù hợp và có ý nghĩa... Theo Ericson đó là một cái mốc quan
trọng của sự hình thành bản sắc người thanh niên mới lớn.
Ở nước ta hiện nay khi mà các giá trị xã hội có nhiều biến động, khơng ít HS THPT
chưa xác định được ý nghĩa của cuộc sống, khơng có định hướng nghề nghiệp rõ nét
và cũng chưa thể lập được cho bản thân một kế hoạch sống cụ thể. Hiện tượng này tồn
tại khơng phải đơn thuần do trình độ phát triển tâm lý ở lứa tuổi thành niên chưa chín



19

muồi, mà quan trọng hơn là do những khiếm khuyết trong giáo dục ở nhà trường, gia
đình và trong xã hội (thơng qua các ấn phẩm sách báo, văn hóa, nghệ thuật...).
Một trong các khía cạnh quan trọng của quá trình hình thành thế giới quan ở lứa
tuổi HS THPT là trình độ phát triển ý thức đạo đức. Các nghiên cứu tâm lý học cho
thấy rằng thế giới quan về lĩnh vực đạo đức bắt đầu hình thành ở con người từ tuổi
thiếu niên. Song sang tuổi thanh niên, ý thức đạo đức đã được phát triển lên một bậc
cao hơn cả về mặt nhận thức tình cảm và hành vi. Về mặt nhận thức HS THPT khơng
chỉ có khả năng giải thích một cách rõ ràng các khái niệm đạo đức, quy chúng vào một
hệ thống nhất định thể hiện một trình độ khái quát cao hơn, mà ở họ cịn xuất hiện một
cách có ý thức nhu cầu xây dựng các chính kiến đạo đức của riêng mình về các vấn đề
mà cuộc sống đặt ra. Ở khía cạnh tình cảm, các chuẩn mực đạo đức đã có được những
ý nghĩa riêng tư đối với HS THPT, nhờ đó các hành vi tương ứng với các chuẩn mực
đạo đức nhất định có thể khơi dậy ở họ những xúc cảm đặc biệt.
Nói cách khác, ở lứa tuổi HS THPT, niềm tin đạo đức đã bắt đầu hình thành. Sự
hình thành niềm tin đạo đức biến các em từ chỗ là người chấp nhận, phục tùng các
chuẩn mực đạo đức trở thành chủ thể tích cực của chúng. Điều này thể hiện đặc biệt rõ
trong việc tìm kiếm hình mẫu lý tưởng. HS nhỏ tuổi tiếp nhận hình mẫu lý tưởng xuất
phát từ tình cảm khâm phục một con người cụ thể và khi đó hình mẫu lý tưởng sẽ chi
phối hành vi đạo đức của các em. Điều này khác hẳn đối với HS THPT. Các em HS
THPT tìm kiếm hình mẫu lý tưởng một cách có ý thức. Theo ThS. Huỳnh Lâm Anh
Chương thì: “Các em thường so sánh những phẩm chất, những khả năng, mục đích
sống và giá trị xã hội của mình với “hình mẫu” mà mình lựa chọn.” [50, 109]. Hình
ảnh một con người cụ thể chỉ là phương tiện để các em gửi gắm những nguyên tắc,
những biểu tượng đạo đức mà các em tiếp nhận.
Tuy nhiên từ lâu các nhà tâm lý học đã nhận thấy mâu thuẫn bên trong ý thức đạo
đức ở lứa tuổi HS THPT. Trong các đánh giá của mình, các em có thể rất cứng nhắc
tn theo các chuẩn mực đạo đức mà các em đã tiếp nhận, song đồng thời lại cũng

nghi ngờ về tính đúng đắn của chúng. Để lý giải điều này có thể cho rằng: Lứa tuổi HS
THPT vẫn là lứa tuổi mà ý thức đạo đức đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình hình
thành. Mặt khác về phương diện trí tuệ, HS THPT đã hiểu được tính tương đối của các
chuẩn mực. Sự nghi ngờ lật lại các chuẩn mực đạo đức của xã hội đã có thể hiện như
một thao tác tìm kiếm, nghiên cứu, học hỏi để tiếp thu.
1.1.3.3. Giao tiếp và đời sống tình cảm
Thứ nhất, về hoạt động giao tiếp


20

Một là giao tiếp với người lớn. HS THPT thường có tâm lý cho rằng người lớn
khơng hiểu, khơng đánh giá đúng đắn và nghiêm túc về suy nghĩ, tâm tư của các em
nên các em có xu hướng xa lánh, lạnh nhạt với người lớn mà tìm đến sự đồng cảm của
những bạn cùng lứa tuổi. Mối quan hệ phụ thuộc, dựa dẫm vào cha mẹ dần dần được
thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập.
Tính tự lập của các em được thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm
và tự lập về đạo đức và giá trị. Vì vậy, nhiều bậc cha mẹ không thấy hết những đặc
điểm này của thanh niên mới lớn nên đã xảy ra xung đột gay gắt với các em chứ hồn
tồn khơng phải sự nổi loạn hay xung đột giữa các thế hệ. Nếu cha mẹ không cản trở
việc thực hiện những khao khát bình đẳng, tự lập đó thì sự xung đột giữa họ và các em
HS THPT sẽ ít xảy ra.
Tuy nhiên, trong những môi trường giao lưu tự do, trong những hoàn cảnh nhàn
rỗi, tiêu khiển, trong định hướng nhu cầu, sở thích nghệ thuật, HS THPT thường định
hướng vào bạn bè cùng tuổi hơn là vào cha mẹ, nhưng khi nói đến các giá trị đạo đức
thì ảnh hưởng của cha mẹ đối với các em lại mạnh mẽ hơn bạn bè cùng trang lứa. Từ
đó, ta thấy dù cho mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái phức tạp đến đâu thì vốn tình
cảm tích lũy từ thời thơ ấu vẫn sâu đậm trong lòng các em HS THPT.
Trong mối quan hệ giao tiếp với thầy cô giáo có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển
về trí tuệ và nhân cách của HS THPT. Vai trò chủ động, sáng tạo trong học tập của các

em được giáo viên nhận thức và thực hiện. Bên cạnh đó, việc xã hội cơng nhận vai trị
người lớn của các em và đòi hỏi các em thực hiện nghĩa vụ của một công dân như:
Quyền và nghĩa vụ bầu cử, nghĩa vụ lao động hay nghĩa vụ quân sự… vào cuối lứa
tuổi (18 tuổi) tạo ra cho các em những điều kiện thuận lợi và là động lực để thể hiện,
rèn luyện và trưởng thành [50, 91-95].
Hai là giao tiếp trong nhóm bạn. Ở tuổi này quan hệ bạn bè chiếm vị trí quan trọng
hơn những loại quan hệ khác. Do tính xúc cảm cao nên các em thường lý tưởng hố
tình bạn và ít nhận thấy đặc điểm thực tế của bạn mình.
Điều quan trọng đối với tuổi này là được giao lưu với các bạn trong nhóm bạn
thân, được thừa nhận, nghĩa là có uy tín, có vị trí nhất định trong nhóm. Các em coi
tình bạn là mối quan hệ quan trọng nhất. Cảm giác cô đơn là cảm giác đáng sợ với lứa
tuổi này. Nên có những thanh niên chọn con đường theo “chúng bạn”, sa vào những
hành động sai phạm bất chấp sự phản đối của cha mẹ. Hiện tượng này đặc biệt rõ ở các
nam thanh niên mới lớn.


21

Tình bạn ở lứa tuổi này có cơ sở của lý trí và bền vững hơn tình bạn ở tuổi thiếu
niên. Việc chọn bạn thường khơng cảm tính, bề ngồi như ở tuổi thiếu niên nữa mà
được xây dựng dựa trên những tiêu chí nhất định. Ví dụ như có chung sở thích, hứng
thú, cùng có chung quan điểm về một số vấn đề nào đó, mến phục bạn về những phẩm
chất đức tính nào đó... Nên tình bạn của lứa tuổi này thường sâu sắc và rất bền vững có
khi kéo dài suốt cuộc đời.
Sự gặp nhau về xu hướng, tính cách hay năng lực của các em là cơ sở để hình
thành những nhóm bạn, có thể cùng giới hay khác giới. Hình thức học tập nhóm ở
trường THPT, sự phát triển của giao tiếp nhóm trong thời đại công nghệ thông tin ngày
nay thông qua các kênh truyền thơng là những ngun nhân cũng góp phần, kích thích
sự hình thành nhóm bạn của HS THPT. Nhóm bạn có thể là một thế giới thu nhỏ mà ở
đó các em học cách giao tiếp, học cách làm việc và thể hiện cái tơi, từ đó hồn thiện

nhân cách của mình [50, 106-107].
Ba là quan hệ giới tính. Một loại tình cảm rất đặc trưng xuất hiện ở độ tuổi này là
tình yêu nam nữ. Cảm giác về mối tình đầu đã có thể xuất hiện lẻ tẻ.
Đây là một hiện tượng rất tự nhiên trong đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn.
Nhìn chung, tình yêu ở lứa tuổi này thường trong sáng, thuần khiết, hồn nhiên và giàu
cảm xúc. Có thể nói đây là yếu tố chi phối mạnh mẽ sự phát triển tâm lý cũng như đời
sống tình cảm của thanh niên trong lứa tuổi này.
Tuy nhiên, khoa học và thực tế đời sống đã chứng minh rằng, ở độ tuổi này, sự chín
muồi về sinh lý và tính dục đã đi trước một bước so với sự trưởng thành về tâm lý, về
xã hội và kinh nghiệm sống. Trong khi đó cảm giác của mối tình đầu gây những rung
cảm rất mãnh liệt. Nói cách khác, những điều kiện cần và đủ để đi vào tình u đơi lứa
chưa hội tụ đủ.
Điểm đặc trưng trong tình u ở lứa tuổi này là có sự pha trộn giữa tình yêu và tình
bạn mà bản thân các em cũng khơng phân biệt rạch rịi. Tình cảm các em dành cho
nhau rất kín đáo, thầm kín, nhiều e thẹn và rất chân thành. Các em thường ấp ủ trong
tâm hồn nhiều hơn là biểu lộ ra bên ngoài nhưng ấn tượng lại rất mạnh, rất sâu sắc mà
nếu đổ vỡ thường gây nhiều đau khổ cho cả hai. Ít đi tới hơn nhân, đơn giản là vì các
em còn thiếu rất nhiều điều kiện để thực hiện hơn nhân và cuộc đời phía trước các em
cịn nhiều biến động.
Người lớn cần phải coi đây là một hiện tượng rất bình thường và tự nhiên trong quá
trình trưởng thành của con người, không nên coi đây là một vấn đề nghiêm trọng cần
phải can thiệp “gấp”. Mọi sự can thiệp thơ bạo, cấm đốn đều khơng phải là những


22

biện pháp hợp tình, hợp lý, thậm chí có thể để lại những hậu quả xấu. Việc mà người
lớn cần phải làm là bằng các hình thức, biện pháp giáo dục tinh tế, khéo léo xây dựng
cho các em những quan niệm, chuẩn mực về tình u đơi lứa, về đạo đức, về đạo lý
tình dục. Chính các em mới là người quyết định phải làm gì và làm như thế nào trong

các tình huống tình cảm. Vấn đề quan trọng thứ hai để giúp các em HS THPT duy trì
tình cảm khác giới lành mạnh là tạo mơi trường, lôi cuốn các em vào những hoạt động
tập thể phong phú, sinh động, các hoạt động giải trí lành mạnh, bổ ích (thể thao, ca
nhạc...).
Nhà giáo dục học Phạm Khắc Chương khi nhắc đến hoạt động giao tiếp trong
nhóm bạn và tình cảm giới tính đã nhận xét như sau: “Ở lứa tuổi này các em có nhu
cầu mạnh mẽ về tình bạn và nhóm bạn phù hợp hứng thú, sở thích trong học tập hoặc
trong hoạt động, tạo điều kiện cho tình yêu nam nữ phát triển. Tình bạn, tình yêu chân
thành, trong sáng là động lực thúc đẩy phát triển những phẩm chất, năng lực tốt đẹp
của thanh niên, đồng thời mở rộng mối quan hệ ứng xử thấm đượm sâu sắc những
chuẩn mực đạo đức, nhân văn, xã hội.” [41, 83].
Thứ hai, về đời sống tình cảm
Đời sống tình cảm của tuổi đầu thanh niên rất đa dạng phong phú, mang tính sâu
sắc và bền vững hơn so với tuổi thiếu niên. Do nó được xây dựng trên cơ sở nhận thức
đầy đủ và rõ ràng hơn. Nó được gắn với thế giới quan, lý tưởng và xu hướng nghề
nghiệp đồng thời có sự đối chiếu với những nhu cầu đạo đức xã hội.
Tuổi HS THPT là lứa tuổi có nhiều đổi mới trong q trình phát triển và xã hội hóa
các xúc cảm. Nội dung, chất lượng của các rung động, thể nghiệm trở nên đa dạng và
phong phú hơn, phạm vi đối tượng gây nên cảm xúc cũng được mở rộng, xúc cảm
được phân hóa rõ rệt. Khả năng tự kiểm soát và tự điều chỉnh hành vi, xúc cảm của các
em cũng được hình thành. Sự nhạy cảm với các ấn tượng mới của đời sống và tính cởi
mở của các em được biểu hiện rõ nét thông qua việc các em bắt đầu có những rung
động sâu sắc đối với các quan hệ trong gia đình, trong nhà trường và trong sinh hoạt
thường nhật. Đặc biệt, các em rất nhạy cảm với những rung động của người khác. Các
em dễ dàng có sự đáp ứng xúc cảm mạnh mẽ đối với những rung động của các nhân
vật trong văn học và cái đẹp trong nghệ thuật. Các em có nhu cầu muốn hiểu và phân
tích tình cảm của mình cũng như ln tìm cách thể hiện tình cảm đó. Các em thường
có sự đấu tranh mạnh mẽ giữa những tình cảm trái ngược nhau, giữa lý trí và tình cảm



23

trong đời sống nội tâm của các em. Khả năng kiềm chế và che giấu tình cảm của các
em cũng tăng lên rõ rệt.
Ở lứa tuổi này, tình cảm cấp cao bắt đầu phát triển mạnh. Tình cảm xã hội lành
mạnh, lớn lao đã bao trùm lên tình cảm gia đình, cá nhân và chi phối những tình cảm
đó. Tình cảm đạo đức cũng được hình thành và phát triển mạnh. Có thể nói đây là thời
kỳ hình thành tình cảm đạo đức tích cực nhất.
Thế giới tình cảm của thanh niên mới lớn vơ cùng đa dạng và tình cảm của các em
diễn ra cũng rất khác nhau. Sự khác nhau đó là do xu hướng, độ sâu, tính ổn định và
tính hiệu lực của tình cảm ở mỗi người khơng giống nhau. Xu hướng tình cảm giữ vai
trị rất quan trọng, nó quyết định thái độ của chúng ta đối với các đối tượng xung
quanh. Xu hướng tình cảm phụ thuộc vào tính nguyên tắc, vào thế giới quan và niềm
tin của con người.
1.2. Một số vấn đề về thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc
1.2.1. Khái quát chung về vấn đề thẩm mỹ âm nhạc
1.2.1.1. Khái niệm thẩm mỹ âm nhạc
Thẩm mỹ theo nghĩa của từ ngữ là sự thụ cảm cái đẹp. “Thẩm mỹ âm nhạc” theo
nghĩa hẹp do đó có nghĩa là sự thụ cảm cái đẹp trong âm nhạc. Một số nhà nghiên cứu
Mỹ học Việt nam đã chỉ ra rằng: “Phạm trù thẩm mỹ là khái niệm chung nhất, khái
quát nhất thể hiện nhận thức của con người trước những hiện tượng thẩm mỹ trong tự
nhiên, xã hội, trong bản thân con người và nghệ thuật, thể hiện những quy luật cơ bản
của hoạt động thẩm mỹ, của quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực” [12, 12].
Bên cạnh đó, trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, Mỹ học Mác – Lênin đã coi cái thẩm mỹ là một quan hệ gồm ba mặt hợp thành:
Một là mặt đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ. Đó là những cái đẹp, cái bi, cái hài, cái
cao cả tồn tại khắp mọi nơi trong đời sống xã hội. Hai là mặt chủ thể trong quan hệ
thẩm mỹ. Đó là các hoạt động của chủ thể thẩm mỹ về nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm
mỹ, lý tưởng thẩm mỹ của những con người xã hội. Ba là mặt nghệ thuật trong quan
hệ thẩm mỹ. Đó là các hoạt động hưởng thụ nghệ thuật, đánh giá nghệ thuật, sáng tạo

nghệ thuật.
Ở đây cần hết sức tránh nhầm lẫn hai khái niệm “thẩm mỹ” và “mỹ học”. Cũng
như sự khác biệt giữa lịch sử và sử học, văn chương và văn học, âm nhạc và âm nhạc
học… “thẩm mỹ” hồn tồn khơng phải là “mỹ học”. Đó là sự khác biệt giữa đối
tượng và khoa học nghiên cứu đối tượng. Do đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì “thẩm
mỹ âm nhạc” là toàn bộ hoạt động của con người (chủ thể thẩm mỹ) trong việc hưởng
thụ, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật âm nhạc (đối tượng thẩm mỹ).


24

1.2.1.2. Những biểu hiện đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc theo quan điểm của
Mỹ học hiện đại
Theo quan điểm của Mỹ học thì âm nhạc là nghệ thuật của âm thanh và thời gian.
Nếu như phương thức để biểu hiện đối tượng, nội dung của khoa học là các khái niệm
thì trong nghệ thuật lại là hình tượng nghệ thuật. Nếu như văn học dùng chất liệu,
ngôn ngữ để biểu hiện hình tượng nghệ thuật là ngơn ngữ, điêu khắc là hình khối, hội
họa là đường nét và màu sắc…thì chất liệu, ngơn ngữ để biểu hiện hình tượng âm nhạc
lại là âm thanh. Hay có thể nói một cách khác, âm nhạc là nghệ thuật của thính giác
(dựa vào phương thức thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ). Năm 1862 trong cuốn sách “Bàn
về cảm giác âm thanh như là cơ sở sinh lý cho lý thuyết âm nhạc”, Helmholtz đã ghi
chú: Âm nhạc có một lối liên kết chặt chẽ với cảm giác thuần túy hơn bất cứ nghệ
thuật nào. Bởi vì trong âm nhạc có cảm giác về âm thanh chính là chất liệu của nghệ
thuật.
Âm thanh và thời gian là hai yếu tố của bản chất ngơn ngữ âm nhạc. Do đó, nó
ln ln là trừu tượng và ước lệ trong nhận thức của con người. Đặc biệt là trong các
thể loại âm nhạc không lời (khí nhạc).
Ở đây, chúng ta cần phân biệt hình tượng thẩm mỹ và hình tượng nghệ thuật.
Chúng có mối quan hệ khăng khít nhưng khơng đồng nhất với nhau. Hình tượng thẩm
mỹ là tấm gương phản ánh đời sống xã hội, hàm chứa cả nội dung lẫn hình thức,

nhưng trước hết là hàm chứa nội dung và đời sống bên trong, đem lại những cảm xúc
và nhận thức thẩm mỹ. Nó là sản phẩm nhận thức thẩm mỹ của con người trong quá
trình phản ánh thế giới ở lĩnh vực nhân văn. Hình tượng thẩm mỹ chính là hình thức
phản ánh của nghệ thuật, là những cảm xúc, những thị hiếu, những tình cảm, những
biểu tượng, những lý tưởng thẩm mỹ được tổ hợp lại thành những hình ảnh cảm quan,
cụ thể nhằm bộc lộ bản chất xã hội, bản chất con người.
Hình tượng thẩm mỹ là cơ sở để tạo nên hình tượng nghệ thuật. Từ hình tượng
thẩm mỹ sang hình tượng nghệ thuật lại cịn được cảm quan hóa thơng qua các loại
hình nghệ thuật đặc thù khác nhau. Hình tượng thẩm mỹ có thể do thiên tạo nhưng
hình tượng nghệ thuật nhất thiết phải là sản phẩm do người nghệ sỹ sáng tạo ra.
Hình tượng âm nhạc mang tính chất trừu tượng hơn và cũng trực tiếp hơn các loại
hình nghệ thuật khác do yếu tố biểu hiện là chất liệu âm thanh của âm nhạc. Nghệ
thuật nào cũng hướng tới tâm hồn con người. Nhưng âm nhạc lại là thứ ngôn ngữ trực
tiếp của tâm hồn, nó len lỏi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, tình cảm, chạm vào
mọi ý thức của tâm linh. Nói về đặc trưng trong âm nhạc, tác giả Đỗ Thị Minh Thảo


25

viết: “Sức biểu hiện trong âm nhạc là sức chở nội dung cảm xúc, tình cảm, hình tượng
mang tính thẩm mỹ cao của các âm thanh, có ý nghĩa nhân văn.” [26, 158].
Hình tượng âm nhạc mở ra đầu tiên ở chủ đề âm nhạc, sau đó là trong quá trình
phát triển các chủ đề âm nhạc. Trong quá trình phát triển đó, có khi là sự mở rộng biến
hóa, bổ sung, có khi là sự xuất hiện chủ đề mới tạo sự tương phản, xung đột giữa các
chủ đề tạo nên hình tượng sinh động, sâu sắc.
Chủ đề trong âm nhạc là ý nhạc cơ bản được trình bày một cách rõ ràng trong quan
hệ giai điệu và cấu trúc, thể hiện ở chất liệu âm nhạc được cá tính hóa và có ý nghĩa
dẫn đầu truyền cảm hình tượng trong tác phẩm âm nhạc. Chủ đề âm nhạc gắn liền với
ngôn ngữ âm nhạc được thể hiện một cách cụ thể bằng một giai điệu, một ý nhạc, hoặc
có thể là một tiết tấu, vài nốt nhạc, vài hợp âm mang tính đặc sắc, cơ đọng nhất, dễ

nhớ, dễ thuộc, dễ liên tưởng, dễ cảm nhận.
Chủ đề âm nhạc và hình tượng âm nhạc có mối liên hệ gắn bó với nhau nhưng
khơng đồng nhất với nhau. Nó gắn bó với nhau bởi lẽ, mỗi một chủ đề âm nhạc sẽ
mang lại một hình tượng âm nhạc, nếu như khơng ngay tức khắc thì cũng sẽ ít nhiều
bộc lộ trong tồn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, nó khơng đồng nhất ở chỗ: Khái niệm chủ
đề âm nhạc quan hệ đến chất liệu âm nhạc. Nó là ý nhạc cụ thể. Chủ đề âm nhạc thuộc
lĩnh vực lý thuyết, lý luận âm nhạc. Cịn hình tượng âm nhạc mang tính chất mở rộng
hơn. Nó là khái niệm thuộc quy tắc thẩm mỹ, hồn tồn mang tính Mỹ học. Đó là
trạng thái tâm hồn, nhận thức lý trí của con người thông qua những phương tiện biểu
hiện của ngôn ngữ âm nhạc mà hình thành. Do đó, hình tượng âm nhạc mang tính ước
lệ, tính trừu tượng và khái quát cao về tư duy, cảm xúc của nhà soạn nhạc. Có thể nói,
hình tượng âm nhạc là linh hồn của tác phẩm âm nhạc.
Nghiên cứu bản giao hưởng số 5, giọng Đô thứ “Định mệnh”, Op. 67 của
Beethovent. Chúng ta sẽ thấy mối quan hệ này giữa chủ đề và hình tượng âm nhạc.

Hình 1: Chủ đề I, chương I, bản giao hưởng số 5 của Beethovent
Toàn bộ chủ đề trong chương I bản giao hưởng số 5 này gồm 21 nhịp, được cấu
trúc bằng hình thức một đoạn khơng hoàn chỉnh. Tuy nhiên, chỉ bằng 2 motive gồm 5
nhịp, với nhân tố âm nhạc gồm 4 âm được gắn với tên gọi “Chủ đề số phận” (Motive
chủ đề) báo tin mở đầu bản giao hưởng. Từ giai điệu ban đầu của chủ đề thứ nhất –
chủ đề chính, khiến người nghe liên tưởng ngay đến hình tượng âm nhạc, đó chính là


×