i
MỤC LỤC
MỤC LỤC…………………………………………………………………
.
LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………
.
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN
NAM VIỆT NAM……………………………………………
I. Hiện tượng nước trồi (Nguyễn Kim Vinh)
II. Tổng quan các hoạt động nghiên cứu về nước trồi trong vùng
biển Việt Nam (Bùi Hồng Long)
III. Khái quát về các đặc trưng nước trồi trong vùng biển Việt Nam
(Bùi Hồng Long)……………………………… …………… …….
.
IV. Cơ chế hình thành hiện tượng nước trồi trong vùng biển Nam
Việt Nam (Nguyễn Bá Xuân)
.
Tài liệu tham khảo………………………………………………………
…
Chương II: CÁC ĐẶC TRƯNG VỀ ĐIỀU KIỆT TỰ NHIÊN,
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÀ THỦY HÓA…………………
…
I. Các đặc trưng thủy văn (Nguyễn Bá Xuân).…………………………
…
II. Tính toán dòng chảy bằng mô hình dòng chảy 3-D phi tuyến
(Bùi Hồng Long, Trần Văn Chung)
III. Các phương pháp tính gián tiếp nước trồi (Nguyễn Kim Vinh)
IV. Các đặc điểm địa mạo địa chất
i
3
5
5
10
14
24
28
31
31
36
55
59
Bùi Hồng Long và những người khác
ii
(Trịnh Thế Hiếu, Nguyễn Đình Đàn)………………………………
.
V. Đặc điểm phân bố của các muối dinh dưỡng (Phạm Văn Thơm)
Tài liệu tham khảo………………………………………………
Chương III: CÁC ĐẶC TRƯNG SINH HỌC VÀ SINH THÁI HỌC
I. Thực vật phù du (Nguyễn Ngọc Lâm, Nguyễn Thị Mai Anh,
Nguyễn Ngọc Tường Giang)………………………………….…………
II. Động vật phù du……………………………………………… ……
III. Sự phân bổ hàm lượng chlorophyll-a và tảo nở hoa………………….
Tài liệu tham khảo…………………………………………… ……
Chương IV: NĂNG SUẤT SINH HỌC VÀ NGUỒN LỢ
I SINH VẬT
I. Nguồn lợi thân mềm hai mảnh vỏ trong mối quan hệ với hiện
tượng nước trồi (Võ Sĩ Tuấn, Hứa Thái Tuyến).…………………
II. Một vài đặc trưng sinh học cá biển vùng nước trồi mạnh
nam Trung Bộ
III. Sức sản xuất sơ cấp và quá trình chuyển hóa năng lượng trong
hệ sinh thái nước trồi (Nguyễn Tác An)
Tài liệu tham khảo …………………………… ……………………
81
93
93
93
109
133
148
151
151
164
175
205
3
LỜI NÓI ĐẦU
Trong các quá trình thuỷ văn, động lực ở biển và đại dương, nước trồi
(upwelling) là hiện tượng đặc biệt, do nhiều nguyên nhân, thường xuất hiện ở
vùng biển ven bờ. Trên thế giới, các vùng nước trồi được biết đến ở nhiều nơi,
như: bờ tây Hoa Kỳ, Peru, Maroc, Nam Phi, Tây Australia, ven bờ Ấn Độ,
Thái Lan… Trong vùng biển Việt Nam, một vùng nước trồi quan trọng đã
được thấy ở vùng ven bờ Nam Trung B
ộ
Hiện tượng nước trồi ở biển nước ta đã được phát hiện và chú ý nghiên
cứu từ lâu. Những dấu hiệu về nước trồi ở vùng biển ven bờ miền Trung đã
được các nhà khoa học Pháp (Chevey, 1933, 1934; Krempt và Chevey, 1936)
ở Viện Hải dương học Đông Dương phát hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ
trước. Ý tưởng này còn được củng cố qua phân tích số liệu đo
đạc thu được
trong Chương trình NAGA (1959-1961) ở vùng biển phía Nam Việt Nam. Tuy
nhiên, những nghiên cứu tương đối toàn diện về nước trồi, với nội dung
nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh, chỉ được thực sự tiến hành có kết quả trong
các Chương trình nghiên cứu biển cấp Nhà nước, cụ thể là các Chương trình:
48B (1981-1990), và nhất là Chương trình KT.03 (1991-1995) với đề tài
KT.03, 05 do Viện Hải dương học tổ chức thực hiện. Vớ
i những dữ liệu mới
này, lần đầu tiên đã có hiểu biết rõ ràng về một số yếu tố cơ bản của vùng
nước trồi ven bờ Nam Trung Bộ và đã xác định được những nguyên nhân cơ
bản của sự hình thành nước trồi ở vùng biển này là tác động của gió mùa Tây
Nam, chế độ dòng chảy, địa hình bờ và đáy biển, sự phân tầng nước biển. Qua
phân tích các số liệ
u cũng đã xác định được một số đặc trưng quan trọng của
nước trồi trong vùng biển này, như phạm vi không gian có ảnh hưởng của
nước trồi trải dài từ Ninh Thuận tới Bình Thuận, thời gian tồn tại từ tháng 5
đến tháng 9, mạnh nhất vào tháng 7-8, tốc độ trồi đạt giá trị lớn nhất ở các
tầng 100-125m, đây cũng có thể coi là tầng xuất phát của nước trồ
i. Đồng
thời, cũng bước đầu đánh giá được tác động tích cực của nước trồi đối với
nguồn lợi hải sản cũng như môi trường sống ở khu vực chịu ảnh hưởng nước
trồi, như tạo nên những điều kiện môi trường sống thuận lợi, cơ sở thức ăn của
Bùi Hồng Long và những người khác
4
hải sản phong phú hơn, một số đối tượng hải sản có sản lượng tăng cao hơn và
chất lượng tốt hơn.
Những kết quả nghiên cứu trên đây về nước trồi vùng biển Nam Trung Bộ
còn được mở rộng và nâng cao hơn với những kết quả nghiên cứu gần đây của
Chương trình hợp tác nghiên cứu giữa Viện Hải dương học Nha Trang với các
Viện nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học biển của CHLB Đức về vùng nước
ven bờ Nam Trung Bộ. Với các phương tiện trang thiết bị hiện đại, thời gian
nghiên cứu dài và liên tục, phạm vi khảo sát mở rộng hơn nhiều so với trước
đây cả về chiều rộng và chiều sâu, có thể coi các kết quả đạt được của Chương
trình nghiên cứu này như một bước tiến mớ
i trong công cuộc nghiên cứu nước
trồi ở nước ta. Đây là những cơ sở và định hướng quan trọng cho các hoạt
động nghiên cứu tiếp theo trong giai đoạn tới, nhằm từng bước hoàn thiện các
nội dung nghiên cứu, để tiến tới có được sự hiểu biết toàn diện, đầy đủ và
vững chắc về nước trồi ở nước ta, ứng dụng có hiệu quả vào hoạt độ
ng của các
ngành sản xuất, quốc phòng, dịch vụ trên biển, đóng góp tích cực vào sự phát
triển kinh tế-xã hội biển nước ta.
Với trình độ, khả năng tư liệu còn hạn chế đối với một vấn đề mới và phức
tạp như hiện tượng nước trồi, cuốn sách không tránh khỏi những điểm sai sót,
bất cập, rất mong nhận được sự góp ý củ
a độc giả để lần xuất bản sau được
hoàn thiện hơn.
Các tác giả
5
Chương I
HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN
NAM VIỆT NAM
I. HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI
Nước trồi là một quá trình động lực nổi bật trong đại dương nói chung
và trong Biển Đông nói riêng [The Encyclopedia of Oceanography, 1966]. Xét
theo vị trí địa lí trong đại dương, nước trồi được chia thành hai loại: nước trồi
ngoài khơi và nước trồi ven bờ, hay nước trồi vùng bờ (coastal upwelling).
Nước trồi ven bờ luôn đi kèm với nhiều hệ quả nhất định, mà trước hết phải kể
đến hệ quả sinh thái và vùng rìa của các tâm nước trồ
i thường là vùng cho sản
lượng đánh bắt hải sản cao. Ví dụ đặc sắc nhất là vùng nước trồi Peru (Bảng
1.1). Đây là vùng có sản lượng hải sản đánh bắt cao nhất thế giới. So với các
vùng biển có chế độ gió mùa Tây Nam ở Bắc Bán cầu, vùng nước trồi vùng bờ
ở biển Nam Việt Nam cũng gây sự chú ý đáng kể [Wyrtki K. 1961; LaFond E.
C. 1963; The Encyclopedia of Oceanography, 1966].
Nước trồi và nước chìm là các hiện tượng thủy độ
ng lực học xảy ra rất
phổ biến trong biển và đại dương. Trong biển và đại dương, hiện tượng nước
trồi và nước chìm có thể được hình thành do sự phân kỳ và hội tụ của các hệ
dòng chảy có quy mô lớn và trung bình. Ngoài ra, ở các vùng thềm lục địa, do
sự kết hợp của các trường gió mùa với đặc điểm của địa hình đáy và đường bờ
cũng thường hình thành các vùng phân kỳ
và hội tụ của dòng chảy. Từ đó xuất
hiện hiện tượng nước trồi trên vùng thềm lục địa. Ở biển và đại dương, hiện
tượng nước trồi và nước chìm chủ yếu được hình thành trong các vùng xoáy
thuận và xoáy nghịch. Ở Bắc Bán cầu, trong các xoáy thuận, dưới sự tác động
của lực quay Trái đất, các chuyển động của nước biển có xu thế chảy từ tâm ra
ngoài, tạ
o ra một sự thiếu nước ở tâm và hậu quả để thay thế lượng nước đã
mất đi, nước lạnh và mặn từ các tầng sâu trồi lên các tầng mặt theo định luật
Bùi Hồng Long và những người khác
6
bảo toàn khối lượng (hình 1.1a). Đối với xoáy nghịch, quá trình xảy ra ngược
lại với xoáy thuận, tức là do ảnh hưởng của lực quay Trái đất, nước biển từ
các vùng rìa chảy vào tâm, tạo ra một sự dư thừa nước và hậu quả dẫn đến
nước ở tâm với nhiệt độ cao và độ mặn thấp sẽ chìm xuống các tầng sâu (hình
1.1b). Ở Nam Bán cầu, quy luật hình thành các vùng nước trồi và vùng nước
chìm trong các xoáy thuận và xoáy nghịch xảy ra hoàn toàn ngược lại so với
Bắc Bán cầu.
(a ) ( b )
Hình 1.1: Mô phỏng quá trình vận chuyển nước
trong xoáy thuận (a) và xoáy nghịch (b) ở Bắc Bán cầu
Hiện tượng nước trồi cũng được hình thành ở vùng tạo trong trường hợp
dòng chảy bị phân kỳ do gặp phải sự biến đổi đột ngột hướng của đường bờ và
địa hình đáy có độ dốc thích hợp (hình 1.2) hoặc trong trường hợp khi dòng chảy
phải chảy qua đỉnh của các đồi ngầm nằm chặn trên đường di chuyển của các
khối nước.
Ở ngoài các đại d
ương, các xoáy thuận và xoáy nghịch thường được hình
thành ở 2 bên rìa của các hệ dòng chảy nóng và lạnh có quy mô lớn. Theo nhiều
công trình nghiên cứu ngoài nước [11, 12], các xoáy thuận và xoáy nghịch đã
được hình thành ở 2 bên rìa của hệ dòng chảy Kurosio ở bắc Thái Bình Dương và
hệ dòng chảy ấm ở bắc Đại Tây Dương - dòng chảy Gulstream (hình 1.2).
Tâm
xoáy
thuận
Tâm
xoáy
nghịch
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
7
Xoáy nghịch (nước chìm)
Xoáy thuận (nước trồi)
Dòng chảy Gulstream (ở bắc Đại Tây Dương)
Hình 1.2: Mô phỏng sự hình thành các xoáy thuận và xoáy nghịch
ở hai bên rìa dòng chảy Gulstream do sự uốn cong của nó
Ghi chú
:
: Đường bờ
Lục địa Biển
: Đường đẳng sâu
: Dòng chảy chính
: Dòng chảy phân kỳ
: Vùng nước trồi
Xoáy thuận thứ cấp
Hình 1.3: Nước trồi được hình thành trong trường hợp
dòng chảy bị phân kỳ khi gặp sự biến đổi hướng
của đường bờ và địa hình đáy với độ dốc thích hợp
Vùng hình thành xoáy thuận
thứ cấp, tạo ra tâm nước trồi
mạnh ở vùng biển ngoài khơi
Phan Rang (Ninh Thuận)
A
C
Bùi Hồng Long và những người khác
8
Một yếu tố khác cũng là một trong những nguyên nhân cần và đủ để cho
quá trình hình thành và phát triển mạnh của hiện tượng nước trồi ở các vùng
thềm lục địa ven biển, đó là sự ảnh hưởng của chế độ gió mùa mạnh và ổn định.
Đối với các vùng thềm lục địa Nam Trung Bộ, để hình thành và duy trì hiện
tượng nước trồi mạnh trong thời kỳ mùa Hè, ngoài các điều kiện cầ
n như đã nêu
ở trên, điều kiện đủ là trường gió mùa Tây Nam. Ở vùng biển thềm lục địa Nam
Trung Bộ và Nam Bộ, trong mùa Hè, từ tháng 6 đến tháng 8, trường gió mùa Tây
Nam với hướng gió thổi song song và cắt bờ ra khơi, có cường độ khá mạnh và
ổn định, đã làm cho nước biển tầng mặt ở vùng ven bờ, với nhiệt độ cao và độ
muối thấp bị đẩy lùi ra khơi, do đó để bù vào lượng nướ
c đã mất đi, nước có
nhiệt độ thấp và độ mặn cao từ các tầng sâu sẽ trườn theo sườn dốc vào các vùng
ven bờ (hình 1.4).
Hướng gió ( SW )
Đường bờ Mặt biển
Dòng đi ra từ bờ
Đáy biển Dòng đi lên từ đáy
Hình 1.4: Mô phỏng quá trình hình thành nước trồi ở vùng biển ven bờ
dưới sự tác động của trường gió mùa Tây Nam trong mùa Hè
Tóm lại, nguyên nhân và cơ chế hình thành của hiện tượng nước trồi ở các
vùng biển thềm lục địa Nam Trung Bộ và Nam Bộ, trong thời kỳ mùa Hè, phụ
thuộc mạnh vào những điều kiện cần và đủ sau đây: hướng của đường bờ; độ dốc
thích hợp của địa hình thềm lục địa; sự tồn tại của hệ dòng chảy lạnh ven bờ
miền Trung theo h
ướng Bắc - Nam và sự ổn định về cường độ và hướng của
trường gió mùa Tây Nam. Điều này có nghĩa là: ở những vùng biển nào, nếu hội
đủ các điều kiện nêu trên, thì hiện tượng nước trồi sẽ phát triển mạnh mẽ và ổn
định. Theo đánh giá của nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước [1, 2,
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10], trong thời kỳ gió mùa Tây Nam thịnh hành, từ tháng 6 đến
tháng 8, trong các vùng biển thềm lục địa Nam Trung Bộ, vùng biển Ninh Thu
ận
- Bình Thuận, được đánh giá đã tồn tại hiện tượng nước trồi mạnh nhất. Ở các
vùng biển khác nằm phía Bắc và phía Nam vùng biển Ninh Thuận - Bình Thuận,
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
9
hiện tượng nước trồi cũng tồn tại, nhưng ở mức độ trung bình hoặc yếu ớt, như
là: vùng biển từ bắc Khánh Hòa đến Bình Định, hiện tượng nước trồi tồn tại với
mức độ trung bình yếu. Nguyên nhân là do trường gió mùa Tây Nam ở khu vực
này có cường độ tương đối yếu và thiếu sự ổn định, nên hiện tượng nước trồi chủ
yếu hình thành là do
ảnh hưởng của dòng chảy lạnh Bắc - Nam với tốc độ dòng
còn tương đối lớn trong thời kỳ mùa Hè, đã đưa nước lạnh trồi lên từ lớp đột biến
mật độ vào vùng ven bờ; ở vùng biển Nam Bộ, từ Vũng Tàu đến Cà Mau, mặc dù
chế độ gió mùa Tây Nam phát triển rất mạnh so với các vùng khác, nhưng do đặc
điểm của địa hình đáy tương đối nông và bằng ph
ẳng, không thuận lợi cho việc
hình thành nước trồi. Hơn nữa, ở vùng biển này, ảnh hưởng của dòng chảy lạnh
Bắc - Nam là rất yếu, nên hiện tượng nước trồi phát triển ở vùng biển này cũng
rất yếu và khó có thể nhận dạng được trên nền chung của các quá trình thủy văn
và động lực khác diễn ra ở vùng ảnh hưởng của nước sông Cửu Long.
Bảng 1.1: Các vùng nước trồi ven bờ chính trong đại dương
STT Vùng nước trồi Thời gian xuất hiện
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Oregon-California, 25 - 45
o
N
Peru, 5 - 45
o
S
Benguela (Tây nam Châu Phi), 5 - 30
o
S
Guinea
Canaries, 10 - 40
o
N
Somali
Aravie
Tây Ấn Độ
Tây Úc
Đông Kaspi
Đông vùng Florida
Vùng biển Lion
Nam Crimea
Tây Biển Đen
Tây Kaspi
Vùng Kabô Frion
Nước trồi Châu Âu ở vùng thềm lục địa
Krôm
Vùng biển ven bờ Nam Việt Nam
Tháng 6 - 8.
Quanh năm (nhưng vào
tháng 2-3 thì yếu).
Tháng 11 - 2.
Tháng 6 - 9.
20-25
o
N: Quanh năm,
25
o
N: Tháng 6 - 11,
20
o
N: Tháng 1 - 3.
Tháng 6 - 9.
Tháng 6 - 9.
Tháng 1 - 3.
Tháng 1 - 3.
Tháng 6 - 8.
-
-
-
-
Tháng 5 - 9.
-
-
Tháng 6 - 9
Bùi Hồng Long và những người khác
10
II: TỔNG QUAN CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VỀ NƯỚC TRỒI
TRONG VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Hiện tượng nước trồi trong vùng biển Việt Nam đã được chú ý tới từ việc
phát hiện các dấu hiệu đầu tiên, trong các công trình khảo sát về chế độ thuỷ văn
động lực ở vùng biển Việt Nam và Đông Dương vào đầu những năm 70 thế
kỷ trước. Trong các hoạt động khảo sát về thuỷ v
ăn và vùng biển Đông
Dương vào các năm 1932 - 1934, kết quả được công bố trong các báo cáo
tường trình của Viện Hải dương học Nha Trang (P. Chevey 1933, 1934, A.
Krenpf es p. Chevey 1936), đã có đề cập tới hệ dòng chảy nóng tầng mặt và
hệ dòng chảy lạnh tầng sâu thường trực dọc ven bờ biển Việt Nam theo chiều
bắc nam ngay cả trong mùa gió Tây Nam tạo nên sự đối kháng giữa hai khối
nước này. Lưới nước lạnh dưới 25
0
C đã đi xa hơn xuống phía nam, trong khi
khối nước nóng trên 25
0
C lại đi xa hơn về phía bắc. Có thể coi đây như những
dữ liệu đầu trên làm liên tưởng đến hiện tượng nước trồi trong khu vực biển
ven bờ này của Việt Nam. Điều đáng chú ý là hiện tượng này lại đi liền với sự
giảm sản lượng của cá Mói dầu (Dorosoma) và cá Nục (De capterun) ở vùng
phía nam và tăng cao ở vùng phía bắc, cũng trong thời gian đó.
Đây là những
loài cá nhạy cảm với thay đổi nhiệt độ nước biển vì vậy cũng đã có ý kiến về
sự liên hệ nào đó giữa sự thay đổi sản lượng cá với sự biến đổi nhiệt độ nước
biển có nguyên nhân từ nước trồi. Cũng ở mức độ phát hiện về nước trồi, còn
phải kể đến các nghiên cứu trong vùng biển Nam Việt Nam trong thờ
i gian
tiếp theo của Chương trình NAGA (1959 - 1960) của các tác giả Wyrtki
(1961), Robinson (1961), LaFond (1961). Có thể coi đây như giai đoạn đầu
của việc nghiên cứu nước trồi trong vùng biển Việt Nam.
Giai đoạn thứ hai, có thể kể các hoạt động nghiên cứu mang tính chuyên đề
về nước trồi, được thực hiện trong thời gian 1980 đến 1995, sau khi kết thúc
chiến tranh ở Việt Nam, trong khuôn khổ các chương trình điều tra nghiên cứu
biển cấp Nhà n
ước như Chương trình Thuận Hải - Minh Hải (1978 - 1980),
Chương trình 48.06 (1981 - 1985), Chương trình 48B (1986 - 1995) và nhất là
Chương trình KT.03 (1991 - 1995) với đề tài KT-03.05 do Viện Hải dương học
Nha Trang chủ trì tổ chức thực hiện. Lần đầu tiên, hiện tượng nước trồi ở vùng
biển Việt Nam đã được khảo sát, nghiên cứu một cách toàn diện tập trung ở vùng
biển ven bờ Nam Trung Bộ với nội dung tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các vấn
đề thuỷ văn động lực, thuỷ hoá, địa chất, các hệ quả sinh thái của hiện tượng
nước trồi, như một hiện tượng đặc biệt của điều kiện tự nhiên và sinh thái, môi
trường biển Việt Nam. Do điều kiện kinh phí, phương tiện kĩ thuật và trình độ
còn hạn chế nên hoạt động khảo sát còn chưa nhiều chuỗi số liệu quan trắc đủ
dài, phạm vi không gian nghiên cứu cũng chỉ tập trung ở khu vực hẹp trong vùng
đầm nước trồi mạnh trên thềm lục địa từ Ninh Thuận tới Bắc Bình Thuận. Tuy
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
11
nhiên, kết quả thực hiện trong giai đoạn này có thể coi là một bước tiến mới
trong cuộc nghiên cứu hiện tượng nước trồi ở biển Việt Nam, từ những phát hiện
ban đầu đã có được những hiểu biết về hiện tượng đặc biệt này ở biển Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên, đã tiến hành đo đạc một cách đồng bộ, liên tục các yếu t
ố
điều kiện tự nhiên, đánh giá tác động sinh thái và môi trường của vùng nước trồi
mạnh ở biển ven bờ và thềm lục địa Nam Trung Bộ Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu trong giai đoạn này đã cho ta hiểu biết bước đầu về
những vấn đề cơ bản của hiện tượng nước trồi mang tính đại diện ở vùng biển
Việt Nam. Theo đó, nhưng nguyên nhân chính gây nên nướ
c trồi là tác động của
gió mùa Tây Nam, hiện trạng địa hình đáy biển, bờ biển và sự phân tầng nước
biển trong vùng biển này. Trường gió mùa nước Tây Nam trong vùng nước trồi
nghiên cứu khá phức tạp, biến động mạnh theo không gian và thời gian. Tồn tại
xoáy thuận khí quyển cục bộ tại vùng biển Ninh Thuận đã thấy rõ những biến
động gió chu kỳ ngày đêm, chu kỳ Sinop (từ 2 - 3 đến 9 - 10 ngày đêm), chu kỳ
nă
m và chu kỳ nhiều năm 18 năm. Hình thái địa hình biến đổi khá phức tạp.
Hướng tổng thể của đường bờ nổi, cũng như đường bờ ngầm làm với hướng gió
một góc thuận lợi cho sự phát sinh hiện tượng nước trồi mạnh. Nước biển phân
tầng khá mạnh theo phương ngang cũng như phương thẳng đứng, tạo thành các
đới front thuỷ văn đi qua khu vực nghiên cứ
u và lớp nhảy vọt khá mạnh ngay
trên thềm lục địa. Bằng số liệu đo đạc dài ngày dòng chảy đã xây dựng được bản
đồ dòng chảy trung bình phản ánh khá tốt hoàn lưu xoáy thuận cục bộ trong khu
vực. Bằng phương pháp mô hình hoá toán học đã có được bức tranh phân bố
dòng chảy ngang và dòng trồi phù hợp với số liệu đo đạc.
Qua phân tích các yếu tố thuỷ văn đã xác định được nhi
ều đặc trưng quan
trọng của hiện tượng nước trồi trong khu vực. Nước trồi có thể tồn tại trên dải
ven bờ và thềm lục địa từ Bình Thuận đến Bắc Bình Thuận. Nước trồi xuất phát
từ tầng sâu 100-125m và đó chỉ gây tác động mạnh trong lớp nước từ mặt biển
đến các tầng này. Nước trồi tồn tại từ tháng 5 đến tháng 9, mạnh nhất vào tháng 7
- 8. Tại tâm nước trồi mạnh, tốc độ trôi dạt có giá trị lớn nhất ở các tầng 100-
125m, càng lên trên càng bé và bằng 0 tại mặt biển. Trong dao động chu kỳ
Sinop, tốc độ trôi có thể đạt từ 10
-1
- 10
-2
cm/s.
Mặc dầu tâm nước trồi mạnh tồn tại ở vùng biển Ninh Thuận, Bắc Ninh
Thuận, nhưng vùng có hiệu quả sinh thái cao nhất lại nằm ở tam giác Cà Ná -
Phú Quý - Phan Thiết, nằm ở rìa phía Tây Nam của tâm nước trồi mạnh. Trong
phạm vi vùng tam giác này, tồn tại các điều kiện sinh thái môi trường cực kỳ
thuận lợi cho sự phát triển đời sống sinh vật như: địa hình đáy với độ gồ
ghề lớn,
các front thuỷ văn cường độ mạnh, hàm lượng các chất dinh dưỡng thích hợp,
năng suất sinh học sơ cấp cao, sinh vật nổi phù dù, sinh vật đáy, phát triển số
Bùi Hồng Long và những người khác
12
lượng trứng cá, cá con nhiều, vì vậy một số hải sản như cá, sò lông, điệp quạt có
sản lượng cao.
Với các kết quả, dữ liệu thu được, Viện Hải dương học Nha Trang đã xây
dựng và công bố (1990) một tập Bản đồ về phân bố các điều kiện tự nhiên, sinh
thái môi trường, nguồn lợi hải sản của vùng nước trồi Ninh Thuận - Bình Thuận,
tỷ
lệ 1: 5.000.000, cùng với một Tuyển tập các công trình nghiên cứu về nước
trồi ở vùng biển Nam Trung Bộ.
Hình 1.5: Sơ đồ giới hạn của vùng biển nghiên cứu với 10 mặt cắt và các trạm đo đạc vật
lý, thu thập vật mẫu sinh-hóa học biển trong các chuyến khảo sát VG3, 4, 7, 8 bằng tàu
Nghiên cứu Biển (Bộ Tài nguyên Môi trường) và chuyến khảo sát bằng tàu SONNE 187-2.
Ô chữ nhật chỉ định khu vực đo đạc và thu thập vật mẫu của chuyến khảo sát bổ sung
ven bờ từ Phan Thiết đến Vũng Tàu (5-2006).
107 108 109
107 10
8
10
9
10
11
10
11
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
Phan Thieát
V
u
õ
n
g
T
a
ø
u
N
o
E
o
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
13
Giai đoạn tiếp theo của công cuộc nghiên cứu nước trồi ở biển Việt Nam
được bắt đầu bằng chương trình hợp tác nghiên cứu Biển tập trung vào vùng
nước trồi ở vùng biển Nam Trung Bộ, giữa Viện Hải dương học Nha Trang,
và các Viện Nghiên cứu của biển Bantic (Warnemuende) Viện Sinh Địa hoá
và Hoá học (Hamburg) của CH Liên Bang Đức được thực hiện từ 2003 -
2006. Chương trình đã thực hiện các chuyến kh
ảo sát có quy mô không gian
lớn hơn gấp 3 - 4 lần các khu vực khảo sát trước đây, độ sâu ra tới 1500m
với các phương tiện thiết bị hiện đại. Thời gian khảo sát cũng đủ hai mùa gió
chính và hai mùa chuyển tiếp, có những chuỗi đo kéo dài trong 1 năm ở độ
sâu 600-1200m. Nội dung nghiên cứu của Chương trình này bao gồm:
H
o
n
g
X
i
M
e
K
o
n
g
D
o
n
g
N
ai
B
a
A
b
r
a
105° 107° 109° 111° 117°113° 115° 119° 121°
25°
23°
21°
19°
13°
17°
15°
11°
9°
7°
5°
2
0
0
2
0
0
0
4
0
0
0
2
0
0
0
2
0
0
4
0
0
0
2
0
0
0
SCS-N
SCS-C
S
a
i
G
o
n
D
o
n
g
B
e
i
Z
h
u
j
i
a
n
g
SCS SC -
SCS-SW
SCS-S
SCS-NE
SCS-NC
NAM
C H I N A
VIET
Luzon
Borneo
Hainan
Sunda
Shelf
A
g
n
o
SOUTH
CHINA
SEA
H
o
n
g
X
i
M
e
K
o
n
g
D
o
n
g
N
ai
B
a
A
b
r
a
105° 107° 109° 111° 117°113° 115° 119° 121°
25°
23°
21°
19°
13°
17°
15°
11°
9°
7°
5°
2
0
0
2
0
0
0
4
0
0
0
2
0
0
0
2
0
0
4
0
0
0
2
0
0
0
SCS-N
SCS-C
S
a
i
G
o
n
D
o
n
g
B
e
i
Z
h
u
j
i
a
n
g
SCS SC -
SCS-SW
SCS-S
SCS-NE
SCS-NC
NAM
C H I N A
VIET
Luzon
Borneo
Hainan
Sunda
Shelf
A
g
n
o
SOUTH
CHINA
SEA
Hình 1.6: Sơ đồ vị trí thả bẫy trầm tích trên Biển Đông
Bùi Hồng Long và những người khác
14
- Các đặc trưng vật lý của hiện tượng nước trồi, sự hình thành, biến đổi
theo chu kì ngắn (Sinop) và chu kỳ dài (gió mùa, Elnino, Lanina).
- Hiện tượng dòng chảy và cấu trúc của nó trong khu vực.
- Tác động của nước trồi lên các điều kiện thuỷ văn, thuỷ hoá, sinh thái
học trong khu vực.
- Tác động của lưỡi nước lạnh đi về phía nam và nước ấm đi về phía bắc.
- Xác định khu vực phân bố và các biên của vùng n
ước trồi (sử dụng kỹ
thuật viễn thám).
- Mô phỏng hệ dòng chảy kích thước nhỏ cho vùng nước trồi và thềm lục
địa Việt Nam. Mô hình HAMSON và 3D tuyến tính, phi tuyến.
Với một khối lượng đồ sộ dữ liệu thu được bằng các phương tiện kỹ
thuật hiện đại đảm bảo tin cậy, Chương trình hợp tác nghiên cứu về nước trồi
có thể coi là một bước nâng cao t
ầm hiểu biết và chất lượng các kết quả
nghiên cứu về nước trồi ở Việt Nam hiện nay.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã có được cho tới nay, có thể nêu lên
một cách khái quát những hiểu biết về những vấn đề cơ bản của hiện tượng nước
trồi biển Việt Nam hiện nay, chủ yếu vùng biển Nam Trung Bộ.
III. KHÁI QUÁT VỀ CÁC ĐẶC TRƯNG NƯỚC TRỒI TRONG
VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HIỆN CÓ
1. Vật lý - Hải dương
- Lần đầu tiên đã chính xác hóa được hệ dòng chảy 2 lớp thay đổi theo mùa
trong khu vực biển ven bờ Nam Trung Bộ Việt Nam (biên ngoài nằm trong khu
vực khoảng 80km cách bờ, độ sâu phân cách của hệ dòng chảy 2 lớp trong khoảng
50-60m).
- Các kết quả tính toán bằng mô hình ba chiều (3D) tuyến tính và phi tuyến là
các kết quả mới nhất tại khu vực mà chúng tôi đã thực hiện được. Kế
t quả tính chế
độ dòng chảy do ảnh hưởng của trường gió Tây Nam, mà điển hình là từ tháng 6
đến tháng 8/2005, đã thể hiện hiện tượng nước trồi tại khu vực nghiên cứu Nam
Trung Bộ (qua tốc độ dòng thẳng đứng từ mô hình)
- Hiện tượng nước trồi thể hiện rõ nhất vào tháng 6/2005 mặc dù vào tháng
7/2005 có tốc độ dòng chảy tầng mặt đạt giá trị cao nhất tới 61.136cm/s, hướng
107.763
o
. Tốc độ trung bình trong toàn vùng nghiên cứu là 7.4cm/s.
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
15
+ Tại tầng mặt, tốc độ dòng đạt cực đại là 39.974cm/s (nhỏ hơn so với tháng 7
(61.136cm/s) và tháng 8 (40.915cm/s)), hướng 92.174
o
.
+ Tại tầng độ sâu 50m, khi mà ảnh hưởng của gió đã suy giảm hoàn toàn, sự
trồi lên của hạt nước có thể đạt 0.054cm/s, cho sụt xuống -0.050cm/s.
+ Tại tầng 100m, vận tốc thẳng đứng hướng lên cực đại có thể đạt được
0.043cm/s, hướng xuống đạt giá trị lớn nhất là -0.024 cm/s.
- Bằng phương pháp hàm trực giao thực nghiệm (EOF) các cấu trúc chính của
nhiệt độ nước biển tầng m
ặt ở khu vực Biển Đông như cấu trúc nhiệt vào mùa gió
Đông Bắc, mùa gió Tây Nam cũng như tác động của sự biến đổi khí hậu toàn cầu,
hiện tượng ENSO lên quá trình hình thành, quy mô và sự biến đổi của hiện tượng
nước trồi và đặc biệt là tác động của chúng lên chế độ nhiệt độ nước biển tầng mặt
ở khu vực đã được làm rõ.
- Bằng sử dụng tài liệ
u về ứng suất gió và xoáy của ứng suất gió của Trung
tâm môi trường nghề cá Thái Bình Dương - PFEL (Pacific Fishery Environmental
Labolatory), một số khu vực thường xuất hiện khu vực nước trồi đã được phát
hiện, trong đó vùng nước trồi mạnh nhất xảy ra ở khu vực ven bờ Nam Trung Bộ.
- Các khảo sát, nghiên cứu về hiện tượng nước trồi trong khu vực nước trồi
Nam Trung Bộ cho thấy nguyên nhân, sự biến đổi về
cường độ, phạm vi phân bố
của vùng nước trồi khu vực Nam Trung Bộ mang các đặc điểm địa phương và là
kết quả tương tác của các quá trình vật lý (khí quyển - đại dương - đáy - bờ trong
khu vực): Vận chuyển Ekman, tương tác giữa hai hệ thống dòng chảy mạnh Tây
Biển Đông đi xuống và hệ thống dòng chảy đi từ phía thềm lục địa Sunda lên khu
vực tác động củ
a hệ số biến đổi Coriolis trong dải ven bờ. Các kết quả trên là cơ
sở khoa học cho việc hoàn thiện các mô hình tính toán để đánh giá nhanh hiện
tượng nước trồi.
2. Sinh thái – Môi trường
- Có sự khác biệt rất rõ trong sự phân bố của các muối dinh dưỡng trong vùng
biển Nam Trung Bộ vào các thời kỳ tháng 4 và tháng 7:
+ Vào thời kỳ tháng 4 sự xâm nhập của các muối dinh dưỡng từ lớp nước sâu
không mạnh, khu vực có lớp ưu quang giàu dinh d
ưỡng thường phân bố rời rạc, mức
dinh dưỡng không cao
+ Vào thời kỳ tháng 7 sự xâm nhập từ lớp nước sâu mạnh hơn, nơi có lớp ưu
quang giàu dinh dưỡng tập trung thành khu vực rõ ràng, rộng, mức dinh dưỡng khá
cao.
- So sánh với các nghiên cứu trước đây và dựa vào hàm lượng cực đại của muối
phosphate trong lớp ưu quang có thể nói là các hoạt động nước trồi ghi nhận được qua
Bùi Hồng Long và những người khác
16
các chuyến khảo sát của dự án này có cường độ nhỏ hơn nhiều so với mức đã ghi
nhận được vào năm 1994.
- Trong mùa nước trồi mạnh, hoàn lưu ngược từ tâm nước trồi về phía xoáy
nghịch ở Đông Nam tách khu vực phân bố năng suất sơ cấp thành hai vùng có năng
suất cao ở ven bờ và ngoài khơi Khánh Hoà, ven bờ Ninh Thuận.
- Theo phương ngang, hàm lượng chlorophyll-a biến thiên trên toàn vùng nghiên
cứu trong đó hình thành các tâm chl-a rõ rệt ở các khu v
ực: cửa sông Mêkông, Nam
Bình Thuận và Bắc Khánh Hòa. Đặc biệt, các lớp nước trên cùng (trong khoảng 0 -
60m), sự biến thiên chl-a khá mạnh và các tâm chla - cao khá rõ ràng.
- Trong mùa gió Tây Nam, đặc biệt là trong thời kỳ hoạt động mạnh của nước
trồi, hàm lượng chl-a trong vùng thềm lục địa Nam Việt Nam cao hơn đáng kể so với
thời kỳ không có hoạt động của nước trồi - thời kỳ chuyển tiếp giữa mùa gió Đông
Bắc sang gió Tây Nam (0,485 - 0,647mg/m
3
trong mùa gió Tây Nam so với 0,174 -
0,334mg/m
3
trong chuyển tiếp). Ngoài ra, trong mùa gió Tây Nam, có sự hình thành
các tâm chl-a cao ở các tầng nước, nhất là trong lớp nước ưu quang (0 - 60m), chúng
vận động và di chuyển khá phức tạp trong cột nước. Trong khi trong mùa chuyển tiếp,
sự hình thành các tâm chl-a cao không rõ ràng, các vùng chl-a cao và thấp xen kẽ
nhau dạng “da báo”.
3. Sinh vật phù du và thông lượng hạt
- Đã xác định được 295 loài Thực vật phù du. Tảo Silic và Tảo Hai roi chiếm
ưu thế về số lượng loài với 172 và 118 loài tương ứng. Tỉ lệ giữa các nhóm tảo
trong vùng nghiên cứu không khác nhau nhiều với các kết quả đã nghiên cứu
trước đây.
- Đã xác định được 415 loài Động vật phù du, trong đó có 15 loài lần đầu
tiên ghi nhận và bổ sung cho khu hệ Động vật phù du biển Việt Nam.
- Đã xác định được 111 loài và dưới loài tảo Sợi Bám trong đó các tảo Cầu
vôi chiếm hoàn toàn ưu thế với 87 loài tảo Cầu vôi vảy dị hình
(heterococcolithophorid - CVVDH) và 24 loài tảo Cầu vôi vảy đồng hình
(Holococcolithophorid - CVVĐH). S
ố lượng loài ghi nhận cao nhất trong đợt
khảo sát VG3 - mùa gió Tây Nam.
- Thành phần cá bột khá phong phú, đã xác định có đại diện của 93 họ thuộc
18 bộ, chiếm tỉ lệ chủ yếu nhất là họ cá Bống trắng (Gobiidae) chiếm 15% kế đến
là cá bột của họ cá Trỏng (Engraulidae) chiếm 14,23%; chủ yếu họ này là giống
cá cơm, cá bột của họ cá Đèn lồng (Myctophidae) là nhóm cá ở biển sâu chiếm
tới 7,7%, cá Khế
(Carangidae): 6,18%. Sau đó là cá bột của các họ: cá Đàn lia
(Callionymidae): 4,08%.
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
17
- Mật độ tế bào thường cao ở tầng 20-40m, và hầu như không đáng kể ở các
tầng nước có độ sâu trên 60m. Mật độ tế bào có xu thế cao trong mùa gió Tây
Nam hơn là trong thời kỳ chuyển tiếp, có sự khác biệt đáng kể về mật độ giữa 2
đợt khảo sát VG3 (7/2004) và VG7 (7/2004) dù rằng cả 2 đợt khảo sát trùng vào
thời kỳ bắt đầu mạnh của gió mùa Tây Nam hoặc trong khái niệm “hoạt động
mạnh” c
ủa nước trồi Nam Trung Bộ. Mật độ tế bào ở khu vực ven bờ độ sâu
<30m (đợt khảo sát bổ sung, tháng 5/2005) cao hơn gấp 5-6 lần so với khu vực
xa bờ của các chuyến khảo sát VG.
- Sinh vật lượng ĐVPD vào kỳ gió mùa Tây Nam (37 - 60mg/m
3
, 361 - 459
cá thể/m
3
) cao gấp 3 - 4 lần so với kỳ chuyển tiếp gió mùa (14 - 19mg/m, 114 -
159 cá thể/m
3
). Vùng phân bố mặt rộng Sinh vật lượng ĐVPD vào kỳ gió mùa
Tây Nam chủ yếu tập trung ở dải ven bờ từ Tuy Phong đến Khánh Hòa và vùng
ngoài khơi vùng biển Phú Yên, vào kỳ chuyển tiếp gió mùa vùng phân bố chủ
yếu nằm ở phần phía bắc và đông của vùng điều tra.
- Số lượng và mật độ trứng cá vào thời kỳ gió mùa Tây Nam thổi mạnh
(tháng 7) cao hơn vào thời kỳ chuyển mùa (tháng 4) từ 3-10 lần và cá bột là 1,5 -
3 l
ần. Phân bố của trứng cá - cá bột theo xu hướng là trứng cá xuất hiện nhiều ở
tầng mặt; khu vực tập trung trứng cá là vùng ven bờ từ nam Cam Ranh đến Vũng
Tàu và cá bột là vùng Đông Nam của cửa sông Cửu Long.
- Đa dạng loài tảo Cầu vôi thay đổi nhiều qua các kỳ khảo sát. Chỉ số đa
dạng cao nhất ghi nhận trong chuyến khảo sát VG3 (3.7) sau đó là VG8 (3.6) và
VG 4 (3.3). Các quần xã TVPDCN trong các kỳ khảo sát ở mức tương
đối ổn
định và khá tương đồng nhau, trong đó quần xã trong thời kỳ gió mùa Tây Nam
ổn định hơn.
- Mật độ tế bào tảo Cầu vôi trong vùng khảo sát cũng như mật độ vảy tự do
cao nhất trong mùa gió Đông Bắc và thấp nhất trong mùa gió chuyển tiếp từ
Đông Bắc sang Tây Nam. Tảo cầu vôi trong thời kỳ gió mùa Tây Nam có phân
bố tập trung trong độ sâu 50 - 70m với những đặc trưng khác biệt về thành phần
loài ư
u thế, Emiliania huxleyi ở phía bắc, ngoài khơi, và tầng nước sâu hơn của
khu vực khảo sát; và Gephyrocapsa oceanica ở phía nam, ven bờ và tầng nước
cạn hơn. Phân bố không gian của tảo cầu vôi dường như chịu tác động rõ rệt của
sự lưu chuyển khối nước trong khu vực khảo sát trong thời kỳ này.
- Đặc trưng khác biệt nhất của quần xã tảo Cầu vôi trong mùa gió Đông Bắc
là ư
u thế cao của Emiliania huxleyi và sau đó là Gephyrocapsa ericsonii của hầu
như toàn vùng khảo sát. Mật độ cao tại tầng 0-20m ở các trạm phía bắc, hầu như
cao toàn vùng ở tầng 40-60m và chỉ ở ngoài khơi các trạm phía nam ở tầng nước
sâu hơn 80m.
Bùi Hồng Long và những người khác
18
- Trong khu vực Nam Trung Bộ, thông lượng tảo Cầu vôi và tảo Silic đạt
đỉnh cao vào mùa gió Tây Nam, trong khi đó ở vùng thềm lục địa Sunda tảo Silic
có thông lượng rất cao vào thời kỳ gió mùa Đông Bắc.
Chỉ số nướctrồivà ENSO
UpIndex Chỉ số nướctrồi: TMI/SST
MEI Chỉ số ENSO Đabiến(NOAA) trongmùađông trước
⇒Chỉ số nướctrồi( Nghịch- ) chuẩntheo chukỳ lặpENSO
⇒Gió dọcbờ không phù hợpvớichukỳ lặpENSO
* T
òan bộ các gía trị đã đượcchuẩnhóatheophương sai
Upwelling Index, MEI & Wind
-2.5
-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
UpIndex
MEI
Crossshore
Alongshore Wind
Hình 1.7: Sơ đồ thể hiện mối liên quan của hiện tượng nước trồi (Up index với hiện
tượng ENSO)
B
án kính biến dạng
D
òng chảy biên hướng bắc
D
òng chảy biên hướng Nam
D
òng xiết lạnh
SSH
S
W
-
M
o
n
s
o
o
n
Sunda Shelf
Mô phỏng hiện tượng nước trồi
Biến dạng nén
Hình 1.8: Mô phỏng cơ chế của quá trình nước trồi trong vùng thềm lục địa
miền Trung Việt Nam
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
19
PHỤ LỤC 1.1: CÁC ĐẶC TRƯNG VẬT LÝ HẢI DƯƠNG VÙNG BIỂN
NAM TRUNG BỘ
107 108 109 110
107 108 109 110
9
10
11
12
13
9
10
11
12
13
N
E
o
o
NHA TRANG
PHAN RANG
PHAN THIẾT
VŨNG TÀU
Phú Quý
150
Modul dòng
(cm/s)
100
50
CA M - PU - CHI A
107 108 109 110
107 108 109 110
10
11
12
13
14
10
11
12
13
14
Nha Trang
Phan Rang
Phan Thiết
V
u
õn
g
T
a
ø
u
C
A
M
P
U
C
H
I
A
Tuy Hòa
N
o
E
o
25 cm/s
50 cm/s
75 cm/s
100 cm /s
Ghi ch ú:
107 108 109 110
107 108 109 110
10
11
12
13
14
10
11
12
13
14
Nha Trang
Phan Rang
Phan Thiết
V
u
õn
g
T
a
ø
u
C
A
M
P
U
C
H
I
A
Tuy Hòa
N
o
E
o
25 cm/s
50 cm/s
75 cm/s
100 cm/s
Ghi ch ú:
Hình 1. Vectơ dòng tầng 10m,
chuyến khảo sát VG7
Hình 2. Vectơ dòng tầng 10m,
chuyến khảo sát VG8
Hình 3. Vectơ dòng tầng 40m,
chuyến khảo sát VG3
Hình 1 H
ì
nh 2
Hình 3
Bùi Hồng Long và những người khác
20
Hình 4: Phân bố véc tơ dòng chảy tầng mặt do ảnh hưởng của trường gió Tây Nam
(08/2005). (Mơ hình 3D)
Hình 5: Phân bố véc tơ dòng chảy tầng 10m do ảnh hưởng của trường gió Tây Nam
(08/2005). (Mơ hình 3D)
107.0 107.
5
108.0 108.
5
109.0 109.5 110.0 110.5 111.0 111.
5
112.0
10.0
10.5
11.0
11.5
12.0
12.5
13.0
13.5
14.0
14.5
15.0
Vũng Tàu
Bình Thuận
Ninh Thuận
Khánh Hòa
Phú Yên
Bình Đònh
Quảng Ngãi
(Trường gió trung bình từ tháng 08/2005)
W
i
n
d
(
S
W
)
40 cm/s
10 cm/s
20 cm/s
107.0 107.5 108.0 108.5 109.0 109.
5
110.0 110.5 111.0 111.
5
112.0
10.0
10.5
11.0
11.5
12.0
12.5
13.0
13.5
14.0
14.5
15.0
Vũng Tàu
Bình Thuận
Ninh Thuận
Khánh Hòa
Phú Yên
Bình Đònh
Quảng Ngãi
(Trường gió trung bình từ tháng 08/2005)
W
i
n
d
(
S
W
)
40 cm/s
10 cm/s
20 cm/s
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
21
Hình 6: Phân bố dòng chảy thẳng đứng tại tầng độ sâu 10m do ảnh hưởng trường gió
Tây Nam (07/2005)
Hình 7: Phân bố năng suất sơ cấp tháng 7/2003 (mgC/m
2
/ngày)
-0.0150
-0.0100
-0.0050
0.0000
0.0050
0.0100
0.0150
0.0200
0.0250
0.0300
0.0350
0.0400
0.0450
0.0500
0.0550
0.0600
0.0650
W (cm/s)
Bùi Hồng Long và những người khác
22
Hình 8. Phân bố chl-a tầng 40m (VG3) Hình 9. Phân bố chl-a tầng 50m VG3)
Hình 10. Phân bố chl-a tầng 40m (VG7) Hình 11. Phân bố chl-a tầng 60m (VG7)
Chương I: HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI Ở VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
23
PHỤ LỤC 1.2: PHÂN BỐ CỦA SINH VẬT PHÙ DU KÍCH THƯỚC NANO
(NANOPLANKTON) TRONG VÙNG NƯỚC TRỒI NAM TRUNG BỘ
PHỤ LỤC 1.3: PHÂN BỐ CỦA THỰC VẬT PHÙ DU
(PHYTOPLANKTON) TRONG VÙNG NƯỚC TRỒI NAM TRUNG BỘ
Bùi Hồng Long và những người khác
24
Chú ý: (tháng 4/2004. Chú ý sự khác nhau ở thang tỉ lệ).
IV. CƠ CHẾ HÌNH THÀNH HIỆN TƯỢNG NƯỚC TRỒI TRONG
VÙNG BIỂN NAM VIỆT NAM
Do dòng chảy tầng mặt của Biển Đông phù hợp với gió mùa trong hai mùa
gió chính [Wyrtki, 1961], nên trường dòng có hướng gần như ngược nhau. Trong
mùa gió Tây Nam dòng có hướng chủ đạo là Tây Nam - Đông Bắc, rất thuận lợi
cho quá trình hình thành nước trồi vùng bờ (Coastal upwelling) trong vùng
[Wyrtki, 1961; LaFond, 1963; Các công trình nghiên cứu vùng nước trồi mạnh
Nam Trung Bộ, 1997; Lê Phước Trình và Nnk, 1981; Nguyễn Kim Vinh, 1981].
Trong đó phải nêu rằng, có trường hợp tốc độ dòng đã đạt trên 100cm/s trong lớp
nước tầng mặt biển (từ 0 đế
n 130m sâu). Điều này là hoàn toàn có thể xảy ra trong
trường hợp gió mùa mạnh [Wyrtki, 1961]. Số liệu phân tầng dòng chảy đo được
trong lớp nước từ mặt biển xuống độ sâu 130m cho thấy, trong mùa gió Tây Nam
có thể hình thành hai bức tranh của hoàn lưu ngang trong vùng biển Nam Việt
Nam. Thứ nhất đó là, hình thành một dòng chảy hướng đông, chảy từ bờ Việt Nam
ra ở vĩ độ khoảng 12
o
N [Wu et al, 1998]. Dòng chảy hướng bắc có tốc độ cực đại
Nha Trang
Phan Thiết
Tu
y
Hòa
Phan Rí
Phan Rang
Vũng Tàu