Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản việt nam trên thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.87 KB, 75 trang )













LUẬN VĂN:

Nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông
sản Việt Nam trên thị trường Mỹ








CHƯƠNG I:
Lý luận chung về cạnh tranh và sự cần thiết
phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng
nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

I.cạnh tranh:
Hiện nay, trong xu thế hội nhập - quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá đang diễn ra


nhanh chóng, các doanh nghiệp không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh của
mình trong phạm vi một quốc gia, mà họ luôn tìm cách hướng ra thị trường nước ngoài vì
những lợi ích do hoạt động xuất khẩu mang lại. Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy các
doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động xuất khẩu như mở rộng khả năng tiêu thụ
hàng hoá, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc ổn định lợi
nhuận. Vì vậy, sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản
vào các nguồn lực ở nước ngoài, vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và quan
trọng là khả năng cạnh tranh đối với các đối tác quốc tế trên thị trường.
1. Khái niệm.
Khái niêm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong
các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng
với sự phát triển của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ
nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch" (Chiến
lược cạnh tranh của M.E.Porter, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật - 1995).
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh
không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm
lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Do đó quan điểm đầy đủ về
cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất,
kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được

những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Như vậy có thể thấy rằng môi trường hoạt động của kinh tế thị trường chính là cạnh
tranh tự do. Trên thị trường luôn diễn ra sự ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên để
giành phần có lợi cho mình, bởi vì, động lực hoạt động của các thành viên tham gia thị trường
là lợi nhuận. Lợi nhuận sẽ đưa các nhà kinh doanh đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã
hội cần nhiều hàng hoá hơn và từ bỏ những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần ít
hàng hoá.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh thể hiện một số vai trò chủ yếu sau:
- Cạnh tranh cho phép sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu và khuyến khích
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mục tiêu trước nhất của doanh nghiệp là
tối đa hoá lợi nhuận. Mà lợi nhuận chỉ có được khi bán được hàng hoá sản phẩm của doanh
nghiệp. Điều này lại phụ thuộc vào người tiêu dùng. Người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm
mà họ thích nhất, họ cho là có chất lượng tốt nhất, có kiểu dáng đẹp nhất, có giá trị phù hợp
nhất Do đó, buộc các nhà sản xuất phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch
vụ, đáp ứng ngày một tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, của thị trường. Đồng thời, các nhà
sản xuất phải luôn tìm cách bán sản phẩm của mình với giá thấp nhất có thể. Bên cạnh đó, để
nâng cao chất lượng cũng như hạ thấp giá thành sản phẩm, các nhà sản xuất cũng không
ngừng phải đổi mới công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo
ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, giá thành thấp hơn. Như vậy, cạnh tranh sẽ dẫn đến kết
quả là làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng
tăng, phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh làm cho nhu cầu của người tiêu dùng luôn được thoả mãn. Trong môi
trường cạnh tranh, người tiêu dùng được coi là "thượng đế", các nhà sản xuất sẽ luôn tìm cách
làm ra những sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Chính vì vậy mà bất cứ ý muốn nào

của người tiêu dùng cũng đều được các nhà sản xuất quan tâm và thoả mãn miễn là người tiêu
dùng sẵn sàng trả tiền để có được sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mình.
- Có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý
giữa lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội. ở nước ta
trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây, cạnh tranh ở thị trường được hiểu theo nghĩa tiêu
cực. Suốt một thời gian dài, chúng ta cạnh tranh thị trường là không tốt, là “cá lớn nuốt cá
bé”. Thực ra, cạnh tranh trên thị trường là cơ chế hai đầu. Một mặt, cạnh tranh sẽ loại bỏ khỏi
thị trường các doanh nghiệp yếu kém, có chi phí sản xuất cao, mặt khác khuyến khích các
doanh nghiệp có chi phí thấp và tạo môi trường tốt cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả phát triển. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí các nguồn lực của xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả. Điều này đã tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm chi phí tối ưu

hoá đầu vào trong sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh như là một "vũ đài" mà ở đó chỉ tồn tại
người chiến thắng. Do đó, cạnh tranh sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, bởi lẽ, các doanh
nghiệp nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển thì phải không ngừng phấn đấu vươn lên.
Có thể nói rằng cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến
bộ kỹ thuật, là động lực cho nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh không chỉ có toàn
các ưu điểm, nó còn có những khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Cơ
chế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh tranh để tồn tại và
phát triển. Trong quá trình cạnh tranh, hiển nhiên là các doanh nghiệp phải quan tâm trước
tiên đến quyền lợi của bản thân mình, không chú ý đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Từ
đó, dẫn đến những vấn đề xã hội như nạn thất nghiệp, tiền công rẻ mạt, môi trường sinh thái
bị hủy hoại Cạnh tranh, một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó cũng dẫn tới
tình trạng phân hoá ghê gớm, kẻ thắng người bại, dễ dàng đưa tới tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh hay độc quyền trên thị trường. Do đó, cần phải có sự quản lý của Nhà nước, đảm
bảo cho các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, có hiệu quả.
3. Các loại hình cạnh tranh:

Dựa trên các tiêu thức phân loại khác nhau, người ta có thể chia cạnh tranh thành các
loại hình khác nhau sau:
3.1. Dựa vào chủ thể thị trường.
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau
3.1.1. Cạnh tranh giữa người bán và người mua:
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ - bán đắt. Trên thị trường người bán
luôn luôn mong muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất nhưng người mua lại muốn
mua hàng hoá với giá thấp nhất. Sự cạnh tranh được thực hiện trong quá trình “mặc cả” với
giá chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua.
3.1.2. Cạnh tranh giữa người mua với nhau:
Là sự cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung của một loại hàng hoá, dịch vụ

nào đó mà nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn và giá cả của các loại
hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sàng
chấp nhận giá cao để mua được những hàng hoá mà họ cần và những người bán tiếp tục nâng
giá hàng lên. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất
thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính họ.
3.1.3. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau:
Là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau,
thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng và thị trường. Đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa
quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn giành giật
lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào
chiến thắng trong cuộc cạnh tranh là việc tăng doanh số tiêu thụ và tăng tỷ lệ thị phần. Cùng
với nó là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Để có thể đứng vững và

phát triển, các doanh nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp khác nhau tạo thế mạnh cho mình
vượt lện trên đối thủ.
3.2. Dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường (trạng thái thị trường).
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo
- Cạnh tranh không hoàn hảo
- Cạnh tranh độc quyền
3.2.1. Cạnh tranh hoàn hảo:
Là trạng thái cạnh tranh khi có nhiều đối thủ đưa ra bán những hàng hoá tương tự
nhau, trong đó không có một người bán hay một người mua nào có vai trò lớn trong toàn bộ
thị trường. Khi đó trên thị trường có rất nhiều người mua và người bán với những hiểu biết
đầy đủ về thị trường. Mỗi người mua hay người bán đều có mối liên hệ rất nhỏ với toàn thể
thị trường, hành động của họ không có khả năng tác động đến giá cả cũng như cung cầu trên
thị trường. Hay nói cách khác, cả người mua và người bán đều là những người chấp nhận giá,
giá cả tự do thay đổi theo điều kiện thay đổi của cung và cầu, không bị hạn chế bởi các biện
pháp hành chính Nhà nước. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả thị trường sẽ
tiến dần đến mức chi phí sản xuất.

3.2.2. Cạnh tranh không hoàn hảo:
Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm không đồng nhất với
nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình
ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Trong môi
trường cạnh tranh không hoàn hảo, mức độ cạnh tranh rất khốc liệt và các hình thức cạnh
tranh cũng rất đa dạng. Người bán tranh giành khách hàng với nhau bằng uy tín, quảng cáo,
khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng, phương thức bán hàng và cuối cùng thường dẫn đến
cuộc chiến về giá cả. Đây là hình thức cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay
3.2.3. Cạnh tranh độc quyền:

Là trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà ở đó chỉ có một hay một số ít người bán
một loại sản phẩm đồng nhất hoặc một hay một số ít người mua một loại sản phẩm. Họ có thể
kiểm soát hầu như toàn bộ số lượng sản phẩm bán ra hay mua vào. Thị trường này có sự pha
trộn giữa độc quyền và cạnh tranh nên được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Tại đây,
chỉ xảy ra sự cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện để ra nhập hoặc rút khỏi thị
trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí
quyết công nghệ. Thị trường này không có sự cạnh tranh về giá cả mà các nhà độc quyền có
toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc
điểm tiêu dùng của sản phẩm nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Những doanh nghiệp nhỏ
tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo giá cả của nhà độc quyền.
Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay
thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại
cho phát triển sản xuất và làm hại cho người tiêu dùng. Vì vậy một số nước có luật chống độc
quyền nhằm chống lại sự liên minh độc quyền giữa các nhà kinh doanh.
Ngoài ra cạnh tranh còn được phân chia thành nhiều loại khác nhau với các tiêu thức
khác nhau như cạnh tranh trong ngành; cạnh tranh trong nội bộ ngành; dựa vào sức cạnh tranh
của doanh nghiệp mà chia thành mạnh, trung bình hay yếu trong mối quan hệ so sánh với các
doanh nghiệp khác; dựa vào mức độ cạnh tranh trên thị trường mà chia thành cạnh tranh mức
độ cao, trung bình, thấp
4. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu:

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể lẩn tránh được sự cạnh tranh
vì như vậy là cầm chắc sự phá sản. Thay vào đó doanh nghiệp cần sẵn sàng chấp nhận sự
cạnh tranh, chủ động đón trước cạnh tranh và sử dụng các công cụ cạnh tranh một cách linh
hoạt, hữu hiệu.
Các công cụ cạnh tranh là tập hợp các yếu tố, các chính sách, các kế hoạch, các chiến
lược, các hành động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm tạo ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. Mỗi

công cụ cạnh tranh không nên sử dụng độc lập mà nên có sự kết hợp hay hỗ trợ các công cụ
khác. Có như vậy hiệu quả của công cụ mới phát huy tối đa sức mạnh của nó.
Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu:
4.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm.
Nếu doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm là công cụ cạnh tranh thì phải tập trung toàn bộ
chiến lược về sản phẩm làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với thị trường. Nghiên cứu
sản phẩm về thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của khách hàng đối với sản phẩm của
doanh nghiệp. Mỗi sản phẩm được coi là lời giải đáp của doanh nghiệp cho một nhu cầu đã
được tìm thấy trên thị trường và là một lời hứu hẹn đối với người mua, người mua thường
quan niệm: sản phẩm hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu
cầu của mình.
Như vậy để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng biến động nhanh chóng theo hướng
đa dạng hơn, phong phú hơn, cao cấp hơn và độc đáo hơn, doanh nghiệp có thể chọn theo các
hướng:
 Đa dạng hoá sản phẩm:
Đa dạng hoá sản phẩm thực chất là mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm tạo nên một cơ
cấu có hiệu quả của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản
phẩm theo hai hướng sau
- Đa dạng hoá đồng tâm: Là hướng phát triển đa dạng hoá sản phẩm trên nền của sản
phẩm chuyên môn hoá, xoay quanh sản phẩm chuyên môn hoá. Doanh nghiệp có thể dựa vào
năng lực sản xuất hiện có như vốn, công nghệ, con người và nhu cầu thị trường để thực hiện
chiến lược đa dạng hoá đồng tâm.
- Đa dạng hoá kết khối: Là hình thức phát triển đa dạng các lĩnh vực kinh doanh có các

đặc điểm kinh tế - kỹ thuật khác nhau trong một doanh nghiệp. Chiến lược này phù hợp với
các công ty có quy mô lớn, các tập đoàn đa quốc gia.
 Khác biệt hoá sản phẩm:

Khác biệt hoá sản phẩm là tạo ra các đặc điểm riêng độc đáo được thừa nhận trong
toàn ngành có thể là các đặc tính riêng của sản phẩm, sự điển hình về thiết kế hay danh tiếng
sản phẩm hay sự khác biệt về công nghệ sản xuất.
Cạnh tranh bằng sản phẩm có hai yếu tố cạnh tranh quan trọng là chất lượng và giá cả:
4.1.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chữ tín của sản phẩm quyết định chữ tín của doanh nghiệp và tạo lợi thế có tính quyết
định trong cạnh tranh. Do đó để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn
phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm thoả mãn đến mức độ nào nhu cầu của
khách hàng. Để lấy chất lượng làm công cụ cạnh tranh thì mức độ thoả mãn của người tiêu
dùng sau khi tiêu dùng ngày càng tăng lên.
Theo quan điểm triết học của C.Mác: “Chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo
biểu thị giá trị sử dụng của nó”. Theo tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO): “Chất
lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thể hiện
được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng
của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”.
Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là "biện pháp nghèo nàn nhất" vì nó làm giảm lợi
nhuận thu được. Trong khi đó, cùng một loại sản phẩm như nhau nhưng sản phẩm nào có chất
lượng tốt hơn lại được người tiêu dùng sẵn sàng chấp nhận, đôi khi cả với giá cao hơn.
Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống được nâng cao, các tiến bộ
khoa học kỹ thuật không ngừng được áp dụng vào đời sống thì chất lượng sản phẩm đã trở
thành vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Một khi chất lượng không đảm bảo, doanh
nghiệp sẽ bị khách hàng từ bỏ, mất thị trường và nhanh chóng đi tới chỗ suy yếu và phá sản.
Nếu một doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có chất lượng cao thì sẽ đem lại
những thiết thực như sau:


Một là: Do chất lượng sản phẩm cao nên tốc độ tiêu thụ nhanh, tạo được ấn tượng tốt
về nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và tạo được sự tín nhiệm của khách hàng,
kích thích người tiêu dùng.
Hai là: Sản phẩm có chất lượng cao sẽ tạo khả năng sinh lời do giảm được phế phẩm,
tốc độ tiêu thụ nhanh, giảm thiểu thời gian kiểm tra.
Ba là: Chất lượng sản phẩm cao góp phần cải thiện tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Bốn là: Do việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm nên đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, bảo đảm sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp,
bảo đảm giành thắng lợi trong cạnh tranh và thu hút thêm ngày càng nhiều khách hàng, góp
phần phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong điều kiện hiện nay khi mà thu nhập của mỗi người dân được tăng lên thì chất
lượng sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị
trường.
Chất lượng sản phẩm còn thể hiện ở đặc tính của sản phẩm về nhãn hiệu, mẫu mã, bao
bì và tính hữu dụng. Trong sự cạnh tranh gay gắt thì các yếu tố này càng trở nên quan trọng
và có thể coi là một bộ phận công cụ cạnh tranh không kém phần lợi hại. Đối với mỗi doanh
nghiệp, việc lựa chọn nhãn hiệu, ký hiệu phù hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nhãn
hiệu, ký hiệu được coi là dấu vết của sản phẩm, gắn bó chặt chẽ với cuộc đời của doanh
nghiệp. Nó thực sự mang lại cho doanh nghiệp một tư thế riêng và ngày càng đóng một vai rò
quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Từ thực tế cho thấy tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong sản xuất kinh doanh, khống
chế trong cạnh tranh thì đều là các doanh nghiệp có thái độ tích cực như nhau đối với chất
lượng sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ là chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao
khi sử dụng và lòng trung thực trong quan hệ mua bán, đặc biệt là các doanh nghiệp luôn coi
trọng việc nâng cao là một chiến lược cạnh tranh trên thị trường có phạm vi toàn cầu.
4.1.2. Cạnh tranh bằng giá cả sản phẩm.

Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp
dự tính có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi sản phẩm trên thị trường. Hay

nói cách khác, giá cả là số tiền người mua trả cho người bán về việc cung ứng một hàng hoá
hoặc dịch vụ nào đó. Giá cả có vai trò rất quan trọng, đối với doanh nghiệp nó là khâu cuối
cùng, với người tiêu dùng nó là một yếu tố quyết định đến việc mua hay không mua hàng. Giá
cả là dấu hiệu tin cậy phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả, doanh
nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình
trên thị trường .
Theo lý thuyết kinh tế thì giá cả được hình thành do sự gặp gỡ giữa cung và cầu. Trong
thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì mỗi người tham gia thị trường đều là những người chấp
nhận giá. Tuy nhiên, thông thường để giành phần thắng trong trận chiến thì các đối thủ cạnh
tranh thường cố gắng đưa ra các mức giá thấp hơn so với đối phương nhằm tiêu thụ được
nhiều hàng hoá dịch vụ.
Trong cạnh tranh, giá cả được sử dụng làm một trong những công cụ cạnh tranh hữu
hiệu thông qua chính sách định giá bán, và khi đưa một chính sách ra thị trường doanh nghiệp
cần căn cứ vào các mặt sau:
 Lượng cầu đối với sản phẩm: Doanh nghiệp cần tính toán nhiều phương án giá, ứng
với mỗi loại giá là một lượng cầu, từ đó chọn ra các phương án có nhiều lợi nhuận nhất dựa
trên tính quy luật: giá cao thì ít người mua và ngược lại. Tuy nhiên điều này chỉ đúng với loại
hàng hoá có nhu cầu bền.
 Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm: Giá bán là tổng hợp giá thành và lợi
nhuận mục tiêu. Tuy nhiên, không phải bao giờ giá bán cũng cao hơn giá thành, nhất là trong
điều kiện cạnh tranh thị trường.
 Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh và từ đó có cách định giá cho mỗi loại
thị trường.
Cạnh tranh về giá cả thể hiện qua các chính sách định giá. Doanh nghiệp có thể có 3
chính sách định giá sau:

- Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường để thu hút
người tiêu dùng về phía mình. Từ đó tăng được sản lượng tiêu thụ và do đó tăng lợi nhuận.
Mặt khác, với giá như vậy, doanh nghiệp sẽ có khả năng chiếm lĩnh thị trường cũ và xâm
nhập vào các thị trường mới.

- Chính sách định giá ngang giá thị trường: Là định ra mức giá bán sản phẩm xoay
quanh mức giá thống trị trên thị trường, giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, đồng thời,
nếu doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm hoặc đẩy mạnh công tác tiêu thụ thì vẫn thu được
nhiều lợi nhuận hơn nhờ tiết kiệm được chi phí hoặc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
- Chính sách định giá cao: Là chính sách định giá sản phẩm cao hơn giá thống trị trên
thị trường, cao hơn giá trị của sản phẩm. Chính sách này chỉ áp dụng với doanh nghiệp có sản
phẩm độc quyền hoặc các doanh nghiệp có chất lượng vượt trội so với sản phẩm cùng loại
trên thị trường. Với mức giá cao hơn giá thị trường doanh nghiệp sẽ thu được khoản lợi nhuận
siêu ngạch.
- Chính sách giá phân biệt: Chính sách này được biểu hiện là cùng với một sản phẩm
song lại bán ra với những mức giá khác nhau như:
+, Phân biệt theo lượng mua: Người mua nhiều phải được ưu đãi hơn so với người mua
ít.
+, Phân biệt theo chất lượng sản phẩm: Giá bán sẽ phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm
là loại nào (loại 1, loại 2, ). Nếu sản phẩm loại 1 tốt hơn loại 2 thì giá bán loại 1 sẽ cao hơn.
+, Phân biệt theo phương thức thanh toán: Với những khách hàng trả tiền ngay được
ưu đãi hơn so với nhưng khách hàng trả chậm.
+, Phân biệt theo thời gian: Giá tại thời điểm này khác so với giá tại thời điểm khác.
+, Phân biệt theo mùa: Giá bán áp dụng cho mùa nay không giống so với giá áp dụng
cho các mùa khác.
- Chính sách bán phá giá: Giá bán ra thấp hơn hẳn so với giá thị trường, thậm chí có
thể thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm đánh bại đối thủ, loại đối thủ ra khỏi thị trường. Chính

sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có thế mạnh về uy tín, tài chính Chỉ nên áp dụng chính
sách này trong một thời gian nhất định và có kết quả là có thể loại bỏ được một số đối thủ nhỏ
nhưng khó đánh bại được đối thủ lớn. Tuy nhiên để cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ thì
chúng ta không thể sử dụng chính sách này bởi Chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra luật chống bán
phá giá.
Cạnh tranh về giá cả thường được sử dụng khi doanh nghiệp tung một sản phẩm mới ra
thị trường hay khi muốn xâm nhập vào thị trường mới, hoặc khi muốn thủ tiêu một đối thủ

cạnh tranh khác. Cạnh tranh bằng giá cả sẽ đem lại ưu thế cho các doanh nghiệp có vốn và
sản lượng lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác.
Như vậy, qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền sản xuất hàng hoá thì tầm
quan trọng của các công cụ cạnh tranh cũng thay đổi. Khi nhu cầu của người tiêu dùng chưa
được thoả mãn và thu nhập thấp thì giá cả sản phẩm được coi là công cụ cạnh tranh quan
trọng, nhưng sau đó khi đã được thoả mãn về giá cả thì lại xuất hiện ngững nhu cầu về chất
lượng, phương thức cung ứng Cạnh tranh bằng giá cả là một biện pháp quan trọng, nhưng
không phải là quan trọng nhất.
4.2. Cạnh tranh bằng các biện pháp tiếp thị (marketing):
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là
giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận.
Để tiêu thụ sản phẩm, công việc đầu tiên của doanh nghiệp là lựa chọn kênh phân phối
sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu
của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng, để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn.
Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt có nghĩa là xây dựng một nền móng
vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp.
Như vậy, tổ chức tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Tổ chức tiêu thụ tốt có tác dụng giúp doanh nghiệp: tăng sản lượng tiêu thụ, từ
đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh; tạo uy tín của sản phẩm trên thị trường
làm cho nhiều khách hàng biết đến và hiểu rõ tính năng, công dụng của nó; giúp doanh nghiệp

tìm được nhiều bạn hàng mới, khai thác được nhiều thị trường; kích thích sản xuất, kinh
doanh phát triển.
Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các hoạt
động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi, các dịch vụ sau bán hàng. đây là một hình
thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý và thu hút khách hàng.

II. Sức cạnh tranh của hàng hoá:
1. Khái niệm.
Sức cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là tất cả đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản

phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương trường cạnh tranh một cách
lâu dài và có ý nghĩa.
Sức cạnh tranh của hàng hoá đó là khả năng chiếm lĩnh thị trường của một mặt hàng, là
khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được những điều kiện thuận lợi trong tiêu thụ hàng hoá
của mình.
Sức cạnh tranh của hàng hoá còn được thể hiện ở vị trí của mặt hàng đó trên thị trường,
hay nói cách khác đó là sức mua đối với hàng hoá đó trên thị trường, là mức độ chấp nhận của
người tiêu dùng.
2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá.
2.1. Sản lượng, doanh thu:
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá, trong
đó sản lượng và doanh thu của sản phẩm là một chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá sức cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường. Nếu sản lượng tiêu thụ hàng hoá tăng cao qua các năm tức
là hàng hoá duy trì và giữ vững được thị phần. Cũng như doanh thu hàng năm cao với tốc độ
tăng qua các năm tốt chứng tỏ giá cả hàng hoá được duy trì ổn định, hàng hoá đó đứng vững
trong cạnh tranh, có sức cạnh tranh cao và được thị trường chấp nhận. Còn nếu khối lượng

tiêu thụ lớn mà doanh thu không cao chứng tỏ giá cả hàng hoá có sự giảm sút và sức cạnh
tranh của hàng hoá phần nào bị giảm đi.
2.2. Thị phần:
Thị phần cũng là một trong những chỉ tiêu hay được dùng nhất để đánh giá cức cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường. Thị phần của doanh nghiệp trong một thời kỳ (thường
được tính trong một năm) là tỷ lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm được trong
thời kỳ đó, và nó được tính theo công thức sau:

Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = * 100%

trong một thời kỳ Tổng doanh thu trên thị trường
(cùng trong thời kỳ đó)

Hay:
Lượng bán của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = * 100%
(trong một thời kỳ) Lượng tiêu thụ trên thị trường
(cùng trong thời kỳ đó)

Trên thị trường, nói chung thường thường có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất
và kinh doanh một mặt hàng. Những hãng lớn thường có thị phần lớn và ngược lại.
Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên vai trò, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Cũng
như cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường đối với mặt hàng doanh nghiệp đang sản
xuất kinh doanh như thế nào. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này ta có thể đánh giá
mức độ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp có
được mở rộng ra trên thị trường hay không. Thị phần của doanh nghiệp lớn hơn chứng tỏ sản
phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được khách hàng ưa chuộng và đánh giá cao hơn, điều đó
có nghĩa là nó có khả năng đáp ứng những nhu cầu của khách hàng cao hơn so với các đối

thủ cạnh tranh. Những doanh nghiệp có thị phần lớn ở mặt hàng nào đó thường là những
doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến để sản xuất mặt hàng đó nhằm đảm bảo sản phẩm có chất
lượng tốt, giá cả lại phù hợp, đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng. Thị phần của
doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường mà lớn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp có sức
cạnh tranh lớn, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu khách
hàng. Bên cạnh đó tốc độ tăng qua các năm cũng cho thấy khả năng cạnh tranh của sản phẩm
hàng hoá ngày càng tăng.
Chỉ tiêu này khi sử dụng có một nhược điểm là khi tính toán chỉ tiêu khó đảm bảo tính
chính xác, nhất là khi thị trường quá rộng lớn, không thể tính toán được doanh thu thực tế của
các doanh nghiệp khác, nếu có thì cũng mất rất nhiều thời gian và chi phí. Do đó để đánh giá
chính xác hơn, doanh nghiệp có thể tính theo chỉ tiêu thị phần so với các đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất.

2.3. Thi phần so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất:

Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần so với đối thủ = * 100%
cạnh tranh mạnh nhất
Doanh thu của đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất
Nếu sử dụng phương pháp này, người ta có thể lựa chọn từ 2 đến 5 đối thủ mạnh nhất,
tuỳ theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà có những lựa chọn khác nhau.
Phương pháp này có ưu điểm là: Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính hơn nhiều so với chỉ
tiêu thị phần, do đối thủ cạnh tranh thì thường có nhiều thông tin hơn và những thị phần mà
đối thủ mạnh nhất chiếm giữ thường là khu vực thị trường có lợi nhuận cao hơn và rất có thể
doanh nghiệp cần phải chiếm lĩnh thị trường này.

Phương pháp này cũng có nhược điểm là chưa thật chính xác do khó lựa chọn được
những đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, đặc biệt là khi kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Để đảm bảo cần chia ra nhiều lĩnh vực nhỏ để lựa chọn.
2.4. Nhãn hiệu thương mại.
Ngày nay, uy tín của thương hiệu sản xuất càng trở nên quan trọng. Cùng một mức
chất lượng, giá cả và mẫu mã như nhau, nhưng sản phẩm có thương hiệu uy tín được nhiều
người biết đến có thể bán với giá cao hơn hàng chục lần. Không những thế nhãn hiệu thương
mại của công ty càng có uy tín thì sẽ tạo cho người tiêu dùng lòng tin, độ tin cậy đối với hàng
hoá. Khi tiêu dùng sản phẩm của công ty, người tiêu dùng sẽ không còn phải băn khoăn nhiều
cũng như phải mất nhiều thời gian hơn để tìm hiểu về sản phẩm mình muốn mua. Như vậy,
nhãn hiệu thương mại có thể coi như là một tài sản vô hình mà công ty đã tạo dựng được
trong một thời gian nhất định.
2.5. Hình ảnh của hàng hoá và quốc gia.
Yếu tố hình ảnh quốc gia tạo nên sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với hàng hoá mà
họ mua. Quốc gia nào tạo cho mình được một hình ảnh tốt đẹp, tạo được vị trí cao trên trường
quốc tế (trong khu vực và trên thế giới) thì quốc gia đó sẽ có lợi thế hơn rất nhiều, hàng hoá
của quốc gia đó bán ra không những dễ được thị trường chấp nhận hơn mà còn bán được với
mức giá cao hơn. Đối với Việt Nam, đây là một hạn chế rất lớn, do Việt Nam chưa tạo dựng

được cho mình một "hình ảnh" cao trong khu vực và cả trên thế giới, do đó mà một số mặt
hàng của Việt Nam muốn đem bán tại một thị trường nước ngoài nào đó thì phải qua các bước
trung gian, tức là phải nhờ đến "hình ảnh quốc gia" của một nước thứ ba (mà nước này có vị
thế cao hơn Việt Nam trên trường quốc tế). Điều này làm cho lợi nhuận bán hàng bị chia sẻ
rất nhiều, đưa đến thua thiệt cho phía Việt Nam.
3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá:
Trên thị trường, sức cạnh tranh của hàng hoá bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố, trong
đó bao gồm cả các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp:

3.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Theo mô hình 5 khả năng của M.E.Porter có 5 nhân tố tác động chính đến sức cạnh
tranh của hàng hoá trong cùng một ngành, bao gồm:
3.1.1. Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành.
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản
ánh bản chất của môi trường này. Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại diễn ra do một
hoặc nhiều đối thủ cảm thấy bị chèn ép hoặc cảm thấy có cơ hội để cải thiện vị trí. Trong cuộc
cạnh tranh đó các đối thủ sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về
quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng hoặc bảo hành
3.1.2. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn ra nhập thị trường
Những người mới bước vào kinh doanh ở một lĩnh vực, một ngành hoặc một thị trường
sẽ mang theo năng lực sản xuất mới với mong muốn chiếm lĩnh một phần thị trường; sự xuất
hiện của họ làm cho giá bán bị kéo xuống và kết quả là làm giảm mức lợi nhuận. Từ đó mà nó
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện đang kinh doanh
trên thị trường. Hơn nữa những người mới sẽ có những cách tiếp cận mới có hiệu quả hơn đối
với khách hàng. Tuy nhiên để bước vào kinh doanh ở thị trường mới, các công ty phải đủ khả
năng vượt qua những cản trở nhất định. Theo quan điểm của M. Porter, các rào chắn ngăn cản
sự xâm nhập của một công ty bao gồm :
1. Hiệu quả kinh tế do quy mô
2. Sự khác biệt hay ấn tượng về sản phẩm
3. Yêu cầu về vốn

4. Chi phí chuyển đổi
5. Kênh phân phối
6. Chính sách của Chính phủ
7. Sự phản ứng của các nhà cạnh tranh
3.1.3. Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế.

Xét theo nghĩa rộng thì các hãng trong một ngành phải cạnh tranh với các ngành sản
xuất các sản phẩm thay thế, nó bao gồm cả ở hiện tại và tương lai. Các sản phẩm thay thế hạn
chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các
hãng trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khi hai sản phẩm có công dụng gần tương tự nhau
thì đương nhiên người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm nào có mức giá thấp hơn, tức là khi giá
của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Khả năng
lựa chọn về giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi
nhuận của ngành càng vững chắc hơn. Sự sẵn có của sản phẩm thay thế trên thị trường là một
mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của
doanh nghiệp.
3.1.4. Sức ép của khách hàng:
Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá
bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao
hơn. Người mua tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, mặc cả để có chất
lượng tốt hơn, được dịch vụ nhiều hơn và còn làm cho các đối thủ cạnh trạnh chống lại nhau -
tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận của ngành. Quyền lực của mỗi một nhóm khách hàng
quan trọng của ngành phụ thuộc vào một loạt các đặc điểm về tình hình thị trường của nhóm
và vào tầm quan trọng của các hàng hoá mua của ngành xét trong mỗi tương quan của toàn bộ
hoạt động kinh doanh chung của nhóm.
3.1.5. Sức ép của người cung ứng:
Những người cung ứng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Họ có thể khẳng định quyền
lực của mình bằng cách đe doạ tăng hoặc giảm giá, chất lượng hàng hoá hay dịch vụ đã mua.
Những người cung cấp có thế lực bằng cách đó chèn ép lợi nhuận của một ngành khi ngành
đó không có khả năng bù đắp lại chi phí tăng lên trong mức giá của ngành. Các nhà cung cấp

có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những
trường hợp sau:

- Nguồn cung cấp của doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung
cấp.
- Nếu nhà cung ứng có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có mạng lưới
phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách
hàng.
3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
3.2.1. Nguồn nhân lực:
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Ban giám đốc doanh nghiệp.
- Cán bộ quản trị ở cấp doanh nghiệp.
- Cán bộ quản trị ở cấp trung gian, đốc công và công nhân.
 Ban giám đốc doanh nghiệp: Là những cán bộ quản trị cấp cao nhất trong doanh nghiệp,
những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh
của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn ngoài Ban giám đốc còn
có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Các thành viên Ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối
quan hệ tốt với bên ngoài thì họ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt,
như tăng doanh thu, lợi nhuận,mà còn cả uy tín - lợi ích lâu dài của doanh nghiệp đó mới là
yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
 Đội ngũ cán bộ quản trị cấp trung gian, đốc công và công nhân: Nguồn cán bộ của một
doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tiễn là đội ngũ lao
động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn
nhân lực tổ chức và vật chất.
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác
động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng


thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề
để doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
3.2.2. Nguồn lực vật chất và tài chính.
Bao gồm:
 Máy móc thiết bị và công nghệ: Có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Nó là một yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất
của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản
xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp
có trang bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại
không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi mà trong tay họ
là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.
 Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân
phối nào cũng đều phải xem xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công
nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để
nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm,
tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và thậm chí kể cả
khả năng cạnh tranh của đối thủ, doanh nghiệp đều phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động,
từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

III: sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị
trường Mỹ:
1. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nói chung.

Hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân cũng như
sự phát triển nói chung của một quốc gia. Mà để duy trì và phát triển tốt hoạt động xuất khẩu
thì vấn đề sức cạnh tranh của sản phẩm được quan tâm hàng đầu. Nếu sức cạnh tranh của
hàng hoá xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu tiến triển tốt, khi đó sẽ tạo điều kiện cho ta có
ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, phục vụ sản xuất trong nước, thúc đẩy công nghiệp

hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia sẽ nhận biết được lợi thế so sánh của
mình so với các nước khác, và họ sẽ tập trung vào những lĩnh vực thuộc lợi thế của họ để tối
đa hoá lợi ích thu được. Vì vậy, khi tham gia xuất khẩu hàng hoá, các quốc gia sẽ phát huy tối
đa lợi thế của mình để phát triển sản xuất. Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài còn giúp đa
dạng hoá ngành nghề ở các nước xuất khẩu, từ đó mà nhiều công việc được tạo ra, thu nhập
của người dân tăng và đời sống nhân dân được cải thiện. Điều này càng khẳng định tầm quan
trọng của hoạt động xuất khẩu, mà muốn hoạt động xuất khẩu phát triển, tức là ta có thể bán
được nhiều hàng cho nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc ta sẽ phải phục vụ khách hàng
tốt hơn đối thủ cạnh tranh, có nghĩa là sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của ta phải cao
hơn, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, các hàng rào mậu dịch được
rỡ bỏ dần, thay vào đó là chế độ tự do mậu dịch. Khi đó, quốc gia nào, doanh nghiệp nào có
hàng hoá có chất lượng cao hơn, giá cả rẻ hơn sẽ được khách hàng chấp nhận, những hàng
hoá chất lượng thấp trong khi giá cả cao sẽ bị thải loại dần. Như vậy, công cụ để tồn tại và
phát triển trong điều kiện hiện nay của các doanh nghiệp chính là sức cạnh tranh của hàng
hoá, là khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng được khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh
như thế nào.
Bên cạnh đó, quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp
phải luôn đổi mới, vươn lên để có thể trụ vững trong cạnh tranh. Theo quy luật, khi tham gia
thị trường, cả người bán và người mua đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình. Người mua thì
luôn muốn nhận được hàng hoá có chất lượng tốt với giá cả thấp nhất trong khi người bán lại
luôn muốn định giá ở mức cao nhất có thể nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do đó trên thị trường,

người thắng cuộc sẽ là người cung cấp những hàng hoá mà người mua thích nhất, có nghĩa là
nhà sản xuất phải cho ra nnhững sản phẩm được coi là có chất lượng cao nhất xong giá thành
phải thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh, điều đó đồng nghĩa với việc gia tăng sức cạnh
tranh của hàng hoá.
2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị
trường Mỹ.

2.1. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối Việt Nam.
Trước đây, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế mang tính chất tự cung tự
cấp, sản xuất bị kìm hãm, nông nghiệp được quan tâm phát triển song còn yếu kém, khả năng
tiềm tàng chưa được khai thác, nhiều lợi thế chưa được phát huy, trình độ khoa học kỹ thuật,
công nghệ lạc hậu.
Qua 10 năm đổi mới, từ khi thực hiện chính sách “mở” cả trong lẫn ngoài, nước ta đã
đạt nhịp độ tăng trưởng ổn định và bền vững. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, Việt Nam đang phải đứng trước một thực trạng là so với
các nước khác trên thế giới và trong khu vực, nền kinh tế nước ta còn kém phát triển. Vì vậy,
không thể có sự nhảy vọt về chất nếu không nhanh chóng thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu, mà một trong những nhân tố góp phần thực hiện thành công chiến lược này là đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu nông sản, điều này cũng đồng nghĩa với việc phải nâng cao sức cạnh
tranh của hàng nông sản của Việt Nam. Đối với Việt Nam, xuất khẩu nông sản vẫn là xương
sống của sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung.
Là một nước có 80% dân số và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh sống
dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, Việt Nam đã biết cách tận dụng và phát huy được
nhiều lợi thế và tiềm năng về đất đai, lao động và điều kiện sinh thái, cho phép phát triển sản
xuất nhiều loại nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn như: Lúa gạo đồng bằng sông Cửu
Long, đồng bằng sông Hồng; Cà phê vùng Tây Nguyên; Cao su vùng duyên hải miền Trung,
và một số vùng cây ăn quả đặc sản khác Điều đó đã góp phần đưa đất nước lên một bước

phát triển mới. Có thể nói lựa chọn xuất khẩu hàng nông sản để thực hiện chất lượng xuất
khẩu ở Việt Nam là một hướng đi đúng đắn và có hiệu quả, phù hợp với chủ trương của Đảng
và Nhà nước ta. Do vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản nước ta là rất cần
thiết.
Thực tế cho thấy trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, xuất khẩu nông sản đã có
vai trò rất quan trọng, cụ thể:
- Xuất khẩu nông sản tạo nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho quốc gia: Cho đến nay, kim
ngạch xuất khẩu nông sản nước ta chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước

và là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu ở nước ta. Là một nước nghèo, thiếu ngoại
tệ và một khi đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi như đồng Việt Nam, thì xuất khẩu nông
sản càng có ý nghĩa quan trọng “hàng đầu” tạo ra nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc
thiết bị công nghệ và vật tư cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
- Tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân: Xuất khẩu nông sản tăng đã góp phần
thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đồng thời, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH - HĐH, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ
từ nền kinh tế thuần nông, tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá với tỷ suất hàng hoá ngày
càng cao. Bên cạnh đó, xuất khẩu nông sản còn tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển theo
chiều rộng. Như khi các thị trường nông sản xuất khẩu phát triển thì đó là phương cách giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động và tăng đội ngũ công nhân làng nghề, dẫn đến
tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế. Như vậy, có thể nói sự gia tăng của xuất khẩu nông sản
đã tạo nên mức tăng trưởng GDP cao, góp phần cải thiện được cán cân thanh toán thương mại
đồng thời thu nhập và đời sống của người dân được nâng cao rõ rệt.
- Thúc đẩy các mối liên kết kinh tế: Do nông sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiện nay nên nó đã thúc đẩy sự phát triển công nghiệp chế biến
tạo ra các sản phẩm sơ chế như gạo, cà phê, cao su Sự phát triển của công nghiệp chế biến
tạo cơ hội cho việc gia tăng xuất khẩu nông sản, nó lại có tác động ngược lại với các ngành
cung ứng nguyên liệu, tạo ra “mối liên hệ ngược”, mà tác động của nó đặc biệt có hiệu quả
nhờ vào quy mô sản xuất lớn làm giảm chi phí sản xuất và tăng cạnh tranh trên thị trường

quốc tế. Sự phát triển của các ngành có liên quan còn được thể hiện qua “mối liên hệ gián
tiếp” thông qua nhu cầu hàng tiêu dùng của phần lớn lực lượng lao động có mức thu nhập
ngày càng tăng. Ngoài ra, thực hiện chất lượng xuất khẩu nông sản còn là cơ sở gắn thị trường
trong nước và thị trường quốc tế. Nền kinh tế quốc gia với tư cách một đơn vị kinh tế độc lập,
tự chủ tham gia vào từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy liên kết và mở rộng
giao lưu kinh tế - thương mại giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện
thuận lợi cùng nhau phát triển.
Như vậy, thực tế cho thấy xuất khẩu hàng nông sản đã phần nào đáp ứng được mục
tiêu phát huy lợi thế so sánh của nông nghiệp nước ta trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu nông

sản chẳng những góp phần đáng kể vào việc tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nhân dân, tăng thu nhập cho bà
con, từ đó tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn, giảm bớt nhập siêu,
giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như cầu ngoại tệ
2.2. Việt nam là một nước có tiềm năng lớn về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản.
Việt nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản, nếu như được
đầu tư một cách đồng bộ, lâu dài, khắc phục những yếu kém trong khâu thu mua, chế
biến thì Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất hàng nông sản lớn. Tiềm
năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở một số điểm sau:
 Về đất đai: Việt nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là
10 - 11, 157 triệu ha, với 8 triệu ha cây trồng hàng năm (bao gồm đất trồng lúa khoảng 5,4
triệu ha và 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm). Hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng được khoảng
65% quỹ đất nông nghiệp, trong đó 6,5 triệu ha cho cây trồng hàng năm, 0,86 triệu ha cho cây
lâu năm, 0,33 triệu ha là đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Ngoài ra chúng ta còn có
một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể là vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, khu 4
cũ 35% và đồng bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu chúng ta đầu tư cải tạo diện tích này
sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hạt tiêu

×