LỜI MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại là một xu thế khách
quan bởi sự phát triển mãnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và
công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới từng quốc
gia, trở thành vấn đề toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, cần có
những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng
toàn cầu hóa và mang lại hiệu quả cao, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Văn kiện của Đảng đã chỉ rõ chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước “hướng mạnh vào xuất khẩu” và coi đây là một định hướng chiến lược phát triển
kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải khai thác và tận dụng những lợi thế của chúng
ta một cách tốt nhất.
Ngành dệt may của Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò của mình
trong nền kinh tế thị trường và là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Trên thị trường thế giới, Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình khi
có quan hệ với hơn 250 công ty thuộc 60 quốc gia trên thế giới.
Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may trực thuộc Tập đoàn dệt may Việt
Nam là một trong những công ty có kim ngạch xuất khẩu hàng năm lớn, đã thiết lập
được những thị trường truyền thống như Nhật Bản và đứng vững trên một số thị
trường lớn như EU, Trung Đông. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Công ty có thể tận
dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hóa phục vụ cho việc trao
đổi, buôn bán với các quốc gia khác để thu ngoại tệ, phục vụ cho quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của người dân trong
nước.
Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu
của Công ty trong thời gian tới. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Sản xuất Xuất
nhập khẩu Dệt may em đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt
3
may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may” cho chuyên đề thực tập
chuyên ngành của mình.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
Qua nghiên cứu đề tài này, bằng việc phân tích tình hình và đành giá hiệu quả
xuất khẩu cũng như đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu , hy
vọng phần nào tháo gỡ được những vướng mắc hiện đang tồn tại trong họat động sản
xuất hàng dệt may của Công ty, nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả xuất khẩu,
đưa dệt may lên vị trí xứng đáng với tiềm năng phát triển của mình.
1.3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công
ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt
may.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài, em sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương
pháp đi từ phân tích, so sánh đến tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong đề tài.
1.5.Kết cấu của đề tài:
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty Sản xuất Xuất nhập
khẩu Dệt may
Chương 3: Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Sản
xuất Xuất nhập khẩu Dệt may
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
4
1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày giữa các quốc gia trên
khắp thế giới, có thể nói, thương mại quốc tế là một phần không thể thiếu cho sự phát
triển của các quốc gia ngày nay, từ các nước nghèo, các nước đang phát triển tới các
nước phát triển đều cùng tham gia vào hoạt động này.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia khác nhau
trên thế giới thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là
biểu hiện của một hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt.
Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng trong hoạt động thương mại quốc
tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hóa
của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ.
Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước
đều là một quá trình trao đổi hàng hóa (bán hàng), đó là quá trình thực hiện giá trị
hàng hóa của người sản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi hoạt
động thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận
thấy để có sự vận dụng hợp lý.
1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó,
khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống như khi
chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, khách hàng nước ngoài có nhiều điểm khác
biệt về ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập quán… với khách hàng trong nước, do đó sẽ
dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà
xuất khẩu cần có sự nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước
ngoài để đưa ra những hàng hóa cho phù hợp.
5
Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp
cận hơn thị trường trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu vượt ra ngoài biên giới
quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn và có nhiều nhân tố ràng
buộc hơn.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua
hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán, vận
chuyển, ký kết hợp đồng… đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra
nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại
kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro
hơn.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị
kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương.
Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hóa cảu các quốc gia là hoạt động
xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đậu tiên
trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế của từng nước cũng như toàn thế giới. Nó là một trong những nhân
tố cở bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhậ khẩu, phục vụ công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước.
Ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng
trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động tự nước ngoài
6
được coi là nguồn chủ yếu cho họ phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ
nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi chủ đầu tư và và người cho vay
thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này
có thể trả nợ được.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang
và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có 2 cách nhìn nhận về tác
động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch kinh tế:
- Coi thị trường là mục tiêu sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở
rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một
nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả
năng sản xuất của quốc gia đó.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ
từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất
mới.
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả sản
xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao
động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ
phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm
này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp
ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả
các loại hàng hóa mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản
7
xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hóa mà
mình cần.
- Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những hàng hóa thừa trong tiêu dùng
nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ
bản chưa đủ đáp ứng tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất
khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó ngành sản xuất
không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc
làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động
thông qua sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, đáp ứng nhu
cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ
thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban
đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế,
bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của ngành
này thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân
doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.
Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham
gia và cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận.
Sản xuất hàng xuất khẩu còng giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
8
công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không
chỉ về chiều rộng mà cả chiều sâu.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng
quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều
có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia
sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của
công ty.
Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh
nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản
xuất, marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tói
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc
gia.
1.2. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hóa trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn
hàng xuất khẩu… Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số
hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau:
1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hóa mà trong đó các doanh
nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong
nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua công
đoạn gia công chế biến).
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng
hóa để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hóa từ các địa phương, các cơ sở sản
xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hóa thuộc sở hữu
của doanh nghiệp.
Xuất khẩu theo hình thức này thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn
các hình thức xuất khẩu khác, bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hóa
9
chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả
mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hóa có
thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến
ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hóa.
1.2.2. Xuất khẩu ủy thác
Xuất khẩu ủy thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp
ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hóa cho
các đơn vị có hàng hóa ủy thác. Trong hình thức này, hàng hóa trước khi kết thúc quá
trình xuất khẩu vẫn thuộc sỡ hữu của đơn vị ủy thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ
có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hóa, kể cả việc vận chuyển hàng hóa
và được hưởng một khoản tiền gọi là phí ủy thác mà đơn vị ủy thác trả.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh
nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hóa
cũng như không phải tự bỏ vốn ra mua hàng. Tuy nhiên, phí ủy thác mà doanh nghiệp
nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh.
1.2.3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế
Gia công quốc tế là một hoạt động mà một bên – gọi là bên đặt hàng – giao
nguyên liệu, có khi cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi là bên nhận gia
công để sản xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa sau
khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công được trả tiền
công. Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gọi là gia công
quốc tế.
Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập
nguyên vật liệu, bán thành phẩm về cho đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước
ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị
nhận gia công và xuất thành phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia
công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được tiền thu lao gia công.
Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương
không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi ro và
10
khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn
thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt
gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thỏa thuận
với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên liệu và tỷ lệ thu hồi
thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh
nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm.
1.2.4. Họat động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hóa, trong đó
xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng
hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất
khẩu không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hóa khác có
giá trị tương đương.
1.2.5. Hoạt động xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa thường là hàng trả nợ được thực hiện theo
Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có
nhiều ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh
nghiệp), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm bạn hàng.
1.2.6. Một số loại hình xuất khẩu khác
Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về quản lý Nhà nước
đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới đây cũng được coi là
xuất khẩu hàng hóa:
1.2.6.1. Tạm nhập tái xuất
Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hóa của một nước để bán cho
một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các
thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến.
Đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một
thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước
ngoài thì không được coi là hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất.
11
Thời gian hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu
chuyển ở Việt Nam là 60 ngày.
1.2.6.2. Chuyển khẩu hàng hóa
Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán
cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu cũng như
thủ tục xuất khẩu từ các nước này.
1.2.6.3. Quá cảnh hàng hóa
Hàng hóa của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ của nước
thứ hai, có sự cho phép của Chính phủ nước này. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam có
đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể xem xét cho thực hiện dịch
vụ này để tăng thêm thu nhập.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và
hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vị những nhân tố này thường xuyên
làm ảnh hưởng tới kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố
ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến họat động xuất khẩu của doanh
nghiệp.
1.3.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng trong nước
1.3.1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không chịu sự
kiểm soát của doanh nghiệp, các nhân tố đó là:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chính sách và pháp luật liên quan đến
hoạt động xuất khẩu. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp ở hiện tại mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải
tuân thủ và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất
khẩu trong tương lai cho phù hợp.
12
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây là một
chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng phù hợp với
nhu cầu của thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với nhu cầu của thị trường
quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính sách phát triển cụ thể cho từng
giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động xuất
khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại thương.
Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các
biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hành cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi
cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu bởi vì
việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất lớn cho các
quốc gia, chẳng hạn việc xuất khẩu hàng hóa quý hiếm, các sản phẩm thuộc về di tích
văn hóa, các sản phẩm là vũ khí…
- Tỷ giá hối đoái hiện hành: là giá cả của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ, hay
quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Trong hoạt động xuất
khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm tới yếu tố này vì nó liên quan đến việc thu đổi
ngoại tệ sang nội tệ của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất
khẩu của doanh nghiệp.
Nếu tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp có thể
thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái mà nhỏ hơn tỷ suất
ngoại tệ thì doanh nghiệp không nên xuất khẩu.
- Khả năng sản xuất hàng hóa xuất khẩu của từng nước: khả năng này đảm bảo
nguồn hàng cho doanh nghiệp, biểu hiện ở các mặt hàng có thể được sản xuất với khối
lượng, chất lượng, quy cách, mẫu mã có phù hợp với thị trường nước ngoài hay
không. Điều này quyết định khả năng cạnh tranh của các mặt hàng khi doanh nghiệp
đưa ra chào bán trên thị trường quốc tế.
Nếu một đất nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển, có khả năng tạo ra
nhiều mặt hàng đa dạng, chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, hình thức mẫu mã đảm bảo
thẩm mỹ cao và giá cả phải chăng thì đây là điều kiện thuận lợi lớn cho doanh nghiệp
13
khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khả năng sản xuất trong nước yếu
kém, với chủng loại mặt hàng đơn điệu, thô sơ, sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh và mở
rộng thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp.
Hiện nay ở Việt Nam năng lực sản xuất hàng xuất khẩu còn thấp kém, mặt
hàng xuất khẩu còn đơn sơ, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một khó
khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp ngoại thương khi tham gia hoạt động xuất
khẩu.
- Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: mức độ cạnh
tranh thể hiện ở số lượng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc
cùng mặt hàng có thể thay thế cho nhau được. Cạnh tranh một mặt có thể thúc đẩy sự
vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác nó cũng có thể “dìm chết” các doanh nghiệp
yếu kém.
Hiện nay, Nhà nước có chủ trương khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi thành
phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu, do đó đôi khi dẫn đến sự cạnh tranh không
lành mạnh. Đây cũng là một thách thức cho các doanh nghiệp ngoại thương.
- Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước: đây là nhân tố thuộc
về cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu bao gồm phát triển của hệ thống giao thông
vận tải, trình độ của hệ thống thông tin liên lạc…Các nhân tố này có thể tăng cường
hoặc hạn chế khả năng giao dịch, mở rộng thị trường xuất khẩu, các dịch vụ vận
chuyển hàng hóa xuất của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa mà doanh nghiệp
cần phải nắm bắt và hiểu rõ về nó.
1.3.1.2. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và
điều chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình,
có thể kể đến một số nhân tố sau:
- Trình độ năng lực của nhà lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc
doanh nghiệp: đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong
14
kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban
Giám đốc doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các chiến lược kinh doanh
đúng đắn, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của thị trường
quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình.
- Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh doanh
trong doanh nghiệp: cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công
việc của quá trình xuất khẩu hàng hóa. Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động
xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả
kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: biểu hiện ở quy mô vốn hiện có và khả
năng huy động vốn của doanh nghiệp. Năng lực tài chính có thể làm hạn chế hoặc mở
rộng các khả năng khác của doanh nghiệp, vì vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không nhỏ tới kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chiến lược kinh doanh không phù hợp
làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ và có thể dẫn đến phá sản.
1.3.1.3. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở
cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần làm ảnh
hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia.
Vị trí địa lý có vai trò như nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển
kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cho
phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc thúc đẩy xuất
khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng…
1.3.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng nước ngoài
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của quốc gia, có ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu: có ảnh hưởng đến nhu
cầu và khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng đến hoạt
15
động xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển kinh tế của thị
trường xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập dân cư, tình hình lạm
phát, lãi suất…
Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế: biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc
gia. Điều này sẽ dẫn đến việc hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm
quốc gia, do đó sẽ ảnh hưởng tới tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
Đặc điểm và sự thay đổi về văn hóa-xã hội của thị trường xuất khẩu: có ảnh
hưởng đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết định mua hàng
của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Trình độ phát triển khoa học công nghệ của thị trường xuất khẩu: sẽ ảnh
hưởng đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội của thị trường đó, do vậy sẽ ảnh hưởng
đến nhu cầu và sức mua của khách hàng.
Chính sách thương mại của các quốc gia có thị trường xuất khẩu của doanh
nghiệp: có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu
sang thị trường đó. Một quốc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp cho hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được thực hiện một
cách dễ dàng hơn và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược lại, một quốc gia có
chính sách thương mại khắt khe thì sẽ tạo nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực
hiện xuất khẩu sang thị trường này.
Mức độ cạnh tranh quốc tế: biểu hiện ở sức ép cạnh tranh từ phía các doanh
nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp khi cùng tham gia vào một thị
trường xuất khẩu nhất định. Sức ép này càng lớn thì càng gây khó khăn cho doanh
nghiệp khi muốn thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình.
1.3.3. Ảnh hưởng tình hình kinh tế xã hội
Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị
trường tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc
giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình
kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động
kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể
16
nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng
rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát,
thất nghiệp hay tăng trưởng về suy thoái kinh tế…của các nước đều ảnh hưởng tới
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta.
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty Sản xuất
Xuất nhập khẩu Dệt may
2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong thời gian qua
2.1.1. Môi trường hoạt động
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh
nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều kiện bên trong và bên
ngoài ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường
17
kinh doanh có tác động mạnh mẽ tói hoạt động của doanh nghiệp. Đối với Công ty
Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may, môi trường kinh doanh hiện nay đã tạo ra những
thuận lợi, mở ra những cơ hội mới, tuy nhiên nó cũng tạo ra những khó khăn đòi hỏi
nỗ lực, đoàn kết, nhất trí của tập thể cán bộ Công ty để vượt qua những khó khăn này.
2.1.1.1. Thuận lợi
Việc đánh giá đúng thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một
cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Một số thuận
lợi mà Công ty có được là:
- Với chính sách mở cửa đa dạng hóa, đa phương hóa với các nước, Việt Nam đã là
thành viên của ASEAN, APEC, đã ký thỏa ước song phương với Mỹ, trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO cộng với tình hình xã hội
ổn định sẽ tạo điều kiện cho việc thu hút khách quốc tế đặt hàng, Công ty có cơ hội
mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Công ty được sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt và sự chỉ đạo có hiệu quả của Tổng giám
đốc và các Ban chức năng của Tổng công ty.
- Ban lãnh đạo công ty đoàn kết nhất trí, chỉ đạo xuyên suốt tới các phòng ban, các
cán bộ công nhân viên và đặc biệt là sự quan tâm, hỗ trợ của lãnh đạo ở trên nên Công
ty đã phát huy tích cực năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường nước ngoài.
- Đội ngũ cán bộ trong Công ty có trình độ, năng động, nhiệt tình trong công việc,
không ngừng học hỏi vươn lên vượt qua khó khăn trên thương trường để hoàn thành
nhiệm vụ.
- Công ty đã thiết lập được mối quan hệ tốt với khách hàng trong và ngoài nước, tạo
điều kiện giúp đỡ Công ty trong kinh doanh, tạo được phong cách giao dịch của một
thương hiệu dịch vụ - thương mại của Công ty trên thị trường, tạo thành hệ thống
khách hàng trong và ngoài nước.
2.1.1.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, Công ty cũng đang gặp phải một số khó khăn
là:
- Do Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, đổi mới nên các thủ tục, chính sách
thay đổi liên tục, làm ảnh hưởng đến các chương trình phát triển của Công ty.
18
- Tỷ giá đồng Việt Nam so với một số đồng ngoại tệ mạnh biến đổi bất thường làm
ảnh hưởng tới công tác nhập khẩu thiết bị dệt may và các nguyên liệu cung cấp cho
các đơn vị trong ngành.
- Thị trường EU, Canada cơ chế cấp hạn ngạch đóng mở tự động ngày càng khó khăn
cho Công ty khi xuất khẩu hàng hóa. Thị trường Mỹ hạn ngạch bị hạn chế, việc thống
kê hạn ngạch giữa hải quan Mỹ và Bộ thương mại không khớp nhau làm cho hàng
xuất khẩu bị ách tắc gây thiệt hại cho Công ty.
- Sản phẩm dệt may luôn bị cạnh tranh quyết liệt giữa các đơn vị kinh doanh trong
nước và nước ngoài.
- Giá nguyên liệu đầu vào như bông, xăng dầu…biến động liên tục và phức tạp gây
nên những rủi ro lớn cho Công ty.
- Vống lưu động ít nên số tiền vay nhân hàng để kinh doanh là lớn.
- Chi phí vận chuyển và chi phí đầu vào tiếp tục tăng cao.
2.1.2. Lĩnh vực hoạt động của Công ty
Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu dệt may (sau đây gọi tắt là Công ty) là doanh
nghiệp Nhà nước, đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty Dệt – May Việt Nam
(sau đây gọi tắt là Tổng công ty) hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, các quy
định của pháp luật và Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty, có nhiệm vụ kinh
doanh trong các ngành, nghề, lĩnh vực sau:
- Công nghiệp dệt may: kinh doanh nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ
liệu, hóa chấ, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may; sản xuất
kinh doanh hàng dệt may gồm các chủng loại xơ, sợi, vải, hàng may mặc, dệt kim, chỉ
khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm.
Kinh doanh nguyên liệu bông xơ; kiểm nghiệm chất lượng bong xơ phục vụ
cho sản xuất kinh doanh và nghiên cứu khoa học.
- Xuất nhập khẩu: hàng dệt may (gồm các chủng loại xơ, sợi, vải, hàng may mặc,
dệt kim, chỉ khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu), thiết bị phụ tùng
ngành dệt may, phụ liệu, hóa chất, thuốc nhuộm; Hàng công nghệ thực phẩm: nông,
lâm, hải sản; Thủ công mỹ nghệ; Ô tô, xe máy, các mặt hàng tiêu dung khác; Trang
19
thiết bị văn phòng; Thiết bị tạo mẫu thời trang; Phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện
tử, cao su.
- Dịch vụ : Thi công, lắp đặt hệ thống điện dân dụng, công nghiệp phục vụ ngành
dệt may ; Thi công lắp đặt hệ thống điện lạnh; Tư vấn, thiết kế quy trình công nghệ, bố
trí máy móc thiết bị cho ngành dệt may, da giày; lắp đặt hệ thống điện công nghiệp, hệ
thống cẩu, thang nâng hạ, thang máy; Sản xuất kinh doanh sữa chữa, lắp đặt các sản
phẩm cơ khí máy móc thiết bị công nghiệp; Thực hiện các dịch vụ thương mại và công
việc có tính chất công nghiệp; dịch vụ đào tạo nghề may mặc công nghiệp; Ủy thác
mua bán xăng dầu; Kinh doanh kho vận, kho ngoại quan; Dịch vụ du lịch, khách sạn,
nhà hàng, văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước.
- Kinh doanh thương mại: Kinh doanh hàng công nghệ phẩm: Nông, lâm, hải sản;
Thủ công mỹ nghệ; Ô tô, xe máy; Các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác; Thiết bị
phụ tùng ngành dệt may; Trang thiết bị văn phòng; Văn phòng phẩm; Thiết bị tạo mẫu
thời trang; Phương tiện vận tải; Vật liệu điện tử, đồ nhựa, cao su; Nước uống dinh
dưỡng và mỹ phẩm các loại; Phụ tùng, máy móc, thiết bị phục vụ công nghiệp; Dụng
cụ quang học, hệ thống kiẻm tra đo lường phục vụ các công tác thí nghiệm; Phế liệu
và thành phẩm sắt, thép và kim loại mầu.
Cho thuê nhà phục vụ các mục đích kinh doanh (kiốt, trung tâm thương mại);
Cho thuê kho, bãi đậu xe, dịch vụ giữ xe; Mua bán hàng dệt may thới trang, thực phẩm
công nghệ, hóa mỹ phẩm, nông, lâm, hải sản, thủ công mỹ nghệ, đồ văn phòng, văn
phòng phẩm, vật liều điện, điện tử, đồ nhựa, hàng công nghiệp tiêu dùng khác Cho
thuê nhà xưởng; Dịch vụ cho thuê nhà ở.
- Các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong các lĩnh vực hoạt động của Công ty, hoạt động xuất nhập khẩu luôn là
hoạt động chủ yếu. Điều này phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Công ty và là điều
tất yếu trong quá trình hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay.
2.1.3. Kết quả họat động kinh doanh của Công ty
BẢNG 2.1: KẾT QUẢ KINH DOANH 2002-2006
20