Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

giáo trình giảng văn văn học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 136 trang )



Phần II: VĂN HọC TRUNG ĐạI

HịCH TƯớNG Sĩ VĂN
(Trần Quốc Tuấn)

Trớc hết cần phải xác định vị trí của tác phẩm để thấy rõ tầm vóc Hịch tớng sĩ
văn. Tầm vóc bi hịch của Trần Quốc Tuấn đợc đo bằng giá trị lịch sử v giá trị văn
học. Nó đứng ở đỉnh cao của văn chơng yêu nớc, của văn chơng chính luận Việt
Nam. Thiếu nó, khó hình dung đợc gơng mặt văn học thời đại Đông A
(1)
.
Trong hon cảnh đạo quân MôngNguyên đang ngấp nghé ở biên thuỳ chuẩn bị
xâm lợc Đại Việt lần thứ hai (1285), Trần Quốc Tuấn cầm gơm hay cầm bút thì
cũng đều nhằm mục đích l chiến đấu v chiến thắng kẻ thù xâm lợc. Con ngời
từng cầm gơm khẳng khái nói với vua Trần : "Nếu bệ hạ muốn hng, trớc hết hãy
chém đầu tôi đi đã" thì khi cầm bút cũng sẽ cùng một dũng khí ấy. Chính vì vậy t
tởng chủ đạo của bi hịch l nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm
lợc. Tất cả các phần, tất cả nghệ thuật văn chơng của bi hịch đều nhằm đạt tới t
tởng chủ đạo ny. Có thể thấy phơng pháp thuyết phục xuyên suốt bi hịch l
khích lệ nhiều mặt nhng tập trung vo một hớng, vạch rõ cái sai cần phê phán v
chỉ rõ cái đúng cần lm, kết hợp giữa tình cảm v nguyên tắc.
Mở đầu bi hịch, để khích lệ lòng hy sinh dũng cảm, ý chí công danh, tác giả nêu
những tấm gơng trong sử sách. Những tấm gơng ny thuộc nhiều tầng lớp, có ở mọi
thời. Những quan to, thân cận nh vua nh Kỷ Tín, Dự Nhợng, những bề tôi xa,
những ngời thờng nh Cảo Khanh, Kính Đức. Xa thì có gơng đời Hán, đời Đờng,
nay thì có gơng đời Nguyên, đời Tống. Cách nêu gơng ấy cốt để tớng sĩ thấy ai
cũng có thể lập công danh "cùng trời đất muôn đời bất hủ". Trên quan điểm dân tộc,
chúng ta có thể tiếc khi tác giả không lấy những tấm gơng ngay trong lịch sử nớc
nh v ngay từ cuộc kháng chiến chống Nguyên thời đó. Tuy nhiên, lại phải thấy rằng


mục đích của đoạn đầu bi hịch l khích lệ lòng hy sinh dũng cảm, ý chí lập công
danh một lẽ sống lý tởng của con ngời thời bấy giờ, chứ cha nhằm khích lệ tinh
thần dân tộc.
Khích lệ lòng căm thù giặc, tinh thần yêu nớc bất khuất l nội dung của những
đoạn tiếp theo.
Để gây lòng căm thù, lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, sau khi nêu gơng trong sử
sách, ngời viết quay về với thực tế trớc mắt vạch rõ tội ác v sự ngang ngợc của kẻ
thù. Những hình tợng "lỡi cú diều", "thân dê chó" chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm
giận v lòng khinh bỉ giặc của tác giả. Đồng thời đặt những hình tợng đó trong thế
tơng quan "lỡi cú diều" "sỉ mắng triều đình", "thân dê chó" "bắt nạt tể phụ",
Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn khi chủ quyền đất nớc bị xâm phạm. Những

(1) Thời đại Đông A l thời đại nh Trần. Chữ Trần, theo Hán tự gồm chữ Đông
( ) v chữ A ( ).

50
dẫn chứng tác giả đa ra đều có trong thực tế hằng ngy, nhãn tiền, mọi ngời từng
chứng kiến. Sử chép năm 1276, Nguyên Thế Tổ sai ngời sang bảo vua Trần phải
theo sáu khoản nh bắt dân, giúp quân , năm 1277 Si Xuân đi sứ buộc ta phải lên
tận biên giới đón rớc. Năm 1281, Xuân lại sang sứ, cỡi ngựa đi thẳng vo cửa
Dơng Minh, quân sĩ Thiên Trờng ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạc cả đầu. Vua
sai Thợng tớng Thái s Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp, Xuân nằm khểnh,
không dậy Những hnh động ngang ngợc của giặc đã gây nên sự căm phẫn cao độ
trong mọi tầng lớp nhân dân. Chỉ cần nhắc lại một vi sự việc "sứ giặc đi lại nghênh
ngang ngoi đờng. Uốn lỡi cú diều m sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó m bắt
nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt m đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng,
giả hiệu Vân Nam vơng m thu bạc vng, để vét của kho có hạn", Trần Quốc Tuấn
đã khơi dậy cả khối căm hờn đang tro sôi trong lòng các tớng sĩ. Khác với những
ngời viết sử ghi chép sự việc một cách khách quan, khi nêu hnh động bạo ngợc của
kẻ thù, tác giả nh muốn trút tất cả nỗi uất hận của bản thân lên từng lời, từng chữ.

Lòng căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn truyền tới tớng sĩ nh luồng gió thổi bùng
ngọn lửa vốn đã đợc đổ thêm dầu.
Để khích lệ ý thức trách nhiệm v nghĩa vụ của mỗi ngời đối với đạo vua tôi
cũng nh tình cốt nhục, bi hịch đã nêu lên mối ân tình giữa chủ v tớng. Quan hệ
giữa Trần Quốc Tuấn v tớng sĩ, tất nhiên l quan hệ giữa ngời trên đối với kẻ dới
điều ny không có gì lạ trong chế độ phong kiến. Đáng lu ý ở đây l bên cạnh mối
quan hệ thần chủ, tác giả còn nhắc đến mối quan hệ khác sâu sắc hơn. Đó l mối
quan hệ ân nghĩa thuỷ chung của những ngời cùng cảnh ngộ "lúc trận mạc thì cùng
nhau sống chết, lúc nhn hạ thì cùng nhau vui cời". Nêu mối quan hệ giữa những
ngời cùng cảnh "sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan", bi hịch
không chỉ tác động tới nhận thức m còn tác động mạnh mẽ tới tình cảm ngời đọc.
Khích lệ nhiều mặt, tác giả vẫn nhằm vo một hớng chủ yếu : Khích lệ lòng yêu
nớc bất khuất. Không phải ngẫu nhiên m bao tâm huyết, bút lực của Trần Quốc
Tuấn dồn vo đoạn : "Ta thờng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau nh cắt,
nớc mắt đầm đìa ; chỉ căm tức cha xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.
Dẫu cho trăm thân ny phơi ngoi nội cỏ, nghìn xác ny gói trong da ngựa, ta cũng
vui lòng". Chúng ta hãy so sánh đoạn hịch trên với đoạn th của giáo hong La Mã
Gơrêgoa IX gửi các tín đồ Cơ Đốc giáo đoạn th có ý nghĩa nh lời hịch hiệu triệu tổ
chức Thập tự quân chống Mông Nguyên : "Nhiều việc khiến ta lo lắng nh những
việc đáng buồn ở đất thánh, những mối lo âu của giáo hội, tình hình đáng thơng của
đế quốc La Mã. Nhng ta nguyện quên hết lo âu đó m chú tâm đến cái hoạ Tác Ta,
sợ rằng hiện nay uy danh của đạo Cơ Đốc sẽ bị bọn Tác Ta tiêu diệt mất. Nghĩ đến đó
l ta xơng nát tuỷ khô, thân gầy sức kiệt, đau xót vô cùng, khiến ta không biết lm
gì đây"
(1)
. Lời văn trong bức th v lời hịch đều thể hiện lòng căm thù cao độ. Những
hình tợng "tới bữa quên ăn", "nửa đêm vỗ gối", "ruột đau nh cắt", "nớc mắt đầm
đìa" trong bi hịch cũng nh những hình tợng "xơng nát tuỷ khô", "thân gầy sức
kiệt" trong đoạn th đều có giá trị khắc hoạ nỗi đau v lòng căm thù không đội trời
chung cùng giặc Tác Ta. Thế nhng, cùng căm giận tro sôi m một bên thì bất lực :

"đau xót vô cùng khiến ta không biết lm gì đây", còn một bên thì mi sắc thêm ý chí

(1) Dẫn theo H Văn Tấn, Phạm Thị Tâm. Cuộc kháng chiến chống xâm lợc MôngNguyên thế
kỷ XIII, NXB Khoa học xã hội, 1972, tr. 50.

51
v quyết tâm đánh giặc, dù phải chết đến trăm lần, nghìn lần cũng xin lm. Chính vì
vậy lời văn trong bức th thống thiết m bi thơng còn lời văn trong bi hịch thì kiên
cờng v bi tráng. Căm thù phải diệt giặc, yêu nớc phải chiến đấu, đó mới l mục
đích cao cả m tác giả bi hịch hớng tới để động viên khích lệ mọi ngời. Đoạn văn
thể hiện nỗi lòng vị chủ tớng l đoạn tuyệt bút. Đó không chỉ đơn thuần l ti nghệ
tuyệt vời của một ngòi bút viết văn luận chiến, đó còn l sự phản ánh những tiêu
điểm chói ngời nhất của một tấm lòng ái quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, phần đông tớng sĩ đều có tấm lòng v
quyết tâm nh Trần Quốc Tuấn, nhng không phải không có những kẻ hoang mang,
hoảng sợ. Lần thứ nhất đánh MôngNguyên, giặc đang hăng, ta tạm thời rút lui, Trần
Thái Tông hỏi kế quan đại thần Trần Nhật Hạo, Nhật Hạo khiếp sợ đến nỗi không
đứng dậy đợc chỉ kịp lấy ngón tay chấm nớc viết hai chữ "nhập Tống" (đầu hng
nh Tống) ở mạn thuyền. Trong cuộc kháng chiến lần hai, có những kẻ thông minh,
ti giỏi nh Trần ích Tắc đã hèn nhát đem cả nh đầu hng giặc. L ngời lãnh đạo
cuộc kháng chiến, Hng Đạo Vơng đã sớm nhận ra những diễn biến phức tạp của
tình hình. Chính vì vậy, trong bi hịch ông tập trung phê phán sâu sắc, mạnh mẽ t
tởng bng quan trớc thời cuộc, sự ham vui chơi hởng lạc m quên mất nguy cơ bị
diệt vong.
Khi phê phán những biểu hiện sai trong hng ngũ tớng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã
đứng trên lập trờng trung quân ái quốc. Một mặt ông xuất phát từ nghĩa vua tôi,
đạo thần chủ để phê phán : "nay các ngơi nhìn chủ nhục m không biết lo". Mặt khác
ông xuất phát từ trách nhiệm của ngời dân đối với Tổ quốc để vạch rõ những sai lầm
: "thấy nớc nhục m không biết thẹn. Lm tớng triều đình phải hầu quân giặc m
không biết tức ; nghe nhạc thái thờng để đãi yến nguỵ sứ m không biết căm". Trong

hon cảnh lịch sử lúc bấy giờ, lập trờng phê phán của tác giả l đúng đắn v tiến bộ.
Để thuyết phục mọi ngời thấy rõ đúng sai bằng lý lẽ, nhận thức, Trần Hng Đạo
nêu lên mối quan hệ tất yếu giữa nguyên nhân v kết quả. Tác giả sử dụng ti tình
các liên từ. Đầu câu nguyên nhân l các liên từ nêu giả thiết : "nếu", "hoặc", trong câu
chỉ kết quả l các từ khẳng định : "thì", "chẳng những", "m". Sự hô ứng giữa các từ
chỉ quan hệ có tác dụng lm nổi bật nguyên nhân của việc lm sai trái nhất định sẽ
dẫn đến hậu quả tai hại.
Cũng để thuyết phục mọi ngời nhận rõ phải trái, đúng sai, tác giả đã sử dụng
phơng pháp so sánh đối lập. Đối lập ý trong câu : "nhìn chủ nhục m không biết lo,
thấy nớc nhục m không biết thẹn. Lm tớng triều đình phải hầu quân giặc m
không biết tức ; nghe nhạc thái thờng để đãi yến nguỵ sứ m không biết căm".
Những hình tợng cũng đợc đặt trong thế tơng phản : "cựa g trống" / "áo giáp",
"mẹo cờ bạc" / "mu lợc nh binh". "Phải nói rằng cách liên hệ "rợu ngon" với việc
"lm cho giặc say chết", "tiếng hát hay" với việc "lm cho giặc điếc tai", l không
tơng xứng về mặt lô gích. Nhng chính nhờ nh vậy m tính chất phi lý của việc ăn
chơi lúc ny bộc lộ rõ rệt hơn bao giờ hết ! V đó l nghệ thuật biện luận ti tình của
Trần Hng Đạo" (Trần Đình Sử).
Phơng pháp tơng phản đợc sử dụng với phơng pháp so sánh. So sánh giữa ta
v địch, ta thì nghĩa tình sâu nặng, địch thì ngang ngợc, tn bạo. So sánh giữa hai
viễn cảnh, đầu hng thất bại thì mất tất cả, chiến đấu thắng lợi thì đợc cả chung v
riêng. Từ lời văn dịch khá sát có thể thấy khi nêu viễn cảnh đầu hng thất bại, Trần
Quốc Tuấn sử dụng từ ngữ mang tính chất phủ định : "không còn", "cũng mất", "bị tan",

52
"cũng khốn". Còn khi nêu viễn cảnh chiến đấu thắng lợi, tác giả dùng những từ ngữ
mang tính chất khẳng định : "mãi mãi vững bền", "đời đời hởng thụ", "không bị mai
một", "sử sách lu thơm".
Điều đáng lu ý l trong khi sử dụng phơng pháp so sánh tơng phản, ngời viết
rất hiểu quy luật nhận thức. Cách điệp từ, điệp ý tăng tiến, có tác dụng nêu bật vấn
đề từ nhạt đến đậm, từ nông đến sâu. Cứ từng bớc, từng bớc tác giả đa ngời đọc

thấy rõ đúng sai : nhận ra đờng phải trái.
Sau khi phê phán những biểu hiện sai, vạch rõ nguy cơ xâm lợc, Trần Quốc
Tuấn chỉ cho tớng sĩ những việc cần lm, những nhiệm vụ với mục tiêu cụ thể. Trớc
hết, cần phải nêu cao tinh thần cảnh giác. Phải cảnh giác nh nằm trên đống củi có
mồi lửa ở dới. Phải lo xa nh "kiềng canh nóng m thổi rau nguội", không đợc để
nớc đến chân mới nhảy. Tinh thần cảnh giác phải thể hiện bằng hnh động : "huấn
luyện quân sĩ, tập dợt cung tên, khiến cho ngời ngời giỏi nh Bng Mông, nh nh
đều l Hậu Nghệ". Việc luyện tập binh th phải đạt tới mức bêu đợc đầu Hốt Tất
Liệt : lm rữa thịt Vân Nam Vơng. Lời khuyên răn, sự giao nhiệm vụ của ngời chủ
tớng đợc diễn đạt bằng những hình tợng sinh động, thật gợi cảm, dễ hiểu. Những
hình tợng "ngời ngời giỏi nh Bng Mông, nh nh đều l Hậu Nghệ", "bêu đầu
Hốt Tất Liệt nơi cửa khuyết, lm rữa thịt Vân Nam Vơng ở Cảo Nhai" đã truyền đạt
đợc lòng căm thù giặc cao độ v tinh thần ho hứng giết giặc tới tớng sĩ.
Phần cuối bi hịch, một lần nữa Trần Quốc Tuấn vạch rõ ranh giới giữa hai con
đờng chính t cũng có nghĩa l hai con đờng sống chết để thuyết phục mọi ngời.
Ông biểu lộ một thái độ dứt khoát : "Nếu các ngơi chuyên tập sách ny, theo lời dạy
bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ, nhợc bằng khinh bỏ sách ny, trái lời dạy bảo
của ta tức l kẻ nghịch thù". Đạo thần chủ m tác giả nói tới chính l đạo trung quân
ái quốc, l đạo yêu nớc. Tớng sĩ chỉ có một trong hai con đờng : hoặc l địch, hoặc
l ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bng quan thờ ơ trớc thời cuộc. Hng
Đạo Vơng cũng nêu lên một cách dứt khoát lẽ sống chết : hoặc sống, hoặc chết. Nếu
đầu hng, thất bại, họ không chết vì tay giặc thì cũng chết vì hổ thẹn. Chính thái độ
dứt khoát ny đã có tác dụng thanh toán những t tởng do dự, bng quan lôi kéo
những ngời "điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung" quay hẳn sang
phía lực lợng kháng chiến ! Vừa thuyết phục, vừa nguyên tắc, nguyên tắc có tác
dụng thuyết phục, đoạn cuối bi hịch đã động viên tới mức cao nhất ý chí v quyết
tâm chiến đấu của mọi ngời.













53

BìNH NGÔ ĐạI CáO
(Nguyễn Trãi)
Trong lịch sử văn học Việt Nam thờng có hiện tợng một thời điểm lịch sử dẫn
tới một thời điểm văn học. Đó l trờng hợp cuộc chiến đấu trên phòng tuyến sông
Nh Nguyệt thời Lý với bi Nam quốc sơn h, cuộc kháng chiến chống Nguyên lần hai
thời Trần với bi Hịch tớng sĩ văn v cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ton thắng với Bình
Ngô đại cáo.
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo dới hai nguồn cảm hứng : cảm hứng chính trị
v cảm hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đem đến cho lịch sử dân tộc bản Tuyên
ngôn độc lập đầy ý nghĩa. Cảm hứng sáng tác đa tới lịch sử văn học nớc nh một
kiệt tác văn chơng. Ho quyện cả hai nguồn cảm hứng, dân tộc Việt Nam có Bình
Ngô đại cáo áng "thiên cổ hùng văn" (bi văn hùng tráng của muôn đời). Phân tích
Bình Ngô đại cáo xuất phát từ cảm hứng sáng tác của tác giả, chúng ta sẽ nêu bật
đợc những giá trị t tởng v giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.
Bi Bình Ngô đại cáo mở đầu với cảm hứng về chính nghĩa
Nguyễn Trãi nêu nguyên lý chính nghĩa lm chỗ dựa, lm căn cứ xác đáng để
triển khai ton bộ nội dung bi cáo.
Trong nguyên lý chính nghĩa của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy có hai nội dung
chính đợc nêu lên : nguyên lý nhân nghĩa, một nguyên lý có tính chất chung của các

dân tộc, của nhiều thời đại v chân lý về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nớc Đại
Việt đã đợc chứng minh bằng thực tiễn lịch sử.
Trớc hết, tác giả nêu nguyên lý nhân nghĩa, một nguyên lý có tính chất phổ biến,
mặc nhiên trong nhận thức thời bấy giờ :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trớc lo trừ bạo
Nguyên lý nhân nghĩa Nguyễn Trãi nêu ở đây l một tiên đề có tính chất tiên
nghiệm bởi tiên đề ny có nguồn gốc từ phạm trù nhân nghĩa của Nho giáo. Khổng Tử
nói tới chữ "nhân", Mạnh Tử nói tới chữ "nghĩa". "Nhân nghĩa" đợc nhiều ngời giải
thích ; cách nói, cách hiểu đôi khi khác nhau nhng nhìn chung mọi ngời đều thừa
nhận "nhân nghĩa" l "yên dân trừ bạo", tức l tiêu trừ tham tn bạo ngợc, bảo vệ
cuộc sống yên ổn của dân. L một trí thức Nho giáo, "nhân nghĩa" của Nguyễn Trãi
cũng bao hm lẽ đó. Tuy nhiên lại phải nhấn mạnh, khi đa tiên đề tiên nghiệm,
Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực :
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân
Điếu phạt chi s, mạc tiên khử bạo
Trong hai câu mở đầu, Nguyễn Trãi đã xác định mục đích, nội dung của việc lm
nhân nghĩa : chủ yếu để yên dân, trớc nhất l trừ bạo.
Điều đáng nói hơn nữa l trong khi biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực
của t tởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đem đến một nội dung mới, lấy ra từ thực
tiễn dân tộc để đa vo tiền đề có tính chất tiên nghiệm : nhân nghĩa phải gắn liền với

54
chống xâm lợc. Nội dung ny trong quan điểm Khổng Mạnh v Nho gia Trung Quốc
hầu nh không có. Nhân nghĩa l chống xâm lợc, chống xâm lợc l nhân nghĩa, có
nh vậy mới bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch, mới phân định rạch ròi ta
l chính nghĩa, giặc xâm lợc l phi nghĩa : "Nớc my nhân việc nh Hồ trái đạo,
mợn cái tiếng thơng dân đánh kẻ có tội, thật ra l lm việc bạo tn, lấn cớp đất
nớc ta, bóc lột nhân dân ta Nhân nghĩa m nh thế ?" (Th số 8, Gửi Phơng
Chính).

Việc đa một tiên đề tiên nghiệm nh vậy, đối với tâm lý con ngời thời bấy giờ có
tính thuyết phục cao. Bởi lẽ thời trung đại, ở Việt Nam, Trung Quốc v nhiều nớc
phơng Đông, t tởng nhân nghĩa l một chân lý mặc nhiên đợc thừa nhận.
Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lợc l nhân nghĩa, l phù hợp với nguyên lý
chính nghĩa thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam l một chân lý
khách quan phù hợp với nguyên lý đó.
Sau khi nêu nguyên lý nhân nghĩa, tác giả nêu chân lý khách quan về sự tồn tại
độc lập, có chủ quyền của nớc Đại Việt.
Nếu nhân nghĩa l tiền đề có tính chất tiên nghiệm thì chân lý về sự tồn tại độc
lập có chủ quyền của nớc Đại Việt lại có cơ sở chắc chắn từ thực tiễn lịch sử :
Nh nớc Đại Việt ta từ trớc
Vốn xng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Bản dịch đã cố gắng lột tả tính chất hiển nhiên, vốn có, lâu đời của nớc Đại Việt tồn
tại độc lập bằng "từ trớc", "đã lâu", "đã chia", "cũng khác" (Nguyên văn : "Duy ngã ",
"thực vi ", "ký thù ", "diệc dị").
Nguyễn Trãi đã đa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của
dân tộc : cơng vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời, v thêm nữa
lịch sử riêng, chế độ riêng với "ho kiệt không bao giờ thiếu".
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đờng, Tống, Nguyên mỗi bên xng đế một phơng.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song ho kiệt đời no cũng có.
Những thực tế khách quan m tác giả đa ra l chân lý không thể phủ nhận. Khi
nêu chân lý khách quan, đồng thời Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách hon chỉnh
quan niệm của mình về quốc gia, dân tộc. Ngời đời sau vẫn thờng xem đoạn văn
trên l tiêu biểu v kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi. So với
thời Lý, học thuyết đó phát triển cao hơn bởi tính ton diện v sâu sắc của nó. Ton
diện vì ý thức về dân tộc trong Nam quốc sơn h đợc xác định chủ yếu trên hai yếu

tố : Lãnh thổ v chủ quyền, còn đến
Bình Ngô đại cáo, ba yếu tố nữa đợc bổ sung :
văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn
Trãi đã ý thức đợc "văn hiến", truyền thống lịch sử l yếu tố cơ bản nhất, l hạt
nhân để xác định dân tộc. Vả chăng sự sâu sắc của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở chỗ :
điều m kẻ xâm lợc luôn tìm cách phủ định (văn hiến nớc Nam) thì chính lại l
thực tế, tồn tại với sức mạnh của chân lý khách quan. So với chúng ta ngy nay, học
thuyết đó rất gần gũi v vẫn còn giá trị thời sự.

55
Nêu chân lý khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Đại Việt,
để tăng thêm sức thuyết phục, Nguyễn Trãi đã dùng biện pháp so sánh : so sánh ta với
Trung Quốc, đặt ta ngang hng với Trung Quốc, ngang hng về trình độ chính trị, tổ
chức chế độ, quản lý quốc gia (Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hng với Hán, Đờng, Tống,
Nguyên).
Trong bi Nam quốc sơn h, tác giả đã thể hiện một ý thức dân tộc mạnh mẽ v sâu
sắc qua từ "đế" ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy niềm tự ho dân tộc
mạnh mẽ v sâu sắc đó : "các đế nhất phơng". Nhiều bản dịch trớc đây l "lm chủ,
"hùng cứ" thì nay đều đã bỏ m giữ nguyên chữ "đế" để giữ nguyên giá trị tác phẩm.
"Hùng cứ" v "xng đế" l rất khác nhau về cả tính hợp pháp v quyền lực.
Trong Nam quốc sơn h, khẳng định "Nam đế" tác giả nhằm mục đích đối lập với
"Bắc đế", phủ nhận t tởng "Trời không có hai mặt trời, đất không có hai hong đế".
Mục đích đó dù sao cũng cha phải đợc phát biểu bằng cách so sánh trực tiếp nh
Nguyễn Trãi đã lm. Lý do l phải đến thời Nguyễn Trãi, sau khi đã có bốn thế kỷ
ginh độc lập, sau khi đã có những triều đại tồn tại ngang hng (nếu không muốn nói
l hơn vì Đại Việt luôn chiến thắng) với các triều đại phơng Bắc thì Nguyễn Trãi mới
có đủ tiền đề lịch sử để so sánh, chứng minh. Lại nữa, tác giả Nam quốc sơn h khẳng
định độc lập, chủ quyền dân tộc đã dựa vo "thiên th" còn Nguyễn Trãi dựa vo lịch
sử. Đó l bớc tiến của t tởng thời đại nhng đồng thời cũng l tầm cao của t
tởng ức Trai.

Nêu nguyên lý nhân nghĩa, nêu chân lý khách quan, Nguyễn Trãi đa ra những
chứng minh đầy tính thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lý, nói
chung lại l sức mạnh của chính nghĩa : Lu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa
Đô, Ô Mã, kẻ bị giết, ngời bị bắt. Tác giả lấy "chứng cớ còn ghi" để chứng minh cho
sức mạnh của chính nghĩa đồng thời thể hiện niềm tự ho dân tộc.
Cảm hứng về chính nghĩa tất yếu sẽ dẫn tới cảm hứng căm thù kẻ xâm lợc, vì
chúng l phi nghĩa, tn bạo.
Với lòng uất hận tro sôi, chỉ bằng mời hai cặp tứ lục gồm hai mơi bốn câu, tác
giả đã viết lên một bản cáo trạng đanh thép tội ác của giặc Minh. Nguyễn Trãi viết
bản cáo trạng với một lòng căm thù tỉnh táo. Bởi trong bản cáo trạng ny ngời viết
đã đi theo một trình tự rất lô gích : vạch trần âm mu xâm lợc, lên án chủ trơng cai
trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hnh động tội ác.
Nguyễn Trãi vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hồ" của giặc Minh, chỉ
rõ âm mu cớp nớc ta của chúng :
Nhân họ Hồ chính sự phiền h

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Việc nh Hồ cớp ngôi nh Trần chỉ l một nguyên nhân đúng hơn chỉ l một
nguyên cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ "nhân", "thừa cơ" trong bản dịch
đã góp phần lột trần luận điệu giả nhân giả nghĩa của giặc. "Phù Trần diệt Hồ" chỉ l
một cách "mợn gió bẻ măng". Âm mu thôn tính nớc ta vốn có sẵn, có từ lâu trong
đầu óc của "thiên triều".
Âm mu của giặc thật xảo quyệt, chủ trơng cai trị của chúng cng thâm độc hơn,
hnh động của chúng cng vô cùng tn bạo.

56
Điều đáng lu ý l khi vạch rõ âm mu xâm lợc của giặc Minh, Nguyễn Trãi
đứng trên lập trờng dân tộc nhng khi tố cáo chủ trơng cai trị thâm độc v tội ác
của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trờng nhân bản.
ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi không tố cáo chủ trơng đồng hoá của kẻ thù.

Tác giả đi sâu tố cáo những chủ trơng cai trị phản nhân đạo của giặc Minh : huỷ
hoại cuộc sống con ngời bằng hnh động diệt chủng :
Nớng dân đen trên ngọn lửa hung tn
Vùi con đỏ xuống dới hầm tai vạ

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
bằng sự huỷ hoại môi trờng sống :
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi

Tn hại cả giống côn trùng cây cỏ.
Chủ trơng cai trị của chúng đâu chỉ đơn thuần l bóc lột đợc nhiều ("nặng thuế
khoá" ), vét vơ đợc lắm ("vét sản vật chốn chốn lới giăng "). Chủ trơng cai trị
của chúng l tiêu diệt con ngời, tiêu diệt cuộc sống ở chính mảnh đất ny. V quả
thực, đọc Bình Ngô đại cáo chúng ta thấy hiện lên hình ảnh ngời dân vô tội tình
cảnh bi đát đến cùng cực, không còn đờng sống. Cái chết đợi họ trên rừng, cái chết
đợi họ dới biển, đúng nh lời bi cáo : "chốn chốn lới giăng", "nơi nơi cạm đặt". Tội
ác kẻ thù đặc biệt đợc thể hiện trong hai câu :
Nớng dân đen trên ngọn lửa hung tn
Vùi con đỏ xuống dới hầm tai vạ.
Trong bao nhiêu tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta thời bấy giờ m sử còn
ghi chép lại : rút ruột ngời treo lên cây, nấu thịt ngời lấy dầu, phanh thây phụ nữ
có thai, nớng sống ngời lm trò chơi, chất thây ngời lm mồ kỷ niệm, Nguyễn
Trãi đã khái quát lại trong hai hình tợng "nớng dân đen", "vùi con đỏ". Hình tợng
ny vừa diễn tả một cách rất thực tội ác man rợ của giặc Minh vừa mang tính khái
quát có ý nghĩa khắc vo bia căm thù để muôn đời nguyền rủa quân xâm lợc.
Đối lập với tình cảnh ngời dân vô tội l hình ảnh kẻ thù xâm lợc : "Thằng há
miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê cha chán ". Đừng nghĩ rằng tác giả đã
dùng ngọn bút hi hớc v đả kích để vẽ lên bộ mặt kẻ thù. Không ! Chính ở đây
Nguyễn Trãi đã dùng nét bút hiện thực, không thêm bớt, không tô vẽ để lột tả bộ mặt
thật của giặc Minh : chúng l những con quỷ sứ. Chúng không chỉ tham vng bạc

châu báu, tham chim sẻ hơu đen, chúng còn có cái tham của loi quỷ sứ : "máu mỡ
bấy no nê cha chán".
Âm mu của chúng "đủ muôn nghìn kế". Việc lm của chúng : "dối trời lừa dân".
Tội ác của chúng : "bại nhân nghĩa nát cả đất trời". Để diễn tả tội ác chất chồng của
giặc, để diễn tả khối căm hờn chất chứa của nhân dân ta, Nguyễn Trãi kết thúc bản
cáo trạng bằng câu văn đầy hình tợng :
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nớc Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để nói cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô

57
cùng (nớc Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự nhơ bẩn của kẻ thù), câu văn đầy hình
tợng v đanh thép đó đã cho ta cảm nhận sâu sắc tội ác "lẽ no trời đất dung tha, ai
bảo thần dân chịu đợc" của giặc Minh xâm lợc.
Đọc bản cáo trạng tội ác giặc trong Bình Ngô đại cáo, lòng ta khi uất hận tro sôi,
khi cảm thơng tha thiết, lúc muốn thét thật to lúc nghẹn ngo, tấm tức, Quả l
ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã trong cùng một lúc diễn tả đợc những biểu hiện
khác nhau nhng luôn gắn bó với nhau trong tâm trạng, tình cảm con ngời.
Đứng trên lập trờng nhân bản hơn nữa đứng về quyền sống của ngời dân vô tội
để tố cáo, lên án giặc Minh, Bình Ngô đại cáo chứa đựng những yếu tố của bản tuyên
ngôn nhân quyền.
Có thể nói quyền sống của ngời dân đã l nguồn cảm hứng mạnh mẽ để tác giả
viết nên bản cáo trạng đanh thép v thống thiết. Trong mời hai cặp tứ lục, tác giả đã
mời lần trực tiếp v hai lần gián tiếp nói đến đời sống ngời dân.
Phản nhân đạo, phản tiến hoá, tội ác giặc Minh trời không dung, đất không tha,
thần ngời đều căm giận. Chính vì vậy bão tố khởi nghĩa đã nổi lên.
Cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về tinh thần quyết chiến quyết
thắng của nhân dân Đại Việt đợc thể hiện trong đoạn văn di nhất bi cáo.
Với nguồn cảm hứng dồi do, phong phú, Nguyễn Trãi đã khắc hoạ lại quá trình
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngy đầu khó khăn gian khổ đến những ngy

thắng lợi vẻ vang. Tuy nhiên, ngời đọc không chỉ thấy ở đoạn văn một lợng thông
tin về diễn biến của cuộc khởi nghĩa với năm tháng v sự kiện. Bám chắc vo cái sờn
lịch sử, tác giả cho ta thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hiện lên với tất cả tính chất
phong phú, lớn rộng v sinh động của nó.
L ngời có năng lực hồi tởng tuyệt vời, Nguyễn Trãi có khả năng tái hiện lại tất
cả diễn biến giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa. Nhng trong bi cáo, nh ta thấy, tác
giả chủ yếu tập trung khắc hoạ hình tợng Lê Lợi, m chủ yếu l lm nổi bật đời sống
tâm lý của ngời anh hùng. Đây quả l vấn đề có ý đồ nghệ thuật.
Lúc Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, Lê Lợi đã trở thnh hong đế với vơng
miện rực rỡ ho quang chiến thắng, cần phải tái hiện lại hình tợng Lê Lợi buổi đầu
khởi nghĩa, vẫn l để ngợi ca không quá thnh xu phụ. Trong hình tợng Lê Lợi có sự
thống nhất giữa con ngời bình thờng v lãnh tụ cuộc khởi nghĩa. Hình tợng Lê Lợi
hiện lên qua những lời tự thuật :
D phấn tích Lam Sơn, thê thân hoang dã.
(Chốn Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nơng mình)
Lê Lợi con ngời bình thờng từ nguồn gốc xuất thân (chốn hoang dã nơng
mình), đến cách xng hô khiêm nhờng (đại từ "d" với nghĩa l tôi, ta cha phải l
trẫm nh sau ny). Nhng Lê Lợi l ngời có lòng căm thù giặc sâu sắc ("há đội trời
chung", "thề không cùng sống"), có lý tởng hoi bão lớn ("Tấm lòng cứu nớc vẫn
đăm đăm muốn tiến về đông"), có quyết tâm cao thực hiện lý tởng ("Đau lòng nhức
óc", "Quên ăn vì giận", "Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ
hồi"). Qua sự tái hiện hình tợng Lê Lợi con ngời bình thờng v ngời anh hùng,
tác giả đã phần no nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Nỗi lòng Lê Lợi rất giống nỗi lòng Trần Quốc Tuấn ngời anh hùng kháng Nguyên
thuở trớc : cùng căm giận tro sôi (Trần Quốc Tuấn : "Ruột đau nh cắt, nớc mắt đầm

58
đìa" ; Lê Lợi : "đau lòng nhức óc"), cùng nuôi chí lớn (Trần Quốc Tuấn : "tới bữa quên ăn,
nửa đêm vỗ gối" ; Lê Lợi : "nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận"), cùng một quyết tâm sắt
đá (Trần Quốc Tuấn : "Dẫu cho trăm thân ny phơi ngoi nội cỏ " ; Lê Lợi : "Những trằn

trọc trong cơn mộng mị Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi ").
Khi khắc hoạ hình tợng Lê Lợi, tác giả có sử dụng điển tích "nếm mật nằm gai"
nói về Việt Vơng Câu Tiễn. Nhng ngời anh hùng đất Lam Sơn hon ton khác
ngời phục thù núi Cối Kê. Lê Lợi l anh hùng kiểu Trần Quốc Tuấn. Chính cảm
hứng về truyền thống dân tộc đã giúp Nguyễn Trãi khắc hoạ thnh công hình tợng
ngời anh hùng Lê Lợi.
Với hoi bão v bầu nhiệt huyết yêu nớc, mặc dù "vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
chính lúc quân thù đang mạnh". Lê Lợi cùng nghĩa quân phải vợt qua muôn ngn
khó khăn gian khổ : thiếu nhân ti, thiếu quân, thiếu lơng, nhng nhờ "tấm lòng
cứu nớc", nhờ "gắng chí khắc phục gian nan" v nhất l nhờ "manh lệ chi đồ tứ tập",
nhờ "phụ tử chi binh nhất tâm", cuộc khởi nghĩa đã vợt qua khó khăn buổi đầu để đi
đến tổng phản công ginh thắng lợi.
Về lịch sử, từ năm 1418 đến 1424 l sáu năm gian khổ của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn. Bình Ngô đại cáo chỉ nhắc đến hai sự kiện :
Khi Linh Sơn lơng hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội
Đó l hai sự kiện có tính chất tiêu biểu cho những khó khăn gian khổ của cuộc
khởi nghĩa đồng thời tiêu biểu cho tinh thần lạc quan của ngời Việt Nam : lạc quan
ngay trong hon cảnh đen tối, tin tởng ngay cả khi tạm thời thất bại. Lạc quan, tin
tởng vì biết dựa vo dân, vì biết phát huy sức mạnh của dân, đặc biệt l tầng lớp
manh lệ :
Yến can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập
Đầu giao hởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm
Trong bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử ny, chúng ta lại tìm thấy lời tuyên ngôn về
vai trò v sức mạnh của ngời dân những ngời manh lệ. Đó l một t tởng lớn. Mãi
sau ny phải đến Nguyễn Đình Chiểu mới lại thấy xuất hiện những ngời dân ấp, dân
lân ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong một bản tuyên ngôn trọng đại nh Bình Ngô
đại cáo, những ngời manh lệ đợc nói đến một cách công khai, trịnh trọng nh vậy
"cũng l cha thấy xa nay".
Cảm hứng về lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn l cảm hứng mang đậm sắc thái trữ

tình. Sắc thái trữ tình rất phù hợp với bút pháp khắc hoạ hình tợng tâm trạng. Sắc
thái trữ tình đã tạo nên trong đoạn văn có nội dung hồi tởng những âm hởng vừa ho
hùng, vừa bi thiết.
Từ giai đoạn đầu khó khăn sang giai đoạn hai phản công thắng lợi l hai câu thơ
có ý nghĩa nh chiếc bản lề chuyển tiếp :
Trọn hay :
Đem đại nghĩa để thắng hung tn
Lấy chí nhân để thay cờng bạo
Một lần nữa Nguyễn Trãi nhắc lại nguyên lý nhân nghĩa đã nêu ở câu mở đầu bi
cáo. Điều cần nói l bản dịch cha lột tả thật đầy đủ nguyên tác. Nguyên văn : "Dĩ đại
nghĩa nhi thắng hung tn, dĩ chí nhân nhi dịch cờng bạo". Bản dịch l : "thay cờng
bạo" ngời ta dễ hiểu l đem chí nhân để thay thế cờng bạo. Chữ "dịch" không nên

59
hiểu l "thay thế cho" m có nghĩa l lm "thay đổi đi". Vì vậy bảy chữ đó nên hiểu l :
lấy sự chí nhân (của ta) m lm thay đổi đi sự cờng bạo (của địch), tức lm cho kẻ địch
không còn cờng bạo nữa. Hiểu nh thế, chúng ta cng thấy sâu sắc hơn chủ nghĩa
nhân đạo vì sự phát triển con ngời của nhân dân Đại Việt, của tác giả Bình Ngô đại
cáo.
Có thể nói sau bao suy t chiêm nghiệm, sau bao đớn đau, căm giận, sau bao lo
lắng quyết tâm, đến lúc ny tâm trạng tác giả mới thực sự hả hê, sảng khoái. Cảm
hứng anh hùng ca rần rật bốc cao trong đoạn văn miêu tả chiến thắng thần tốc của
nhân dân Đại Việt. Từ hình tợng đến ngôn ngữ, từ mu sắc đến âm thanh nhịp điệu,
tất cả đều mang đặc điểm bút pháp anh hùng ca. Bao trùm đoạn văn l những hình
tợng phong phú, đa dạng, đo bằng sự lớn rộng, kỳ vĩ của thiên nhiên : chiến thắng của
ta : "sấm vang chớp giật", "trúc chẻ tro bay", "sạch không kình ngạc", "đá núi cũng
mòn", "nớc sông phải cạn". Thất bại của địch : "máu chảy thnh sông", "máu trôi đỏ
nớc", "thây chất đầy nội", "thây chất đầy đờng". Khung cảnh chiến trờng : "sắc
phong vân phải đổi", "ánh nhật nguyệt phải mờ". Về mặt ngôn ngữ, trong nguyên văn
cũng nh bản dịch, các động từ mạnh liên kết với nhau thnh những chuyển rung dồn

dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thnh hai mảng trắng, đen đối
lập, thể hiện cái thế, cái đ chiến thắng của ta v cái thế, cái đ thất bại của địch. Câu
văn khi di, khi ngắn, biến hoá linh hoạt trên cái nền chung l nhạc điệu dồn dập, sảng
khoái, bay bổng. Âm thanh giòn giã, ho hùng, nh sóng tro, bão cuốn. Ta hãy đọc một
đoạn văn, không cần đọc hết cả câu, chỉ đọc những đoạn mở đầu với liên tiếp những
cụm từ chỉ thời gian :
Ngy mời tám
Ngy hai mơi
Ngy hai lăm
Ngy hai tám
Đó thật sự l nhịp của triều dâng, sóng dậy, hết lớp ny đến lớp khác. Nhịp
mạnh, dồn dập l xơng sống của đoạn văn :
Gơm mi đá/đá núi cũng mòn,
Voi uống nớc/nớc sông phải cạn.
Đánh một trận/sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận/tan tác chim muông.
Đó thật sự l nhịp của gió lay, bão giật. Sự ho quyện giữa hình tợng, âm thanh,
nhạc điệu của những đoạn văn nh trên đã tạo nên một bút pháp anh hùng ca có tác
dụng miêu tả một cách chân thật quá trình tổng phản công thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn.
Xen giữa bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn l hình ảnh kẻ thù xâm
lợc :
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi m mất vía,
Lý An, Phơng Chính nín thở cầu thoát thân.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thợng th Hong Phúc trói tay để tự xin hng.
Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh nhng đều giống nhau ở một điểm : ham sống
sợ chết đến hèn nhát. Hèn nhát đến mức :


60
Mã Kỳ, Phơng Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể m vẫn hồn bay
phách lạc.
Vơng Thông, Mã Anh, phát cho vi nghìn cỗ ngựa, về đến nớc m vẫn tim đập
chân run.
Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh, có bao nhiêu thái độ, tâm trạng thì Nguyễn
Trãi có bấy nhiêu từ ngữ để biểu hiện. Quả tình ở đây, cây bút của Nguyễn Trãi cũng
vẫn l cây bút thần.
Hình tợng kẻ thù thảm hại, nhục nhã cng tôn thêm khí thế ho hùng của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời qua hình tợng kẻ thù hèn nhát v đợc tha tội chết,
đợc tạo điều kiện để sống (đúng l "dĩ chí nhân dịch cờng bạo"), Nguyễn Trãi cng
lm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Kết thúc bi cáo l cảm hứng độc lập dân tộc v tơng lai đất nớc.
Trong lời kết thúc bi Bình Ngô đại cáo, quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi thay Lê Lợi
trịnh trọng v vui mừng truyền đi tuyên bố nền độc lập, tự do của dân tộc đã đợc lập
lại :
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Cn khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối m lại minh.
Muôn thuở, nền thái bình vững chắc,
Ngn thu, vết nhục nhã sạch lu.
Trong sáu câu, có hai câu nói tới sự vững bền ("Xã tắc từ đây vững bền" "Muôn
thuở nền thái bình vững chắc") v bốn câu nói tới sự thay đổi. Sự thay đổi l nguyên
nhân, l điều kiện để thiết lập sự vững bền. Sự thay đổi nhng thực chất l sự phục
hng (bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh), thực chất l phát triển. V, sự vững bền xây
dựng trên cơ sở đã phục hng dân tộc, cho nên viễn cảnh của đất nớc hiện ra thật
tơi sáng, huy hong :
Bốn phơng biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Có hiện thực hôm nay v tơng lai ngy mai l bởi có chiến công trong quá khứ :

"Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt nghìn năm". Hai câu kết của bản
tuyên ngôn nhắc mọi ngời tự ho về quá khứ cng biết yêu hơn hiện tại v vui mừng
hớng tới tơng lai. Hai câu kết vừa khép lại một thời kỳ chiến đấu oanh liệt vừa mở ra
một kỷ nguyên mới huy hong : xây dựng đất nớc đẹp tơi v bền vững.
Trong lời tuyên bố kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc v tơng lai đất nớc đã
ho quyện với cảm hứng về vũ trụ khi "bĩ", khi "hối" nhng quy luật l hớng tới sự
sáng tơi, phát triển, cng khắc hoạ sâu đậm niềm tin v quyết tâm của nhân dân
Đại Việt xây dựng "Đi xuân dân tộc" khi vận hội duy tân đã mở.
So với nhiều tác phẩm khác có mối liên hệ với thời điểm lịch sử, Bình Ngô đại cáo
l một trờng hợp đặc biệt. Với những thời điểm lịch sử trong quá khứ, các thế hệ sau
có thể tạo ra những mốc son ngang tầm hoặc cao hơn thế hệ trớc. Nhng với Bình
Ngô đại cáo, cho đến nay đó vẫn l áng "thiên cổ hùng văn" không tiền khoáng hậu.
Điều gì đã lm nên hiện tợng độc đáo phi thờng đó ? Phải chăng vì Bình Ngô đại cáo
có sự kết hợp hi ho giữa cảm hứng chính trị v cảm hứng nghệ thuật đến mức kỳ
diệu m cha một tác phẩm văn học chính luận no đạt tới ?

61

THUậT HứNG XXIV
(Nguyễn Trãi)
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi l tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn. Với tập thơ
ny, Nguyễn Trãi l một trong những ngời đặt nền móng v mở đờng cho sự phát
triển của thơ tiếng Việt, l tác giả viết thơ Nôm Đờng luật vo loại nhiều nhất v
hay nhất.
Tập thơ gồm 254 bi đợc xếp thnh bốn mục lớn : Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc
môn, Cầm thú môn. Trong mỗi mục lại chia thnh những tiểu mục. Phần Vô đề l phần
nhiều bi nhất, l phần trọng tâm của tập thơ. Phần ny gồm nhiều tiểu mục nh :
Ngôn chí (21 bi), Mạn thuật (14 bi), Trần tình (9 bi), Thuật hứng (25 bi), Tự thán
(41 bi) Tự thuật (11 bi), Tức sự (4 bi) Bảo kính cảnh giới (61 bi),
Bi Thuật hứng 24 nằm trong chùm thơ 25 bi của mục Thuật hứng (phần Vô đề).

Bi thơ mang nhan đề Thuật hứng nhng không đơn thuần l by tỏ sự hứng thú
của nh thơ. Thuật hứng 24 nh một bức tranh tự hoạ cuộc sống v con ngời ức Trai
con ngời với vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, tấm lòng trung hiếu, con ngời với
cốt cách thanh cao "mi chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen".
Sau những tháng ngy mang túi thơ đi kháng chiến, không chịu "uốn gối theo
thời", Nguyễn Trãi đã về ẩn tại quê nh. Cuộc sống của ông đạm bạc m thanh cao.
Cuộc sống dân dã v có phần quê kiểng : Ao cạn thì vớt bèo đi, dọn bèo đi để cấy
muống, thấy vũng nớc trong ở ngoi đồng thì phát cỏ, dọn cỏ để ơng sen. Công việc
của Nguyễn Trãi giống nh công việc đồng áng của nh nông, lại mang cái hứng thú
thanh cao của một tao nhân mặc khách : trồng sen để thởng thức vẻ đẹp v hơng
thơm thanh quý của loi hoa "Gần bùn m chẳng hôi tanh mùi bùn". Quả l Nguyễn
Trãi không nhn. Thân không nhn m tâm không nhn. Lúc no nh thơ cũng bận
bịu với công việc.
ức Trai yêu thiên nhiên, sống chan ho với thiên nhiên, tạo vật. Tâm hồn thi
nhân rộng không chỉ ho hợp m còn ôm trùm cả thiên nhiên. Nguyễn Trãi từng
mang "Túi thơ chứa hết mọi giang san" (Tự thán 2) đi kháng chiến. Nguyễn Trãi từng
giữ chức Thợng th Bộ lại nhng nếu có một bộ no chuyên trách về việc "quản lý
giang san" thì ông vẫn "Xin lm mấy (với bộ quản giang san)" (Tự thán 25). Chính vì
vậy nh kho để chứa trăng v gió, thuyền l để chở sơng khói v nắng trời. Có thể
nói ở Nguyễn Trãi "lòng yêu thiên nhiên tạo vật l một kích thớc để đo một tâm hồn"
(Xuân Diệu).
Bốn câu thơ giữa (hai câu thực v hai câu luận) của bi Thuật hứng 24 thuộc số
những câu thơ Nôm hay nhất, đẹp nhất viết về thiên nhiên. Hay ở sự kết hợp giữa
bình dị, mộc mạc với tao nhã, mỹ lệ. Đẹp ở sự kết hợp giữa cảnh v tình.
Hai câu thực nh một bức tranh phác thảo ký hoạ tự nhiên, mộc mạc về cảnh lm
lụng sinh hoạt dân dã :
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ơng sen

62

Trong 12 chữ, có một từ cổ (đìa), một từ Hán Việt (thanh) còn lại l mời từ Việt.
Miêu tả cuộc sống đồng nội, cảnh vật, thôn quê, nh thơ đã sử dụng tiếng mẹ đẻ. Cái
tiếng Việt thấm hồn quê hơng, thấm hồn dân dã ấy lm cho câu thơ đậm đ phong vị
dân tộc. Những hình ảnh chân thực của đời sống, chân thực đến mức nôm na, thô
tháp nh cái bèo, cây muống, đám cỏ đã dám đng hong đi thẳng vo thơ ca trung
đại ở đầu thế kỷ XV. Ta đã quá quen với những cây hoa ớc lệ nh trúc, cúc, mai, lan,
huệ, giờ đây rẽ vo vờn thơ Nguyễn Trãi, bất ngờ gặp những cây hoa đồng nội, sau
phút giây ngỡ ngng l sự thú vị sâu xa. Điều đáng nói hơn nữa l câu thơ mộc mạc
m không rơi vo thô tục. Bên cạnh những hình ảnh nôm na, thô tháp l những hình
ảnh thanh thoát, tao nhã : nớc trong xanh (đìa thanh), sen mới ơng m đã nh lan
toả mùi hơng thanh quý. Chính những hình ảnh ny đã lm cân bằng câu thơ, cân
bằng cảm giác.
Nếu hai câu thực l bức phác thảo ký hoạ mộc mạc, đơn sơ thì hai câu luận lại l
bức tranh lụa mợt m, phảng phất phong vị Đờng thi :
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên h nặng vạy then.
Một "lão nông" ở hai câu thực đã thnh một tao nhân trong hai câu luận. Kho
không chứa hng m chứa gió, trăng. Gió nhiều, trăng nhiều, trn đầy qua cả nóc.
Thuyền không chở đồ vật m chở sơng khói, chở ráng nắng. Sơng khói nhiều, nắng
ráng nhiều đến mức lm oằn cả then thang thuyền. Hình ảnh thơ có sự kết hợp giữa
thực v ảo. Kho kia, thuyền kia l thực m cũng l hồn thơ, thuyền thơ ức Trai. Hình
ảnh ớc lệ "phong nguyệt", "yên h" nhng không rơi vo khuôn sáo bởi có sự cân
bằng trở lại của những hình ảnh thực, cụ thể "đầy qua nóc", "nặng vạy then".
Trong từng cặp câu thơ, giữa hai cặp câu thơ đều có sự hi ho giữa mộc mạc, tự
nhiên v thanh thoát, tao nhã, tất cả đều đậm đ phong vị dân tộc. Các ti năng lớn
xa nay bao giờ cũng tạo ra đợc sự hi ho giữa những đối cực, sự hi ho giữa
truyền thống v đổi mới.
Nguyễn Trãi mong về với thú điền viên nhng không phải l ngời ẩn dật, yếm
thế xa lánh cuộc đời. Ông chỉ tìm "về nhn" sau khi đã lm đợc, đã lm tròn bổn
phận với dân với nớc : "công danh đã đợc hợp về nhn". ức Trai "về nhn" l về với

thanh nhn, với cuộc sống thanh bạch để di dỡng tinh thần chứ không phải về với sự
rỗi nhn, sống vô trách nhiệm. Cốt cách Nguyễn Trãi thật cứng cỏi, không ngả
nghiêng theo thói đời. Tâm hồn ức Trai l vng trong, ngọc sáng, l "ngọc cng mi
cng sáng, vng cng luyện cng trong". Tâm hồn cao khiết ấy vợt lên trên "miệng
thế nhọn hơn chông mác nhọn", không bận tâm tới những lời đm tiếu khen chê :

Lnh dữ âu chi thế nghị khen

Chê khen mựa (chớ) ngại tiếng chê khen
(Bảo kính cảnh giới 13)

Ai hay ai chẳng hay thì chớ
Bui một ta khen ta hữu tình
(Tự thán 13)
Điều Nguyễn Trãi bận tâm nhất l trách nhiệm đối với gia đình, đất nớc. Nh
thơ vui với thiên nhiên, bận bịu với cuộc sống nhng không phút giây no quên trung
hiếu :

63
Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mi chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen.
Điểm sáng nhất trong tâm hồn Nguyễn Trãi chính l lòng yêu nớc thơng dân.
"ức Trai tâm thợng quang Khuê tảo" (Lê Thánh Tông), cái ánh sáng của ngôi sao
Khuê ấy không gì có thể mi mòn, không có gì có thể nhuộm đen.
Một thnh công nghệ thuật nổi bật của thơ Nôm Nguyễn Trãi
thể hiện ở bi Thuật hứng 24 l việc sử dụng câu thơ sáu chữ trong một bi thơ
Đờng luật. Một bi thơ có tám câu thì đã có tới ba câu sáu chữ. Những câu thơ sáu
chữ ny có thể thnh từng cặp nh hai câu thực (câu 3 v 4), cũng có thể đứng riêng
nh câu cuối. Câu thơ sáu chữ l những câu có giá trị biểu đạt v giá trị thẩm mỹ.
Câu sáu chữ với số lợng từ ít hơn câu bảy chữ thờng dồn nén cảm xúc, suy t,

thờng mang tính khẳng định v thờng tạo đợc sự chú ý của ngời đọc. Hơn nữa
câu thơ sáu chữ phá vỡ kết cấu chặt chẽ nhng đều đặn của thơ Đờng luật đã tạo
nên hứng thú thẩm mỹ ở độc giả. Việc đa câu thơ sáu chữ vo thơ Đờng luật thể
hiện một xu hớng muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vo khuôn sáo, công thức.




























64

BạCH ĐằNG HảI KHẩU
(Cửa biển Bạch Đằng Nguyễn Trãi)
Đề ti thiên nhiên đất nớc l một đề ti lớn của ức Trai thi tập. ở tập thơ chữ
Hán ny có nhiều bi viết về những địa danh của Việt Nam, Bạch Đằng hải khẩu
thuộc trong số những bi thơ đó.
Bạch Đằng hải khẩu vừa l sự nối tiếp đề ti sông Bạch Đằng trong lịch sử văn
học dân tộc, vừa l sự khẳng định một cột mốc thơ ca lớn trên dòng thơ Bạch Đằng.
Bi thơ có sự kết hợp hi ho ba nguồn cảm hứng : cảm hứng thiên nhiên, cảm
hứng yêu nớc, cảm hứng hoi cổ.
Cảm hứng trớc vẻ đẹp của thiên nhiên đã cộng hởng với cảm hứng về đất nớc
tạo nên những rung động mãnh liệt v tinh tế, giúp tác giả dựng lên một bức tranh
honh tráng về cảnh sông Bạch Đằng.
Bốn câu thơ đầu mở ra trớc mắt ngời đọc một khung cảnh nớc non hùng vĩ.
Cửa biển Bạch Đằng l nơi sông rộng đổ ra biển lớn, nơi nớc non tiếp giáp với mây
trời. Không gian đầy sóng v gió. Những ln gió bấc thổi mạnh lm dậy lên những
luồng sóng lạnh. Trong phút giây cảm hứng trớc thiên nhiên honh tráng, nh thơ
phóng tả thi bút, v liên tởng đến thật bất ngờ. Những ngọn núi nối tiếp nhau, từng
khúc, từng khúc nh cá sấu bị chặt, cá voi bị mổ, lau lách bên bờ từng lớp, từng lớp
nh giáo gãy, đòng chìm. Câu thơ tả cảnh thiên nhiên m lm sống dậy khung cảnh
chiến trờng. Những nét vẽ thật gân guốc, những mảng hình khối thật bạo khoẻ. Bên
cạnh đó lại l một nét vẽ nhẹ nhng lm thanh thoát cả bức tranh : "Nhẹ cất buồm
thơ lớt Bạch Đằng".
Cảnh hiện thực m huyền ảo, câu thơ l ngoại cảnh m gợi lên tâm cảnh. Cánh
buồm thật căng phồng sức gió. Cánh buồm thơ đong đầy thi hứng. Con thuyền thơ ức
Trai phăm phăm lớt giữa biển trời. Tâm hồn thi nhân thật tự do, sảng khoái. "Có
một cảnh tợng lớn hơn biển l trời, có một cảnh tợng lớn hơn trời ấy l thế giới bên
trong của tâm hồn con ngời" (Huy gô). Nhận xét ny quả đúng với trờng hợp ức

Trai khi phóng tả thi hứng viết Bạch Đằng hải khẩu. Cảnh hùng vĩ đợc cảm nhận từ
một tâm hồn ho sảng khoáng đạt, vì thế qua cảnh m thấy đợc tầm vóc, khí phách
lớn lao của hồn thơ Nguyễn Trãi.
Từ cảm hứng về sông Bạch Đằng, tác giả cảm hứng về đất nớc, thể hiện niềm tự
ho trớc truyền thống lịch sử dân tộc.
Trong hai câu luận (câu 5 v 6) nh thơ bình luận về mối quan hệ giữa "địa linh"
(đất thiêng) v "nhân kiệt" (ngời ti). Lời bình luận của Nguyễn Trãi vừa l sự tiếp
nối ngời xa, vừa nâng thêm một tầm cao triết lý. Viết về sông Bạch Đằng hầu hết
các tác giả đều bình luận về chiến công lịch sử v rút ra bi học :
Sự nghiệp Trùng hng ai dễ biết
Nửa do sông núi nửa do ngời

(Nguyễn Sởng Bạch Đằng giang)
Giặc tan muôn thuở thăng bình

65
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao

(Trơng Hán Siêu Bạch Đằng giang phú)
Với Nguyễn Sởng một nửa sự nghiệp do con ngời quyết định. Với Trơng Hán
Siêu "địa linh" l bởi "nhân kiệt". Đến Nguyễn Trãi, nhờ có con ngời m thiên nhiên
phát huy sức mạnh, nhờ có ho kiệt m sông núi rạng rỡ chiến công. Nh vậy "địa
linh" l bởi "nhân kiệt", con ngời bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Bạch Đằng hải khẩu vừa thể hiện nội dung yêu nớc vừa chứa đựng t tởng
nhân văn cao đẹp. Nội dung yêu nớc thể hiện qua tình yêu thiên nhiên Tổ quốc,
niềm tự ho trớc chiến công lịch sử v truyền thống dân tộc, t tởng nhân văn thể
hiện ở sự đề cao vai trò, vị trí con ngời.
T tởng nhân văn còn thể hiện qua cảm hứng hoi cổ, thể hiện ở hai câu thơ kết
trong Bạch Đằng hải khẩu. Trong dòng chảy vô cùng của thời gian, tất cả đều trở
thnh dĩ vãng. Thời gian vô cùng, không gian vô tận trong khi đó con ngời, dù l ho

kiệt cũng chỉ l một thực thể hữu hạn. Nỗi niềm bâng khuâng của Nguyễn Trãi xuất
phát từ một khát vọng lớn : khát vọng vơn tới sự vĩnh hằng của con ngời.
Về mặt nghệ thuật, Bạch Đằng hải khẩu có sự kết hợp giữa yếu tố tợng trng
ớc lệ v yếu tố hiện thực. Hình tợng "kình", "ngạc" l hiện tợng phổ biến trong thơ
cổ để nói về sức mạnh v sự hung dữ của giặc, của chiến tranh, đợc nh thơ sử dụng
để gợi khung cảnh thiên nhiên, cảnh chiến trờng, lm cho cảnh vừa thực vừa h ảo.
Tác giả dùng điển "quan h bách nhị" lm cho ý thơ thêm hm súc.
Bi thơ có sự kết hợp giữa trữ tình v chính luận. Hai câu thơ luận vừa thể hiện
cảm xúc trớc con ngời v non sông đất Việt, vừa l lời bình luận về lịch sử. Bạch
Đằng hải khẩu vừa l dòng cảm xúc tro dâng nh những đợt sóng tình cảm hết lớp
ny đến lớp khác, vừa lắng đọng suy t trong những nhận thức về lịch sử, về đất
nớc, ở nỗi đau thấm thía trớc sự hữu hạn của con ngời để từ đó không thôi khát
vọng vơn tới sự vĩnh hằng của con ngời.



















66

CHUYệN NGƯờI CON GáI NAM Xơng
(Trích Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ)
Truyền kỳ mạn lục l tác phẩm lớn của Nguyễn Dữ cũng nh của văn học trung
đại Việt Nam, đợc viết vo thế kỷ XVI.
Tác phẩm gồm hai mơi truyện viết theo lối văn xuôi chữ Hán có xen lẫn một số
thơ, từ, văn biền ngẫu. Truyền kỳ mạn lục khai thác nhiều truyện dân gian, truyện
tích lịch sử v dã sử của Việt Nam. Tác giả đã mợn yếu tố kỳ ảo để phản ánh hiện
thực, mợn chuyện xa để nói chuyện xã hội đơng thời.
Ngời con gái Nam Xơng l truyện tiêu biểu trong số 11 truyện viết về đề ti
ngời phụ nữ của Truyền kỳ mạn lục. Trên cơ sở một câu chuyện cổ tích, Nguyễn Dữ
đã có những h cấu, sáng tạo, thêm các tình tiết truyền kỳ để Chuyện ngời con gái
Nam Xơng trở thnh một áng văn đặc sắc.
Chuyện ngời con gái Nam Xơng phản ánh bi kịch của ngời phụ nữ trong xã
hội cũ đồng thời phê phán sự nghi kỵ, ghen tuông mù quáng đã dẫn đến những đau
khổ cho con ngời.
Câu chuyện lm ngời đọc cảm động sâu sắc, bởi lẽ một ngời phụ nữ có nhan
sắc, có đức hạnh m số phận lại oan khuất. Vũ Thị Thiết l một ngời đáng trân
trọng m cũng thật đáng thơng. Vũ Nơng "tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có t
dung tốt đẹp". Trơng Sinh cới nng lm vợ do "mến vì dung hạnh", có nghĩa l vừa
mến nhan sắc vừa yêu đức hạnh. Đức hạnh của Vũ Nơng nổi bật ở sự đảm đang,
thảo hiền, sự hy sinh thầm lặng, sự thuỷ chung tiết hạnh. Nng l ngời con dâu
hiếu thảo, ngời mẹ đảm đang giu đức hy sinh. Khi chồng đi lính, Vũ Nơng lo toan
mọi công việc, một thân vừa nuôi con thơ dại, vừa chăm sóc thuốc thang mẹ chồng gi
yếu. Khi mẹ chồng qua đời, nng đứng ra lo chu ton việc ma chay. Nng chẳng mong
chồng đeo đợc ấn phong hầu, chỉ mong chồng ngy về "mang theo đợc hai chữ bình
yên". Niềm mong mỏi lớn nhất của Vũ Nơng l "cái thú vui nghi gia nghi thất",
nghĩa l có đợc niềm hạnh phúc gia đình êm ấm.

Nng âm thầm chịu đựng nỗi cô đơn. Nhng thơng con xa vắng cha, nng đã chỉ
vo bóng mình v bảo rằng đó l cha nó. Nhng có ngờ đâu lòng thuỷ chung v sự hy
sinh thầm lặng lại phải trả giá bằng cái chết bi thảm. V ngời đẩy nng vo nỗi đau
oan khuất lại chính l ngời chồng m nng hết lòng thuỷ chung, chờ đợi. Hỏi sao
không xót xa, đau đớn ? Lời đứa con thơ dại nếu có gây nên tội thì đó l sự vô tình. Còn
hnh động nghi kỵ, ghen tuông phũ phng của ngời chồng "chỉ lấy chuyện bóng gió
ny nọ m đuổi nng đi" thì không chỉ đáng trách m còn đáng lên án. Nh một phản
ứng dây chuyền, tính ghen tuông dẫn đến sự đa nghi, sự đa nghi dẫn đến định kiến
trong nhận thức, biến không thnh có, để đến nỗi lòng chung thuỷ, tiết hạnh phải
ngậm oan m chết. Cái chết oan uổng bi thảm của Vũ Nơng không chỉ lm Trơng
Sinh ân hận, tỉnh ngộ m còn để lại nỗi tiếc thơng, đau xót cho ngời đời, trở thnh
bi học chung cho nhân thế.
Cách kể chuyện của tác giả đã góp phần lm cho câu chuyện thêm cảm động, hấp
dẫn. Lời đứa trẻ thơ hồn nhiên lại gây lên ở ngời hay cả ghen nh Trơng Sinh bao

67
mối nghi ngờ : cha tôi trớc kia chỉ nín thin thít "đêm no cũng đến, mẹ Đản đi cũng
đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhng chẳng bao giờ bế Đản cả". Đứa trẻ thơ đâu hiểu lời
mẹ nói cái bóng l ngời cha chỉ l chuyện bịa, l sản phẩm của tình mẫu tử, của lòng
thuỷ chung. Vì vậy việc tác giả giấu đi chi tiết ny l hợp lý. Niềm tiếc thơng, ân
hận đợc đẩy lên cao hơn khi chính sự đa nghi, ghen tuông mù quáng của Trơng
Sinh đã biến điều đơn giản thnh phức tạp. Sự việc sẽ đơn giản biết bao nhiêu nếu
chng không giấu lời con nói. Chỉ cần một sự "tháo ngòi" ny l có thể bảo ton đợc
hạnh phúc, tránh cho gia đình sự đổ vỡ, loại bỏ đợc những oan khiên giáng xuống
đầu Vũ Nơng. Thế nhng sự việc đã diễn ra theo quy luật tất yếu của nó v cái chết
của Vũ Nơng đã để lại cả nỗi tiếc thơng ân hận lẫn niềm oán trách, lên án.
Chuyện ngời con gái Nam Xơng l một thnh công nghệ thuật đặc sắc của
Nguyễn Dữ. Tác giả đã có những sáng tạo trong cách kể, trong việc h cấu thêm tình
tiết v đa thêm những yếu tố ly kỳ vo câu chuyện.
Câu chuyện có thể kết thúc ở chỗ Trơng Sinh nhận ra lỗi lầm, thấu hiểu nỗi oan

của vợ. Cách kết thúc ny sẽ giống cách kết thúc của chuyện cổ tích Vợ chng Trơng,
sau khi nhận ra lỗi lầm Trơng Sinh đã ở vậy nuôi con, không lấy vợ khác. Tuy nhiên,
một kết thúc hon chỉnh nh vậy, với Nguyễn Dữ lại có lẽ l cha hon chỉnh. Chính vì
thế tác giả đã sáng tạo thêm đoạn sau. Phan Lang nhờ cứu sống Linh Phi m đợc trả
ơn cứu mạng nên thoát khỏi chết đuối, ở thuỷ cung, Phan Lang nhận ra ngời lng l
Vũ Thị Thiết, sau khi giã từ dơng thế đã đợc hồi sinh nơi cung nớc. Nhờ Phan
Lang chuyển vật tin của Vũ Nơng m Trơng Sinh đợc gặp lại hình bóng vợ lần
cuối v nỗi oan khuất của Vũ Nơng đợc giải toả.
Việc thêm vo một đoạn kết nh vậy đã chứng minh ti năng "thiên cổ kỳ bút"
(bút pháp lạ muôn đời) của Nguyễn Dữ. Đoạn kết ny vừa giống lại vừa không giống
lối kết thúc có hậu trong văn học dân gian. Giống lối kết thúc có hậu của truyện kể
dân gian ở chỗ ngời ngay thẳng, hiếu thảo, thuỷ chung nh Vũ Nơng phải đợc
minh oan, nhân phẩm phải đợc đền bồi, phải đợc khẳng định. Tuy nhiên, kết thúc
ny lại khác kết thúc có hậu của truyện cổ tích vì thực chất đây l một kết thúc bi
kịch. Vũ Nơng không thể từ cõi chết trở về đon tụ với ngời thân nh cô Tấm trút
vỏ thị trở thnh hong hậu, hạnh phúc bên vua. Sự tái ngộ của Vũ Nơng, trong thực
chất lại l sự vĩnh biệt. Hạnh phúc gia đình đổ vỡ không gì hn gắn, nng v chồng
con vĩnh viễn chia lìa trong đôi ngả âm dơng. Một kết thúc về bản chất l bi kịch
nh vậy chứng tỏ ngay ở thế kỷ XVI Nguyễn Dữ đã có cái nhìn hiện thực sâu sắc,
chứng tỏ ngòi bút nhân đạo của nh văn thật sự có chiều sâu.











68

VO TRịNH PHủ
(Trích Thợng kinh ký sự Lê Hữu Trác)
Lê Hữu Trác (17201791) l nh danh y nổi tiếng nhất của Việt Nam thời cổ.
Ông còn l nh văn, nh thơ có đóng góp đáng kể đối với văn học dân tộc ở thế kỷ
XVIII, đặc biệt l ở thể văn xuôi tự sự.
Thợng kinh ký sự l tập ký sự chữ Hán xuất sắc của văn học dân tộc. Tác phẩm
ghi lại việc tác giả lên kinh đô chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Thợng kinh
ký sự l bức tranh hiện thực sắc nét về đời sống kinh đô, đặc biệt l đời sống phủ chúa
thời Lê Trịnh. Qua tác phẩm, ngời đọc còn bắt gặp bức chân dung tự hoạ về chính
tác giả : một con ngời ngay thẳng, trung thực, thờ ơ với danh lợi, khinh ghét bọn
thống trị, thuỷ chung trong tình cảm bạn bè.
Đoạn trích Vo Trịnh phủ l bức tranh chân thực về cuộc sống nơi phủ chúa, đợc
khắc hoạ ở hai phơng diện : cuộc sống thâm nghiêm giu sang, xa hoa v cuộc sống
ốm yếu, thiếu sinh khí.
Cuộc sống giu sang xa hoa nơi phủ chúa đợc gợi lên ngay từ những ấn tợng đầu
tiên : "Các cảnh giu sang của vua chúa thực khác hẳn ngời thờng". Giu sang từ nơi
ở : "Lầu từng gác vẽ tung mây. Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vo". Giu sang
trong tiện nghi sinh hoạt. Vật dụng hằng ngy thì "đồ nghi trợng đều sơn son thiếp
vng". Đồ ăn thức uống ton cao lơng mỹ vị "mâm vng, chén bạc", "ton của ngon vật
lạ". Phủ chúa phô by sự giu sang v cũng không che giấu sự xa xỉ. Để phục dịch một
ông chúa nhỏ, một đứa trẻ độ năm sáu tuổi m có tới "năm sáu lần trớng gấm", chiếc
phòng rộng với chiếc sập, chiếc ghế sơn son thiếp vng by nệm gấm v những ngời
đứng hầu hai bên. Vật v ngời nơi phủ chúa không chỉ đợc dát vng m còn đợc trát
phấn son v bao bọc bởi tầng tầng lớp lớp hơng hoa.
Cuộc sống nơi phủ chúa thật thâm nghiêm nhng thiếu sinh khí. Theo bớc chân
tác giả, ngời đọc có cảm giác đi vo phủ chúa nh đi vo mê cung đầy uy quyền bí
hiểm v đầy ám khí : "Chúng tôi đi cửa sau vo phủ. Ngời truyền lệnh dẫn tôi qua
mấy lần cửa nữa", "đi đợc vi trăm bớc, qua mấy lần cửa nữa mới đến cái điếm

"Hậu mã quân túc trực". Để vo nơi ở của chúa còn phải lần theo lối đi "ở trong tối
om, không thấy có cửa ngõ gì cả", phải "đi qua độ năm sáu lần trớng gấm". Trong cái
mê cung ny ám khí bao trùm không gian, cảnh vật : không ánh mặt trời, cuộc sống bị
vây bọc bởi gấm vóc, phấn sáp, hơng hoa. ám khí ngấm sâu vo hình hi thể tạng
Trịnh Cán : "Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thời xanh, chân tay gầy gò ".
Bởi "Thế tử ở trong chốn mn che trớng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ
yếu đi".
Miêu tả cuộc sống giu sang, xa hoa nhng thiếu sinh khí, trái với tự nhiên, tác
giả đã gián tiếp phê phán giai cấp thống trị Lê Trịnh.
Những mâu thuẫn xung đột nội tâm Lê Hữu Trác chứng tỏ ông l ngời trung
thực, có phẩm chất cao đẹp. Một mặt ông có thể chữa cho Thế tử khá lên, nhng nếu
có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó rng buộc, không lm sao về núi đợc. Mặt khác
ông lại chữa bệnh cho Trịnh Cán với tất cả sự hiểu biết của mình. Điều ny cho thấy
Lê Hữu Trác coi thờng danh lợi, khinh ghét bọn thống trị xa hoa, truỵ lạc, nhng l

69
một thầy thuốc chân chính, ông đã lấy việc cứu ngời lm y đức. Đây l nét đẹp trong
lơng tâm của nh đại danh y.
Văn ký sự của Lê Hữu Trác có sự kết hợp giữa ghi chép sự việc một cách chính
xác khách quan với việc bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của ngời viết. Mỗi chữ, mỗi
lời trong đoạn trích đều chứa đựng lợng thông tin về sự vật khách quan vừa chứa
đựng "lợng thông tin tâm hồn" chính tác giả. Văn Lê Hữu Trác vừa có tính chính
xác, tờng tận, minh bạch của một nh khoa học, vừa trn đầy cảm xúc của một trái
tim nghệ sĩ. Do kết hợp miêu tả chính xác, khách quan với việc thể hiện những cảm
nhận chủ quan nên những trang văn đã truyền tới ngời đọc những cảm xúc, suy t
của chính ngời viết. Độc giả nh cùng tác giả có một chuyến đi vo "Trịnh phủ".
Cũng qua một đoạn ký sự ngắn, Lê Hữu Trác đã khắc hoạ chân dung nhân vật
bằng vi ba nét miêu tả, vừa cụ thể, riêng biệt vừa mang ý nghĩa khái quát, điển
hình. Thế tử Trịnh Cán đợc miêu tả với những nét riêng, cụ thể từ hình hi, vóc dáng
đến ngôn ngữ, cử chỉ : "Một ngời ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có

mấy ngời đứng hầu hai bên Thế tử cời : "Ông ny lạy khéo". Chỉ qua một lời nói,
Trịnh Cán hiện lên đúng l một ông chúa con, cái "oai" của "bề trên" không che lấp
cái ngô nghê của một đứa trẻ miệng còn hơi sữa. Bức chân dung mang một nét hi
hớc kín đáo.


70

HồI THứ Mời BốN
(Trích Hong Lê nhất thống chí

Ngô gia văn phái)
Hong Lê nhất thống chí l sáng tác tập thể của các tác giả thuộc dòng họ Ngô
Thì ở lng Tả Thanh Oai, H Tây, trong đó có đóng góp quan trọng của Ngô Thì Chí (?
- ?) v Ngô Thì Du (1772 - 1840).
Tác phẩm viết bằng chữ Hán, theo thể loại tiểu thuyết chơng hồi nh kiểu Tam
quốc chí diễn nghĩa của văn học Trung Quốc. Tác phẩm gồm 17 hồi.
Hong Lê nhất thống chí phản ánh lịch sử ba mơi năm năm cuối cùng của thế kỷ
XVIII (từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa năm 1768 đến lúc Gia Long lên ngôi vua năm
1802). Đây l giai đoạn lịch sử đầy biến động, với hai nội dung chính lm nên diện mạo
thời đại : sự thối nát v khủng hoảng đi tới sụp đổ của các tập đon phong kiến trong
nớc, khí thế quật khởi chống thù trong giặc ngoi của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Đoạn trích giảng thuộc hồi thứ 14, thể hiện hai nội dung cơ bản : bộ mặt bọn xâm
lợc, bọn bán nớc, sự thất bại thảm hại của chúng, hình tợng ngời anh hùng
Nguyễn Huệ, khí thế quật khởi, thần tốc phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn.
Hình ảnh bọn xâm lợc hiện lên qua nhân vật Tôn Sĩ Nghị v một số quân lính
của y. Chúng mang bản chất kiêu căng tự phụ nhng lại rất hèn nhát. Khi vo Việt
Nam, từ cửa ải thẳng tới Thăng Long "nh dẫm đất bằng", "không một mũi tên".
Tôn Sĩ Nghị "xem thờng, cho l vô sự". Hắn "cng thêm ngạo ngợc, buông tuồng,
mặc cho quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang không còn có kỷ

luật gì cả". Thói kiêu căng đi liền với thói tự phụ. Nghị v quân tớng của y cho rằng
quân Tây Sơn nh "cá chậu, chim lồng, còn chút hơi thừa, thoi thóp không đáng nói
đến". Chúng có thể trong chốc lát "đánh thẳng đến so huyệt của quân Tây Sơn", "bắt
sống không một tên no lọt lới". Tôn Sĩ Nghị v quân xâm lợc cng kiêu căng tự phụ
bao nhiêu thì khi thất bại chúng cng hèn nhát bấy nhiêu. Quân Tây Sơn đánh đồn
Ngọc Hồi, Thái thú Sầm Nghi Đống "tự thắt cổ chết". Quân tớng Thanh "bỏ chạy
tán loạn", "giy xéo lên nhau m chết, thây nằm đầy đồng, máu chảy thnh suối". Lúc
nghe tin Tây Sơn đánh úp Ngọc Hồi, Tôn Sĩ Nghị đã "sợ mất mật, ngựa không kịp
đóng yên, mình không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trớc qua
cầu phao, rồi nhắm hớng Bắc m chạy". Tớng chỉ huy đã thế còn đám tn quân thì
"đều hoảng hốt, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau m chết
rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nớc, đến nỗi nớc sông Nhị
H vì thế m tắc nghẽn không chảy đợc nữa".
Số phận bọn vua quan phản nớc hại dân cũng bi đát không kém. Lê Chiêu
Thống v tầng lớp quý tộc triều Lê vì quyền lợi ích kỷ đã "cõng rắn cắn g nh", thần
phục ngoại bang một cách nhục nhã. Lê Quýnh "bịa lời nói hão để yên lòng Tôn Sĩ
Nghị", để "chóng đợc quân sang cứu". Lê Chiêu Thống thì nhất cử nhất động đều
phụ thuộc vo Nghị. Vua Lê lúc no cũng "hoảng sợ", "vội vã", "cuống quýt" khi nghe
tin Tây Sơn, chứng tỏ con ngời ny rất bạc nhợc, hèn nhát. Lúc Tây Sơn đánh ra
Bắc, vua quan hoảng hốt, cuống quýt chạy theo giặc. Chúng "gặp đợc chiếc thuyền
đánh cá vội cớp lấy rồi chèo sang bờ bắc". Gặp Tôn Sĩ Nghị v đám tn quân ở cửa

71
ải, chúng còn "đội ơn" bọn bại trận, còn hứa hẹn "lại xin sang hầu" kẻ xâm lợc. Khi
nghe Nghị nói "hãy tạm vo Nam Ninh để chờ thánh chỉ", vua Lê cùng bọn tớng tá
lại "thu nhặt tn quân kéo về". Đúng l lũ ngời ny vì ham sống sợ chết m mất hết
liêm sỉ. Số phận bi đát của chúng thật đáng khinh bỉ.
Hình tợng Nguyễn Huệ đợc khắc hoạ trong đoạn trích l hình tợng ngời anh
hùng dân tộc vừa tiếp nối truyền thống Ngô Quyền, Lê Hon, Lý Thờng Kiệt, Trần
Quốc Tuấn, Lê Lợi vừa mang tinh thần quật khởi của thời đại, có cá tính, cốt cách

riêng.
Nguyễn Huệ l ngời có lòng yêu nớc nồng nn. Trớc khi lên đờng tiến quân
ra Bắc, ông cho truyền đi lời lệnh dụ có khí văn nh một bi hịch. Trong lời lệnh dụ
ny Nguyễn Huệ thể hiện ý thức độc lập tự chủ : "Trong khoảng vũ trụ, đất no sao
ấy, đều đã phân biệt rõ rng, phơng Nam, phơng Bắc chia nhau m cai trị". Lời
lệnh dụ chính l sự tiếp nối tinh thần "Nam quốc sơn h Nam đế c" từ thời Lý
Thờng Kiệt. Tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lợc của Nguyễn Huệ
mang ho khí Hịch tớng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn : "Các ngời đều l những kẻ có
lơng tri lơng năng, hãy cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn". Niềm tự
ho dân tộc của Nguyễn Huệ lại âm vang lời tuyên bố dõng dạc của Bình Ngô đại cáo
: "Đời Hán có Trng Nữ Vơng, đời Tống có Đinh Tiên Hong, Lê Đại Hnh, đời Minh có Lê
Thái Tổ, các Ngi không nỡ ngồi nhìn chúng lm điều tn bạo, nên đã thuận lòng
ngời, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận l thắng v đuổi đợc chúng về phơng
Bắc".
Nguyễn Huệ còn l ngời có tinh thần quả quyết, trí thông minh sáng suốt, có ti
cầm quân. Ngay cả những ngời trong triều đình Lê, những ngời đối lập với phong
tro Tây Sơn cũng phải thừa nhận "Nguyễn Huệ l tay anh hùng lão luyện, dũng
mãnh v có ti cầm quân". Ti cầm quân ấy thể hiện ở khả năng "biết địch, biết ta".
Hiểu rõ giặc rất chủ quan, lại lơ l trong những ngy tết, Nguyễn Huệ đã quyết định
lm cuộc tấn công thần tốc, tập trung lực lợng, đánh một trận quét sạch hai mơi
vạn quân xâm lợc. Ông không chỉ có ti phán đoán m còn có ti điều binh khiển
tớng. Ông biết tập trung vo những khâu hiểm yếu, then chốt, trực tiếp chỉ huy các
trận đánh. Chiến thuật của Nguyễn Huệ rất linh hoạt, xuất quỷ, nhập thần, khi nghi
binh thanh thế, lúc tổng lực tấn công. Nguyễn Huệ l ngời có tầm nhìn chiến lợc.
Trớc lúc xuất quân, ông đã định đợc ngy chiến thắng : "Lần ny ta ra, thân hnh
cầm quân, phơng lợc tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mơi ngy có thể đuổi
đợc ngời Thanh". Đang khi đánh giặc m lòng đã nghĩ tới mối quan hệ giữa hai
nớc, đến hạnh phúc của nhân dân hai dân tộc : "Nhng nghĩ chúng l nớc lớn gấp
mời nớc mình, sau khi bị thua một trận ắt lấy lm thẹn m lo mu báo thù. Nh
thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải l phúc cho dân, nỡ no m lm

nh vậy".
Cả về đức độ v ti năng, Nguyễn Huệ đều tiêu biểu cho truyền thống yêu nớc,
nhân nghĩa, anh hùng của dân tộc v tinh thần quật khởi của phong tro Tây Sơn,
của thời đại nông dân khởi nghĩa.
Một trong những thnh công nghệ thuật của Hong Lê nhất thống chí đợc thể hiện ở
Hồi thứ 14 l nghệ thuật tái hiện sự thực lịch sử v nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Tác phẩm đã tái hiện sự thực lịch sử vừa chính xác vừa sinh động. Ghi chép các
sự kiện một cách cụ thể, chính xác, các tác giả đã sử dụng bút pháp biên niên sử, kể

72
theo trình tự các biến cố, sự kiện, theo trình tự thời gian, có ngy tháng cụ thể, xác
định. Tuy nhiên, khác các nh chép sử, tác giả Hong Lê nhất thống chí không thuật
lại các sự kiện một cách khô khan, lạnh lùng. Lời văn vừa bảo đảm tính khách quan
khoa học vừa thể hiện tình cảm chủ quan của ngời viết khi mỉa mai, khi ho hứng
phấn khởi, đôi chỗ xen nhận xét, bình luận
Giới hạn bởi bút pháp nghệ thuật của thể loại, ngòi bút tác giả không đi vo miêu
tả cụ thể, chi tiết chân dung nhân vật. Tuy nhiên, với cách miêu tả đơn giản v cô
đọng, hm súc, chỉ qua một số chi tiết cụ thể, qua lời nói, hnh động tiêu biểu của
nhân vật, tác giả dựng lên đợc những tính cách khá đậm nét. Hình ảnh Nguyễn
Huệ hiện lên khá cụ thể, có nét riêng, qua lời một nhân vật nói về ông : "Nguyễn Huệ
l tay anh hùng lão luyện dũng mãnh v có ti cầm quân. Xem hắn ra Bắc vo Nam
ẩn hiện nh quỷ thần, không ai có thể lờng biết Thấy hắn trỏ tay, đa mắt, l ai
nấy đã phách lạc, hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét". Bản chất một con ngời mạnh mẽ, tự
tin bộc lộ qua chính lời Nguyễn Huệ : " hẹn đến ngy mồng 7 năm mới thì vo thnh
Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngơi nhớ lấy, đừng cho ta nói khoác".
Những chi tiết viết về Tôn Sĩ Nghị, Lê Chiêu Thống bỏ chạy khi nghe tin Tây Sơn
đều có tác dụng lột tả bản chất, khắc hoạ tính cách nhân vật.























73

CHị EM THUý KIềU
(Trích Truyện Kiều

nguyễn du)
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm ở phần mở đầu của Truyện Kiều. Bút lực của
Nguyễn Du, trong đoạn thơ ny, tập trung khắc hoạ hai bức chân dung xinh xắn v
đẹp đẽ của Thuý Vân v Thuý Kiều.
Đoạn thơ giới thiệu ti sắc của hai chị em Thuý Kiều có một bố cục khá hon
chỉnh. Trớc hết, trong bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du đã giới thiệu chung về hai chị em

Kiều từ vẻ đẹp của hình thức bên ngoi đến vẻ đẹp tinh thần bên trong. Tiếp đó, tác
giả giới thiệu vẻ đẹp riêng của Thuý Vân (trong bốn câu thơ tiếp), thực chất l tạo
tiền đề, tạo ra điểm tựa của nghệ thuật "đòn bẩy" để tập trung khắc hoạ ti sắc của
Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm (trong mời hai câu thơ tiếp theo). Cuối
cùng, tác giả tổng hợp lại, giới thiệu chung về đức hạnh của cả hai chị em Kiều (trong
bốn câu thơ cuối).
Qua ngòi bút ti tình của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhng
"mỗi ngời một vẻ".
Vẻ đẹp của Thuý Vân đợc nh thơ miêu tả khá ton vẹn từ khuôn mặt, nét my,
mái tóc, mu da đến tiếng nói, nụ cời v phong cách. Gơng mặt nng xinh đẹp nh
mặt trăng tròn, lông my đẹp nh my con ngi (bớm tằm). Miệng nng cời tơi
nh hoa, tiếng nói trong nh ngọc. Tóc nng đẹp hơn cả mây (mây thua nớc tóc), da
trắng hơn cả tuyết (tuyết nhờng mu da). Dung nhan tuyệt đẹp của Thuý Vân đợc
hiện ra qua những hình ảnh có tính chất ớc lệ của văn học cổ.
Nhiều ngời đã nhận xét Thuý Vân có vẻ đẹp của ngời con gái đoan trang, phúc
hậu. Gơng mặt xinh đẹp đầy đặn của nng nh báo trớc một cuộc đời êm ấm, tròn
trịa, bình yên.
Cũng l ngời con gái xinh đẹp, nhng vẻ đẹp, ti sắc của Thuý Kiều có những nét
khác hẳn với Thuý Vân. Đôi mắt đẹp của nng Kiều trong nh nớc mùa thu, lông
my của nng xinh xắn, tơi non nh sắc núi mùa xuân. Nếu nh thiên nhiên nhờng
nhịn trớc vẻ đẹp phúc hậu của Thuý Vân, thì lại trở nên ghen ghét trớc vẻ đẹp "sắc
sảo mặn m" của nng Kiều :
Kiều cng sắc sảo mặn m,
So bề ti sắc lại l phần hơn :
Ln thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi cả sắc đẹp lẫn ti nghệ của nng Kiều. Kiều
l cô gái tuyệt vời xinh đẹp, sắc đẹp "nghiêng nớc nghiêng thnh" đồng thời l cô gái
ti hoa. Ti thơ, ti hoạ, ti đn của nng đều lên tới tột đỉnh :
Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thơng lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trơng.

74

×